Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự - qua thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội : Luận văn ThS. Luật: 83801

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƢƠNG HỒNG TUẤN

B¶O §¶M QUYÒN CñA BÞ C¸O
TRONG HO¹T §éNG XÐT Xö C¸C Vô ¸N H×NH Sù QUA THùC TIÔN TßA ¸N NH¢N D¢N HUYÖN GIA L¢M,
THµNH PHè Hµ NéI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

DNG HNG TUN

BảO ĐảM QUYềN CủA Bị CáO
TRONG HOạT ĐộNG XéT Xử CáC Vụ áN HìNH Sự QUA THựC TIễN TòA áN NHÂN DÂN HUYệN GIA LÂM,
THàNH PHố Hà NộI
Chuyờn ngnh: Phỏp lut v quyn con ngi
Mó s: 838 01 01.07

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS HONG HNG HI

H NI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Dƣơng Hồng Tuấn


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CỦA BỊ CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN
HÌNH SỰ .............................................................................................. 7
1.1.

Khái niệm quyền con ngƣời và quyền con ngƣời của bị cáo........... 7


1.1.1. Khái niệm quyền con người .................................................................. 7
1.1.2. Khái niệm quyền con người của bị cáo ................................................. 8
1.2.

Khái niệm và đặc điểm bảo đảm QCN của bị cáo ......................... 13

1.2.1. Khái niệm bảo đảm QCN của bị cáo................................................... 13
1.2.2. Đặc điểm bảo đảm quyền con người của bị cáo ................................. 15
1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền con người của bị cáo .............................. 18
1.3.

Quy định của pháp luật Quốc tế về bảo đảm quyền con ngƣời
trong xét xử các vụ án hình sự. ........................................................ 29

1.3.1. Các quy định về quyền của những người bị cáo buộc phạm tội ......... 30
1.3.2. Chuẩn mực quốc tế về quyền con người trong xét xử hình sự ........... 32
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA
BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI........................ 37
2.1.

Tổ chức Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội ... 37

2.2.

Kết quả và hạn chế trong bảo đảm quyền con ngƣời của bị
cáo tại TAND huyện Gia Lâm ......................................................... 43

2.2.1. Kết quả ................................................................................................ 43
2.2.2. Một số bất cập hạn chế ........................................................................ 44



Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN BỊ CÁO
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ .................................................... 61
Quan điểm bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử
các vụ án hình sự ............................................................................... 61
3.1.1. Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự của Tòa án nhân dân cấp quận huyện phải đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng và gắn với nhiệm vụ cải cách tư pháp .................. 61
3.1.2. Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự của Tòa án nhân dân cấp quận huyện phải gắn với nhiệm
vụ xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự và tố tụng hình sự ........... 65
3.1.3. Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự của Tòa án nhân dân cấp quận huyện phải gắn với
nhiệm vụ kiện toàn các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử cùng cấp
theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền .................................... 70
3.1.4. Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự của Tòa án nhân dân cấp quận huyện phải phù hợp với
các chuẩn mực quốc tế về quyền con người ....................................... 75
3.2. Các giải pháp bảo đảm quyền bị cáo trong hoạt động xét xử....... 75
3.2.1. Về hoàn thiện pháp luật ...................................................................... 75
3.2.2. Nâng cao trình độ của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm thực hiện
nhiệm vụ xét xử ................................................................................... 77
3.2.3. Tăng cường công tác, kiểm tra, giám sát và hoạt động giám đốc
án của Tòa án ...................................................................................... 80
3.2.4. Nâng cao chất lượng hoạt động bổ trợ tư pháp, đồng thời phát huy
vai trò của Luật sư, các tổ chức trợ giúp pháp lý và vai trò giám sát
của Mặt trận tổ quốc, cơ quan báo chí trong hoạt động xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp quận huyện ........... 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 95

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 97
3.1.


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

CQTHTT:

Cơ quan tiến hành tố tụng

CRC

Công ước quốc tế về Quyền trẻ em

HĐXX:

Hội đồng xét xử


HTND:

Hội thẩm nhân dân

ICCPR

Công ước quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị năm 1966

LHQ

Liên Hợp Quốc

NTHTT:

Người tiến hành tố tụng hình sự

QCN:

Quyền con người

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân Tối cao

TTHS:


Tố tụng hình sự

UDHR

Tuyên ngôn thế giới về Quyền con
người năm 1948

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quyền con người là vấn đề luôn được các quốc gia trên thế giới quan
tâm, đặc biệt khi phải đối mặt với pháp luật và hoạt động tố tụng của cơ quan
nhà nước, người có thẩm quyền, ở đó họ dễ bị vi phạm quyền, họ trở thành
nhóm dễ bị tổn thương cần được bảo vệ.
Quan niệm về QCN đã được các nhà tư tưởng bàn đến từ thời cổ đại
và không ngừng được phát triển, bổ sung cùng với quá trình phát triển của

