Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Lý luận và thực tiễn về sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01 07

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.52 KB, 89 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ TUYẾT LAN

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ ĐỂ GIAO KẾT
HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI

Chuyên ngành
Mã số

: Luật kinh tế
: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.


Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Tuyết Lan


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN TỔNG QUÁT VỀ SỰ THỐNG NHẤT Ý
CHÍ ĐỂ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ........................... 6
1.1. Khái luận về sự thống nhất ý chí.............................................................. 6
1.1.1. Bản chất và ý nghĩa pháp lý của hợp đồng ............................................ 6
1.1.2. Khái niệm sự thống nhất ý chí .............................................................. 8
1.2. Khái niệm hợp đồng thương mại ........................................................... 10
1.3. Nội dung của sự thống nhất ý chí hay sự thỏa thuận để giao kết hợp
đồng thương mại .......................................................................................... 13
1.3.1. Chủ thể của thỏa thuận ....................................................................... 13
1.3.2. Các thành tố của sự thỏa thuận ........................................................... 15
1.4. Điều kiện có hiệu lực của sự thống nhất ý chí........................................ 26
1.4.1. Khái quát chung về các điều kiện có hiệu lực của sự thỏa thuận ........... 26
1.4.2. Các điều kiện cụ thể của sự thỏa thuận ............................................... 27
1.4.3. So sánh thời điểm của sự thống nhất ý chí và thời điểm xác lập hiệu lực
của hợp đồng. ..................................................................................................28
1.5. Về các thỏa thuận không đủ tiêu chuẩn xác lập quyền và nghĩa vụ
pháp lý ......................................................................................................... 28
1.6. Pháp luật điều tiết sự thỏa thuận trong hợp đồng ................................... 29
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SỰ

THỐNG NHẤT Ý CHÍ ĐỂ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG
MẠI ..................................................................................................... 30
2.1. Cấu trúc và nguồn của pháp luật hợp đồng Việt Nam hiện nay.............. 30


2.1.1. Cấu trúc của pháp luật hợp đồng Việt Nam hiện nay .......................... 31
2.1.2. Nguồn của pháp luật hợp đồng Việt Nam hiện nay ............................. 32
2.2. Quy định pháp luật Việt Nam về yếu tố thỏa thuận của hợp đồng ............. 34
2.2.1. Quy định về chủ thể của sự thỏa thuận ............................................... 35
2.2.2. Qui định về đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng ............. 38
2.2.3. Điều kiện của sự thỏa thuận ................................................................ 44
2.2.4. Hiệu lực của sự thỏa thuận.................................................................. 49
2.3. Các bất cập chủ yếu của của pháp luật về sự thỏa thuận ........................ 50
2.3.1. Thỏa thuận do bị nhầm lẫn ................................................................. 51
2.3.2. Thỏa thuận do bị lừa dối ..................................................................... 54
2.3.3. Thỏa thuận do bị đe dọa...................................................................... 56
2.3.4. Thiệt thòi ............................................................................................ 57
2.4. Nguyên nhân của những bất cập ............................................................ 58
Chương 3: KIẾN NGHỊ VỀ KHUNG PHÁP LUẬT LIÊN QUAN
TỚI

SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ NHẰM GIAO KẾT HỢP

ĐỒNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM ............................................. 62
3.1. Quan niệm về khung pháp luật liên quan tới yếu tố thỏa thuận của hợp
đồng ............................................................................................................. 62
3.2. Kiến nghị lập pháp ................................................................................ 64
3.3. Kiến nghị thực hành .............................................................................. 73
3.4. Kiến nghị tư pháp .................................................................................. 77
KẾT LUẬN ......................................................................................... 81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................... 83


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
BẢNG 1.1....................................................................................18
BẢNG 1.2....................................................................................19
BẢNG 1.3....................................................................................25

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp đồng là một trong những chế định pháp lý có bề dày lịch sử, là nền
tảng của giao lưu dân sự nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng. Cùng
với toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại, người ta ngày càng đòi hỏi nhất thể
hóa pháp luật hợp đồng trên quy mô khu vực và toàn cầu.
Sự ra đời của Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam đã góp phần giải
quyết được phần nào sự tản mạn và thiếu thống nhất của những quy định pháp
luật hợp đồng. Nó đồng thời hợp nhất nhiều văn bản pháp luật hợp đồng có
giá trị pháp lý khác nhau như Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, Bộ luật Dân
sự 1995, và Luật Thương mại 1997, cùng với một số đạo luật chuyên ngành
khác. Có thể nói pháp luật hợp đồng hiện nay của Việt Nam đã dần dần trở
thành một hệ thống, và ngày càng được làm tương thích với pháp luật thế giới
và là một phần quan trọng của pháp luật quốc gia.
Nói đến hợp đồng là nói đến “sự thống nhất ý chí”. Dù ở nền tài phán
nào, người ta đều thừa nhận: “Hợp đồng là sự thỏa thuận có hiệu lực pháp lý
bắt buộc”, có nghĩa là sự thống nhất ý chí là yếu tố cơ bản và không thể thiếu
của hợp đồng. Phải có sự tồn tại của một sự thỏa thuận hợp pháp thì mới có

hợp đồng. Như vậy, nghiên cứu về yếu tố thỏa thuận bao giờ cũng là cần thiết
để hiểu đúng bản chất của hợp đồng nói chung, nhất là trong bối cảnh hiện
nay Việt Nam đang sửa đổi một cách toàn diện Bộ luật Dân sự 2005 - một bộ
luật nền tảng của hợp đồng.
Về mặt lý luận cho thấy còn nhiều sai sót về kỹ thuật pháp lý, cũng như
tư tưởng pháp lý liên quan tới việc điều chỉnh hợp đồng trong các văn bản qui
phạm pháp luật ở Việt Nam, nhất là trong Bộ luật Dân sự 2005. Thực tiễn
giao kết hợp đồng trong hoạt động kinh doanh, thương mại ở Việt Nam thời
2