lịch sử nhân loại. Khi bàn đến quyền con người Jaeque Mourgeon trong
cuốn “Các quyền con người” đã cho rằng: Quyền con người trước hết được
hiểu là những đặc quyền tự nhiên mà con người có. Tuy nhiên các quyền
được cho là tự nhiên đó của con người không đương nhiên được tôn trọng,
mà cần có một khung cơ sở pháp lý để bảo vệ. Do đó thực hiện “Quyền”
cần có yếu tố pháp luật, cụ thể là pháp luật quốc gia, rộng hơn là pháp luật
quốc tế về quyền con người.
Việt Nam đã gia nhập từ rất sớm các điều ước Quốc tế về quyền con
người của Liên Hợp Quốc. Đảng và nhà nước Việt Nam rất coi trọng việc thúc
đẩy và bảo vệ quyền con người. Việt Nam tích cực xây dựng các văn bản pháp
luật trong nước để cụ thể hóa các điều ước Quốc tế về QCN. Quyền con người
trong giai đoạn xét xử đã được ghi nhận, bảo vệ trong Hiến pháp và pháp luật
hình sự Việt Nam. Những chủ trương, đường lối và biện pháp của Đảng và Nhà
nước đã có tác động tích cực đến chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp
trong đó có chất lượng xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND các cấp.
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân” [29, Điều 102 , Khoản 3].

1


Bị cáo là người bị cáo buộc thực hiện hành vi phạm tội phải bị trừng
trị. Tuy nhiên, việc trừng trị bị cáo phải đúng pháp luật và bảo đảm được
quyền con người, vừa có tác dụng răn đe, vừa có tác dụng giáo dục và
phòng ngừa chung.
Thực tiễn xét xử cho thấy rằng, còn có những trường hợp quyền của bị
cáo chưa được bảo đảm do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chính vì lẽ đó việc
nghiên cứu “Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử các vụ án hình

sự - qua thực tiễn TAND huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội” có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cấp thiết nhằm tìm ra các giải pháp bảo vệ quyền con người
của bị cáo trong tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Bảo đảm quyền con người (QCN) nói chung, QCN trong TTHS nói
riêng đã được nhiều tác giả nghiên cứu từ các góc độ và với các mức độ khác
nhau: Luận án “Mô hình tố tụng tranh tụng với việc bảo vệ quyền con người”
của tác giả Trần Công Thịnh; Luận văn “Bảo đảm quyền con người trong
hoạt động xét xử vụ án hình sự” của tác giả Ngô Thị Thanh; Luận văn “Bảo
vệ quyền của bị can, bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác
giả Phan Thị Hương Giang; Các đề tài trên nghiên cứu về bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hình sự. Từ góc độ nghiên cứu về bảo đảm QCN nói
chung có các công trình sau: Tác giả Trần Ngọc Đường "Quyền con người,
quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" do
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2004; Tác giả Đinh Văn Mậu
viết cuốn sách "Quyền lực Nhà nước và quyền con người" do Nhà xuất bản
Tư pháp xuất bản 2003; Tác giả Tưởng Duy Kiên với bài viết "Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người" do
Nhà xuất bản Nghề luật xuất bản năm 2004. Trong những công trình nghiên
cứu kể trên, các tác giả đã nghiên cứu khái niệm và các đặc điểm của Nhà
nước pháp quyền nói chung và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói

2


riêng; Các tác giả đi sâu nghiên cứu về mối quan hệ giữa QCN và quyền công
dân; Nghiên cứu xã hội học hoặc lí luận chung về Nhà nước, nghiên cứu vấn đề
bảo đảm QCN từ góc độ triết học.... Cho dù các tác giả có cách nhìn không
hoàn toàn giống nhau và nghiên cứu ở các mức độ khác nhau nhưng đều đưa ra
các giải pháp, kiến nghị bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền.

Ở góc độ pháp luật chuyên ngành, cũng có nhiều công trình nghiên cứu
về bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hoặc tư pháp hình sự được
công bố như: Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Huy Hoàng năm 2005
"Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay";
Đề tài khoa học do GS.TSKH Lê Văn Cảm, PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí,
PGS.TS Trịnh Quốc Toản đồng chủ biên "Những vấn đề lí luận về bảo vệ
quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong
giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam" xuất bản năm 2006; Đề
tài nghiên cứu khoa học của TS. Nguyễn Ngọc Chí - Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 2011 "Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ
quyền con người"; Luận án tiến sĩ Luật học Hà Nội năm 2008 của Nguyễn
Quang Hiền "Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam"; Sách
chuyên khảo của tác giả TS Trần Quang Tiệp do Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia xuất bản năm 2004 "Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố
tụng hình sự Việt Nam"; Luận án tiến sỹ Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh của Lại Văn Trình “Đảm bảo quyền con người của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam”... Một số công trình nghiên cứu
vấn đề từ góc độ tư pháp hình sự, bao gồm cả luật hình sự và luật TTHS. Các
công trình khác thì nghiên cứu từ góc độ TTHS, phạm vi nghiên cứu chủ yếu
xuất phát từ phân tích quyền và nghĩa vụ tố tụng của người tham gia tố tụng
mà chưa đi sâu nghiên các biện pháp đảm bảo quyền của bị cáo trong thực
tiễn xét xử tại một Tòa án cụ thể.

3


Các công trình trên đã nghiên cứu cơ bản về việc bảo đảm quyền con
người. Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu và mang
tính toàn diện, hệ thống và đồng bộ về vấn đề bảo đảm QCN của bị cáo trong
thực tiễn xét xử tại huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội. Do vậy, việc nghiên

cứu đề tài "Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử các vụ án hình
sự - qua thực tiễn TAND huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội" là cần thiết về
cả lí luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật trên thế giới và pháp luật Việt Nam
trong hoạt động tố tụng và thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, đưa ra các giải
pháp nhằm bảo đảm tốt hơn các quyền của bị cáo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận đảm bảo quyền bị cáo trong hoạt động xét
xử các vụ án hình sự.
- Phân tích các quy định pháp luật TTHS Việt Nam liên quan đến bảo
đảm quyền bị cáo, so sánh với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan.
- Đánh giá thực trạng đảm bảo QCN của bị cáo trong xét xử các vụ án
hình sự của Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm.
- Với việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử các vụ án hình
sự, luận văn đưa ra những giải pháp cụ thể bảo đảm quyền con người của bị
cáo trong xét xử các vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm,
Thành Phố Hà Nội
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng: Luận văn nghiên cứu bảo đảm các quyền của bị cáo
trong gia đoạn xét xử các vụ án hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu bảo đảm các quyền của bị cáo qua
thực tiễn xét xử các vụ án hình sự tại TAND huyện Gia Lâm từ năm 2013 đến nay.

4


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Luận văn dựa trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa (XHCN) làm
cơ sở phương pháp luận; Đặc biệt luận văn coi trọng những quan điểm, đường
lối của Đảng về cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người trong hoạt động
xét xử các vụ án hình sự trong Cương lĩnh chính trị, các Văn kiện của Đảng từ
Đại hội 3 VI đến đại hội XII.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng
các phương pháp nghiên cứu, như: Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương
pháp thống kê - so sánh, phương pháp điều tra xã hội học; Phương pháp kết
hợp lý luận với thực tiễn; Phương pháp lịch sử…
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Con người là vốn quý của tự nhiên và của xã hội. Một nhà nước dân
chủ tiến bộ cần đặt mục tiêu bảo vệ quyền con người lên trên hết. Việt Nam
đang và đang hội nhập và phát triển cùng với thế giới về mọi mặt kinh tế văn
hóa chính trị, xã hội. Đảng và nhà nước ta chú trọng phát triển xây dựng nhà
nước của dân, do dân, vì dân, một nhà nước pháp quyền, do đó cần một hệ
thống pháp luật đồng bộ bảo đảm cho sự phát triển các quyền tự do, dân chủ
của công dân.
Quyền con người được thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật, nhưng
nó thể hiện rõ ràng nhất là trong pháp luật hình sự. Trong pháp luật hình sự
đảm bảo quyền bị cáo là một trong những chế định quan trọng và phức tạp,
vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao. Từ trước đến nay, quyền
của bị cáo đã được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu song xung quanh khái
niệm, nội dung, bản chất chủ thể của quyền này còn nhiều ý kiến khác nhau.

5


Vì vậy, luận văn góp phần bổ sung, làm phong phú hơn lý luận về bảo đảm

quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử tại cấp sơ thẩm. Đây là
công trình đầu tiên đánh giá một cách khách quan, khoa học về bảo đảm
quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự-qua thực tiễn của
TAND huyện Gia Lâm, Thành Phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của luận văn
có thể là tài liệu tham khảo cho các đồng chí Thẩm phán, Luật sư, những
người tiến hành tố tụng khác và đối với cán bộ nghiên cứu, giảng dạy nói
riêng và những người quan tâm tìm hiểu về quyền con người nói chung. Do
vậy, việc nghiên cứu bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét
xử các vụ án hình sự của TAND huyện Gia Lâm là cần thiết. Từ đó, chúng ta
đề xuất các phương án nhằm củng cố cơ sở pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về bảo đảm quyền của bị cáo
trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét
xử hình sự tại Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền bị cáo trong hoạt động
xét xử.

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CÁO
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm quyền con ngƣời và quyền con ngƣời của bị cáo
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có

nhiều định nghĩa khác nhau (theo một tài liệu của Liên hợp quốc, có đến
gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố). Mỗi định nghĩa
tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định,
nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền
con người.
Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc
vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, định
nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thường được
trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con người là
những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo
vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ
mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép
(entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người.
Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác cũng thường được
trích dẫn, theo đó, quyền con người là những sự được phép (entitlements) mà
tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng
tộc, tôn giáo, địa vị xã hội...; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là
con người. Định nghĩa này mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên
(natural rights) [25, tr.39].
Một nét riêng biệt trong khái niệm về quyền con người là quyền con
người thuộc về cá nhân với tư cách một con người, người mà sẽ không thể bị

7


tước bỏ bản chất của họ trong bất kỳ hoàn cảnh nào; Vì vậy, những quyền này
thuộc về bản chất bên trong của trạng thái con người.
Quyền con người được các quốc gia công nhận đối với tất cả mọi cá
nhân. Nguyên tắc phổ quát và không thể chuyển nhượng của nhân quyền vì
thế được khẳng định vững chắc trong luật pháp nhân quyền quốc tế.

Quyền con người là đặc tính cố hữu của các thành viên trong thế giới
loài người. Quyền con người mang tính phổ quát và không thể chuyển
nhượng [38, tr.31].
Một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu tại Việt Nam đã nêu ra
những định nghĩa khác nhau về quyền con người “quyền con người thường
được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con
người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận
pháp lý quốc tế”.
Có thể nói QCN là các chuẩn mực được công đồng Quốc tế thừa nhận
và tuân thủ. Các chuẩn mực này được kết tinh từ các giá trị nhân văn của
toàn nhân loại, nó giúp cho mọi người được bảo đảm, được bảo vệ nhân
phẩm và có điều kiện phát triển đầy đủ năng lực cá nhân với tư cách là một
con người. Cho dù hiện nay cách nhìn nhận tại các quốc gia, các khu vực,
các tổ chức trên thế giới có những khác biệt nhất định, nhưng một điều rõ
ràng là QCN là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi
quốc gia, mọi xã hội, mọi chế độ chính trị và trong các giai đoạn lịch sử phát
triển của nhân loại.
1.1.2. Khái niệm quyền con người của bị cáo
Quyền con người là một trong các quyền quan trọng nhất được pháp
luật bảo đảm thực hiện và bảo vệ không bị xâm phạm
Quyền của bị cáo là những giá trị, nhu cầu và lợi ích vốn có của bị cáo
được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khi tham
gia vào quan hệ pháp luật TTHS trong giai đoạn xét xử.

8


Quyền con người, quyền công dân là một nội dung lớn của thế giới từ
xưa đến nay. Đây là giá trị cao quý, kết tinh từ nền văn hóa của tất cả các dân
tộc trên thế giới; Là tiếng nói chung, sản phẩm chung, mục tiêu chung,

phương tiện chung của mọi quốc gia, dân tộc, tôn giáo trên thế giới để bảo vệ
và thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi con người. Quyền con người là
nhận thức, là quan điểm mà các nước thừa nhận và phản ánh vào pháp luật
quốc gia. Đây là hướng đi tất yếu của xã hội nhằm tạo ra cơ chế bảo đảm thực
thi QCN. Việt Nam là một thành viên của Liên Hợp Quốc và là thành viên
của các Công ước Quốc tế về QCN. Chúng ta đã và đang thực hiện các giải
pháp để đảm bảo quyền con người. Chúng ta tích cực, chủ động tham gia hợp
tác với các tổ chức quốc tế trên các lĩnh vực để nhằm hoàn thiện và phát triển
các quy định pháp luật của Việt Nam phù hợp với các chuẩn mực Quốc tế về
quyền con người. Báo cáo kiểm điểm của Việt Nam trình Hội đồng nhân
quyền Liên Hợp Quốc ngày 08 tháng 5 năm 2009 tại Genver Thụy Sỹ khẳng
định “Nhà nước Việt Nam coi con người là mục tiêu và động lực của mọi
chính sách phát triển kinh tế, xã hội và luôn nhất quán trong việc đảm bảo và
thúc đẩy các quyền con người”. Việt Nam cần tích cực bảo vệ thành quả này
trong các lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực luật hình sự và tố tụng hình sự.
Hoạt động tố tụng hình sự bao gồm: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án hình sự. Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can để điều tra. Ở giai đoạn này, cơ quan điều tra có thẩm quyền
tiếp nhận tin báo tố giác tội phạm, tiến hành kiểm tra, xác minh sự việc xảy ra
có dấu hiệu tội phạm hay không để quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ
án hình sự. Sau khi khởi tố vụ án, cơ quan có thẩm quyền điều tra có trách
nhiệm, nghĩa vụ áp dụng các biện pháp nghiệp vụ cần thiết theo luật tố tụng
hình sự và các văn bản pháp luật quy định để thu thập chứng cứ nhằm xác
định tội phạm, người phạm tội. Hết giai đoạn điều tra là giai đoạn truy tố của

9


VKS. Tại giai đoạn này VKS ra quyết định truy tố bằng bản Cáo trạng hay
không truy tố bị can ra xét xử trước Tòa án. Tiếp theo là giai đoạn xét xử sơ

thẩm, lúc này Tòa án thụ lý, nghiên cứu hồ sơ để tiến hành giải quyết vụ án
bằng việc xét xử, ra bản án hoặc các quyết định. Các giai đoạn cho dù khác
nhau nhưng đều hướng đến mục đích chung là giải quyết các vấn đề của vụ án
hình sự. Các giai đoạn tuy độc lập nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau
tạo thành một trình tự thống nhất; giai đoạn trước làm cơ sở thực hiện giai
đoạn tiếp theo và giai đoạn sau kiểm tra lại từng bước giai đoạn trước. Chủ
thể thực hiện của từ giai đoạn thuộc các cơ quan khác nhau, chức năng khác
nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ và kiểm soát lẫn nhau. Đây là sự hoạt
động của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng của ba cơ quan:
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án.
Như vậy, hoạt động tố tụng hình sự trước hết bảo vệ quyền lợi cho
những người bị hại trước sự xâm phạm của tội phạm. Ở góc độ khác, TTHS
được nhìn nhận là quá trình Nhà nước đưa một người phạm tội xử lý trước
pháp luật. Khi thực hiện vấn đề này nó luôn thể hiện tính quyền lực, sức mạnh
cưỡng chế Nhà nước. Sự thiếu bình đẳng về thế và lực giữa người tiến hành tố
tụng và các bên tham gia quan hệ TTHS thể hiện rõ ràng, đặc biệt những
người bị buộc tội luôn bị yếu thế. Do đó, để đạt được mục đích của TTHS,
Pháp luật TTHS đều có những quy định về những biện pháp cưỡng chế tố
tụng bên cạnh các quy định xử lý trách nhiệm đối với các hành vi, quyết định
tố tụng ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Nói cách khác,
các ảnh hưởng của hoạt động TTHS của cơ quan và người có thẩm quyền tới
các quyền con người của bị can, bị cáo là tất yếu. Do đó, các hoạt động TTHS
được xem là nhóm “nguy cơ cao” khi nói đến vấn đề bảo vệ nhân quyền.
Trong lĩnh vực này, quyền con người của những người bị tình nghi phạm tội,
quyền của bị cáo dễ bị xâm phạm, dễ bị tổn thương và hậu quả để lại cũng đặc

10


biệt nghiêm trọng khi nó động chạm đến những quyền con người cơ bản như:

Quyền sống, quyền tự do đi lại, quyền được suy đoán vô tội, quyền được xét
xử nhanh chóng và công bằng, quyền bào chữa, quyền tranh luận.... Cho nên
khi đánh giá, xem xét tình trạng vi phạm quyền con người của một quốc gia,
người ta thường hướng vào lĩnh vực TTHS đặc biệt thể hiện rõ ràng nhất là tại
các phiên tòa xét xử công khai.
Tại Việt nam, văn bản pháp luật có giá trị cao nhất Hiến pháp năm
2013 quy định Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN… là một trong những nhiệm vụ chính.
Tòa án bảo vệ quyền con người, quyền công dân nói chung thông qua hoạt
động xét xử, rõ nét nhất là trong vụ án hình sự.
Theo quy định tại Điều 61 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì bị
cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Như vậy, bị can sẽ được gọi là bị cáo từ khi có quyết định xét xử, kể cả khi có
cáo trạng truy tố và hồ sơ đã chuyển sang tòa nghiên cứu thì trong thời gian
này vẫn gọi là bị can. Theo Bộ luật tố tụng năm 2015 có quy định thêm việc
bị cáo là pháp nhân. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực
hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đó. Cũng theo
khoản 2 của Điều 61 luật này đã qui định, bị cáo có các quyền:
Các quyền được nhận: Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định áp
dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; Quyết định đình chỉ vụ án;
bản án, quyết định của Toà án; Các quyết định tố tụng khác theo quy định
của Bộ luật này; Quyền tham gia phiên toà; Quyền được giải thích về quyền
và nghĩa vụ…
Bị cáo được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử trước 10 ngày để bị
cáo có thể kịp thời đề xuất việc triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa
thêm vật chứng ra xem xét tại phiên toà hay chuẩn bị các tài liệu chứng cứ
cho phiên tòa diễn ra, có thời gian mời Luật sư nếu thấy cần thiết.

11



Quyền được tham gia phiên toà: Đây vừa là quyền và nghĩa vụ của bị
cáo để trình bày về các vấn đề nhằm bảo vệ những lợi ích hợp pháp của mình.
Vì vậy, pháp luật qui định nếu bị cáo vắng mặt thì phiên toà sơ thẩm chỉ được
tiến hành trong những trường hợp đặc biệt theo khoản 2 Điều 290 Bộ luật
TTHS năm 2015 nhằm bảo đảm vụ án được xét xử toàn diện và công bằng.
Được giải thích về quyền và nghĩa vụ: Các bị cáo có trình độ văn hóa
khác nhau do đó nhận thức pháp luật cũng khác nhau. Việc giải thích rõ quyền
và nghĩa vụ của bị cáo giúp bị cáo nhận thức được vị trí vai trò trách nhiệm của
mình. Từ đó bị cáo mới bảo vệ được quyền lợi ích hợp pháp của mình.
Quyền được đề nghị thay đổi những người tiến hành tố tụng, người
phiên dịch, người giám định theo quy định của BLTTHS năm 2015; Quyền
khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng.. Các quyền này đảm bảo cho việc xét xử vô tư, khách quan.
- Nhóm quyền: Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Quyền tự mình bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; Quyền trình bày ý kiến và tranh luận tại
phiên toà; Quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án. Nhóm quyền này tạo ra
sự công bằng giữa bị cáo và cơ quan công tố.
- Được kháng cáo bản án sơ thẩm và quyết định của Toà án về tạm đình
chỉ hoặc đình chỉ vụ án. Đây là các quyền nhằm đảm bảo cho nguyên tắc xét
xử hai cấp theo Hiến pháp.
Có thể nói, các cơ quan tiến hành TTHS của nước ta trong thời gian
qua đã hoạt động tương đối hiệu quả, góp phần bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Bên cạnh đó nó góp phần giáo dục
ý thức mọi người tuân thủ pháp luật, tăng cường phòng ngừa và đấu tranh
phòng chống tội phạm.
Tuy nhiên thực tế vẫn còn tình trạng xét xử oan, sai, chưa đúng người,
đúng tội, bỏ lọt tội phạm. Trong 3 năm gần đây trên toàn quốc đã có 02 vụ án

12



oan trên 114.250 vụ án hình sự đã giải quyết. Mặc dù số lượng vụ án xét xử
oan so với tổng số án phải giải quyết thấp nhưng tình trạng này kéo dài sẽ ảnh
hưởng quyền, lợi ích cơ bản của công dân, ảnh tiêu cực đến xã. Án oan làm
suy giảm niềm tin của công dân vào các cơ quan, người tiến hành tố tụng và
tạo ra những bức xúc trong xã hội. Bản án là sự kết tinh cuối cùng của toàn bộ
các hoạt động tố tụng hình sự và thể hiện rõ quan điểm của Hội đồng xét xử.
Thông qua phiên tòa mọi chứng cứ, toàn bộ sự thật vụ án, hình phạt đối với bị
cáo và các vấn đề khác được sáng tỏ. Nếu có một phiên tòa công tâm và
khách quan thì sẽ có các phán quyết và chế tài phù hợp với người phạm tội.
Ngược lại, nếu một phiên tòa không đảm bảo thì sự vi phạm lại nối tiếp vi
phạm, các quyền con người không được đảm bảo, Hội đồng xét xử sẽ có
những phán quyết vi phạm đến quyền con người. Vì vậy, không sai khi nói
“Tòa án là cánh cửa và cơ hội cuối cùng, là cán cân công lý bảo vệ quyền con
người”. Từ những sự phân tích trên cho thấy quyền con người của bị cáo
trong hoạt động TTHS cần phải được quan tâm một cách sâu sắc và toàn diện,
đặc biệt là tại giai đoạn xét xử.
1.2. Khái niệm và đặc điểm bảo đảm QCN của bị cáo
1.2.1. Khái niệm bảo đảm QCN của bị cáo
Quyền con người là những giá trị, chuẩn mực, có tính khách quan gắn
bó với nhau trong mối tương quan biện chứng, vừa mang tính phổ biến nhưng
cũng có tính đặc thù, tính lịch sử - xã hội được thể hiện trong các lĩnh
vực chính trị, dân sự và kinh tế, văn hóa, xã hội được ghi nhận và bảo vệ bởi
pháp luật quốc gia và luật quốc tế. Bảo đảm quyền con người là trách nhiệm
và nghĩa vụ của mọi quốc gia trên thế giới. Hiến pháp Việt Nam năm 2013
khẳng định các quyền con người, quyền công dân về dân sự, chính trị, văn
hóa, kinh tế, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện
theo Hiến pháp và pháp luật.


13


Bị cáo tham gia tố tụng hình sự (TTHS), kể từ khi có quyết định đưa vụ
án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật
và bản án đó phải được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục luật định. Bị cáo
không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể của tội phạm mà mới chỉ là người bị
tình nghi đã thực hiện hành vi phạm tội. Với tư cách là cá nhân, quyền con
người của bị cáo bao gồm những giá trị, những lợi ích về vật chất và tinh thần
được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện phù hợp với các chuẩn mực
pháp lý quốc tế và tiến bộ xã hội.
Tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS, pháp luật quy định bị cáo có
các quyền và nghĩa vụ cơ bản được thể hiện trước hết trong Hiến pháp, Bộ
luật Hình sự (BLHS), Bộ luật Tố tụng hình sự (THHS), Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân (TAND), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh về Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân và các văn bản pháp luật khác. Ngoài các quy
định pháp luật trao quyền, để bảo đảm quyền con người của bị cáo, pháp luật
quy định về các nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
đặc biệt là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều tra, công tố
và xét xử. Trong mỗi hệ thống cơ quan này, pháp luật có những quy định
riêng, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan. Đối với hệ thống
cơ quan xét xử có các nguyên tắc như nguyên tắc xét xử độc lập chỉ tuân theo
pháp luật, xét xử kịp thời, công khai, công bằng; suy đoán vô tội, nguyên tắc
hai cấp xét xử… Đồng thời, để bảo đảm quyền con người của bị cáo, pháp
luật quy định về trách nhiệm của các chủ thể tiến hành và chủ thể tham gia tố
tụng. Đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, người bào chữa, người phiên dịch, người giám
định, người làm chứng.
Bảo đảm quyền con người, quyền công dân là việc tôn trọng, ghi nhận
các quyền đó bằng pháp luật; đồng thời, các chủ thể (cơ quan nhà nước, tổ


14


chức xã hội, cá nhân) phải thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm, tạo điều kiện
cho chủ thể của quyền sử dụng, thụ hưởng các quyền đó trên thực tế.
Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của
TAND cấp quận, huyện là việc ghi nhận, tôn trọng bằng pháp luật các quyền
của bị cáo; đồng thời, thông qua thực tiễn hoạt động xét xử tại phiên tòa các
chủ thể thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm bảo vệ các quyền của bị cáo cũng như
tạo ra các điều kiện cần thiết để bị cáo sử dụng các quyền của họ theo quy
định của pháp luật.
1.2.2. Đặc điểm bảo đảm quyền con người của bị cáo
Bị cáo tham gia tố tụng hình sự (TTHS), kể từ khi có quyết định đưa
vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp
luật và bản án đó phải được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục luật định.
Bị cáo không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể của tội phạm, mà họ mới
chỉ bị tình nghi là người đã thực hiện hành vi phạm pháp luật hình sự nên
họ có đặc điểm sau:
a. Bảo đảm quyền con người của bị cáo thường bị rào cản bởi sự phân
biệt, đối xử
Khi bị cáo tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS thì xuất hiện nhu cầu
cần phải bảo vệ các quyền con người của bị cáo. Bởi vì, xét về bản chất,
phương pháp điều chỉnh của ngành luật TTHS là phương pháp quyền uy để
tác động lên mối quan hệ giữa cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng với
người tham gia tố tụng (ở đây là bị cáo - người đã bị Tòa án quyết định đưa
vụ án ra xét xử). Trong quan hệ này không có sự thỏa thuận hay thương
lượng giữa Nhà nước và bị cáo mà sự bất bình đẳng luôn luôn thuộc về bị
cáo. Bị cáo phải phục tùng các quyết định của Nhà nước. Nói cách khác, vì
yêu cầu của nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống tội phạm, bảo đảm trật tự xã

hội Nhà nước phải sử dụng các biện pháp đối với bị cáo nhằm hạn chế một

15


số quyền của họ. Họ bị phân biệt đối xử trong việc hạn chế đi lại, tiếp cận
thông tin, tiếp cận các dịch vụ pháp lý... Một số trường hợp sau khi bị khởi
tố, bị can, bị cáo bị tạm đình chỉ công tác hoặc bị buộc cho thôi việc, bị kiểm
điểm, kỷ luật.... Trong cuộc sống hàng ngày họ thường bị mọi người dị nghị,
bản thân họ thì tự ty khi tiếp xúc với người khác, đây là những rào cản lớn
đối với bị cáo.
b. Bảo đảm quyền con người của bị cáo thường gặp khó khăn bởi
quyền của bị cáo dễ có nguy cơ bị xâm hại
Bị cáo luôn đối mặt với quyền lực nhà nước, thể hiện qua đội ngũ làm
nhiệm vụ tố tụng được đào tạo bài bản, có chuyên môn sâu, giàu về kinh
nghiệm và am hiểu về pháp luật. Do đó, bị cáo luôn ở thế yếu là đối tượng
yếu thế. Trong trường hợp này, các quyền con người của họ có “nguy cơ” bị
xâm phạm nếu không có các biện pháp bảo đảm và giám sát thực hiện. Một số
quyền có của bị cáo có nguy cơ dễ bị xâm hại như: Quyền được xét xử công
bằng, được suy đoán vô tội, quyền không được xét xử chậm trễ, quyền được
tự bào chữa hoặc thông qua người bào chữa.…
c. Bảo đảm quyền con người của bị cáo phụ thuộc vào nhiều nhân tố
khác nhau
- Sự độc lập, vô tư, khách quan của Tòa án: Theo Hiến pháp Việt Nam,
Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế sự độc lập của Tòa
án chỉ là tương đối. Do hiện nay, Tòa án còn phụ thuộc vào chính quyền địa
phương về cơ sở vật chất và công tác lãnh đạo chỉ đạo của cấp ủy địa phương.
Đặc biệt là các vụ án, các bị cáo liên quan đến an ninh, chính trị địa phương,
vụ án được dư luận quan tâm luôn thiếu đi tính độc lập và khách quan.

- Trình độ năng lực của người bào chữa: Trình độ năng lực của người
bào chữa hiện nay cũng cần phải được xem xét. Nếu so sánh thời gian đào tạo

16


hiện nay của một Luật sư sau khi tốt nghiệp cử nhân luật là 5 năm so với thời
gian đào tạo của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán là 9 -10 năm sau
khi tốt nghiệp cử nhân cho thấy có sự chênh lệch về trình độ nghiệp vụ. Hơn
nữa, đội ngũ những người tiến hành tố tụng được đào tạo, tập huấn thường
xuyên và định kỳ theo nhiều chuyên đề khác nhau, được sự hỗ trợ tập huấn từ
những người có trình độ chuyên môn pháp lý cao, trong khi đó các Luật sư
sau khi hành nghề chỉ dựa vào việc tự tìm hiểu và nghiên cứu văn bản pháp
luật. Đối với các nước phát triển, Luật sư thường là những người đã làm việc
lâu năm ngành tư pháp hoặc những cử nhân luật xuất sắc được đào tạo nghề
luật sư riêng, có như vậy chất lượng bào chữa của Luật sư mới được nâng cao.
- Quan điểm, đường lối của pháp luật trong từng thời kỳ: Luật pháp
luôn thay đổi cho phù hợp với thực tế cuộc sống. Do đó, các hình phạt đối với
người phạm tội cũng thay đổi qua từ thời kỳ, nó phụ thuộc và quan điểm
đường lối chính sách của nhà nước. Có những thời kỳ, để đấu tranh đối với
các tội phạm phức tạp thì hình phạt đối với các tội phạm này thường nghiêm
khắc. Khi tội phạm giảm xuống hoặc mức độ hành vi không còn nguy hiểm
cho xã hội nữa thì có thể loại tội này bị xóa bỏ do đó hình phạt đối với bị cáo
cũng thay đổi theo.
- Khối phục các quyền bị xâm hại phức tạm mất nhiều thời gian:
Con người ai cũng cần được cộng đồng tôn trọng nhân phẩm, danh dự.
Một người bị coi là tội phạm, những tác động tích cực hoặc tiêu cực sẽ đeo
đuổi người đó suốt đời. Nếu họ có bản lĩnh, giàu nghị lực sẽ quyết tâm xua
đuổi hình ảnh đen tối bị gán cho và họ sẽ hướng thiện, làm việc tốt, chứng
minh cho cộng đồng thấy sự cần thiết phải công nhận anh ta là một công dân

tốt. Tuy nhiên có những người không có nghị lực sẽ dẫn đến sa ngã, lấn sâu
vào việc phạm tội. Do đó việc khôi phục các quyền lợi đối với người bị xâm
hại do oan, sai phải được thực hiện nhanh chóng và kịp thời. Bị oan, tức là họ
đã mất một phần cuộc đời, có khi là cả cuộc đời.

17


Hiện nay, chúng ta đã có Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm
2009; Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2017 có hiệu lực ngày
1/7/2018, tuy nhiên việc áp dụng các luật này trong thực tế vẫn còn chưa kịp
thời, chưa giải quyết thấu đáo quyền và lợi ích của người bị xâm phạm.
1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền con người của bị cáo
Trong bộ máy nhà nước ta, vị trí của Tòa án nhân dân được thể hiện tại
Điều 102 của Hiến pháp: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.
Như vậy, Hiến pháp đã trao cho Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất
được thực hiện chức năng xét xử. Tòa án có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người. Mọi phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà
nước. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh, chính trị, kinh tế của con người
khi tham gia vào tố tụng. Do đó, Tòa án là cơ quan nhà nước quan trọng nhất
bảo đảm các quy định về quyền con người không bị xâm phạm trên thực tế.
Với chức năng, nhiệm vụ quan trọng Hiến pháp giao cho, mọi hoạt
động của Tòa án phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Tuy nhiên, vì
các lý do khác nhau mà việc thực hiện các nguyên tắc đó chưa thống nhất, có
lúc một số nguyên tắc không được thực hiện hay thực hiện không đúng dẫn
đến nhiều phiên tòa xét xử không đạt được mục đích đã đề ra.
Để quyền con người không bị xâm phạm trong hoạt động tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử, Tòa án nhân dân cần bảo đảm thực hiện đúng
và triệt để các nguyên tắc cơ bản sau:

- Nguyên tắc thứ nhất: Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công
dân, được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá

18


nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của
những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những
biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần
thiết [32, Điều 8].
Nguyên tắc này thể hiện bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đề
cao và tôn trọng quyền con người, vì lợi ích của con người. Đó là hệ thống
các quyền liên quan đến nhân thân: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể;
Quyền được bình đẳng trước pháp luật; Quyền được bảo hộ tính mạng, sức
khoẻ, tài sản, danh dự và nhân phẩm; Các quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở,
an toàn và bí mật thư tín, điện tín, điện thoại. Đây là các quyền cơ bản của
công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật. Các
quyền này được bảo đảm trên thực tế sẽ thể hiện rõ sự văn minh, tiến bộ của
TTHS, đề cao giá trị tốt đẹp của chế độ xã hội.
- Nguyên tắc thứ hai: Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, được
quy định tại BLTTHS năm 2015:
Tố tụng hình sự được tiến hành theo nguyên tắc mọi người
đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính,
tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội. Bất cứ người nào
phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.
Mọi pháp nhân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân
biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế [32, Điều 9].

Trong tố tụng hình sự, nguyên tắc này được hiểu là: Người nào
phạm tội, thì dù họ là ai cũng phải bị xử lý theo pháp luật hình sự, chứ
không được xử lý theo kiểu “xử lý nội bộ”. Không có “Vùng cấm” trong
việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Điều đó thể hiện,
tất các vụ án đều được tiến hành theo thủ tục, trình tự thống nhất do
BLTTHS quy định không có ngoại lệ. Không viện dẫn các lý do tín ngưỡng,

19


×