gian qua cho thấy: hợp đồng được giao kết hầu hết thông qua thói quen, mà
không có độ thuần thục về kỹ năng pháp lý. Trong khi đó, xu hướng hội nhập
đang mở ra rất nhiều cơ hội và cả thách thức cho thương nhân Việt Nam.
Những hợp đồng được giao kết với người nước ngoài ngày càng gia tăng. Vì
vậy sự không hiểu biết trong một chừng mực nào đó về pháp luật hợp đồng có
thể dẫn đến những hậu quả đáng tiếc về kinh tế, cũng như về mối quan hệ làm
ăn quốc tế. Trong các vấn đề pháp lý cần có trong giao thương quốc tế, sự
thỏa thuận hay thống nhất ý chí hiểu theo nghĩa pháp lý thông qua các thành
tố đề nghị và chấp nhận, cũng như năng lực giao kết… có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu.
Bởi các lẽ đó, tôi xin lựa chọn đề tài “Lý luận và thực tiễn về sự
thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại” làm đề tài luận văn
thạc sĩ luật học của mình, qua đó có được cái nhìn tổng quan về vấn đề, thấy
được những điểm tiến bộ và thiếu sót của pháp luật Việt Nam để tìm hướng
khắc phục, góp phần vào quá trình thống nhất và hoàn thiện hệ thống pháp
luật hợp đồng của Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Luật hợp đồng là nền tảng của luật kinh doanh.Tìm hiểu luật hợp đồng
là thiết yếu đối với những người mong muốn tiến hành kinh doanh. Bởi thế

các quy định về hợp đồng luôn được giới luật học và cả các cá nhân, thương
nhân quan tâm tìm hiểu. Nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã
được công bố. Đặc biệt ở Việt Nam hiện nay có các công trình nổi bật sau: (1)
“Giáo trình luật hợp đồng phần chung” (Dùng cho đào tạo sau đại học) của
PGS. TS. Ngô Huy Cương xuất bản tại Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà
Nội năm 2013; (2) “Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” của
TS. Nguyễn Ngọc Khánh xuất bản tại Nhà xuất bản Tư pháp năm 2007; (3)
“Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án” (Sách chuyên khảo)
3


của PGS.TS. Đỗ Văn Đại xuất bản tại Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm
2008; và (4) “Bình luận các hợp đồng thông dụng trong luật dân sự Việt
Nam” của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Điện tại Nhà xuất bản Trẻ năm 2001. Đây
là các công trình có tầm cỡ của nền luật học Việt Nam có ý nghĩa rất lớn về lý
luận và thực tiễn. Ngoài ra còn có một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ
nghiên cứu một số vấn đề liên quan tới đề tài Luận văn này.
Kế thừa các công trình đó, tác giả luận văn này tập trung nghiên cứu
chuyên biệt về khía cạnh lý luận và thực tiễn của sự thống nhất ý chí tạo lập
hợp đồng thương mại.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Luận văn có các mục đích sau:
+ Tìm hiểu tính hệ thống của các vấn đề lý luận liên quan tới các thành
tố tạo nên sự thỏa thuận mà trong đó bao gồm đề nghị giao kết hợp đồng, và
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng;
+ Phân tích thực trạng các qui định của pháp luật liên quan và thực tiễn
thi hành chúng;
+ Kiến nghị hoàn thiện các qui định về thống nhất ý chí giao kết hợp
đồng thương mại.
Luận văn chỉ nghiên cứu các vấn đề chung của sự thống nhất ý chí giao

kết hợp đồng thương mại, không đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề của luật
chuyên ngành liên quan tới hợp đồng. Luận văn cũng không phân tích, đánh
giá thực trạng, cũng như thi hành các qui định của các văn bản pháp luật
chuyên ngành.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu dựa trên
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật.
4


Các phương pháp được sử dụng trong Luận văn bao gồm (1) các nhóm
phương pháp liên quan tới nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn nói chung
như: phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, phương pháp hệ thống hóa,
phương pháp lịch sử…; và (2) các nhóm phương pháp nghiên cứu riêng của
khoa học pháp lý như: phương pháp so sánh pháp luật, phương pháp mô hình
hóa các quan hệ xã hội để điều chỉnh pháp luật, phương pháp phân tích qui
phạm, và phương pháp phân tích tình huống, vụ việc.
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
có kết cấu bao gồm 03 chương như sau:
Chương 1: Lý luận tổng quát về sự thống nhất ý chí để giao kết hợp
đồng thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về sự thống nhất ý chí để
giao kết hợp đồng thương mại.
Chương 3: Kiến nghị về khung pháp luật liên quan tới sự thống nhất ý
chí để giao kết hợp đồng thương mại ở Việt Nam.

5



Chương 1
LÝ LUẬN TỔNG QUÁT VỀ SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ
ĐỂ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái luận về sự thống nhất ý chí
1.1.1. Bản chất và ý nghĩa pháp lý của hợp đồng
Ở bất kỳ nền tài phán nào, người ta cũng đều thừa nhận: Hợp đồng là
sự thống nhất ý chí nhằm làm phát sinh ra mối quan hệ pháp lý giữa các bên
trong quan hệ hợp đồng. Mối quan hệ pháp lý ở đây có thể hiểu là quan hệ
nghĩa vụ giữa các chủ thể bình đẳng hoặc mối quan hệ hành chính được phát
sinh quan hệ hợp đồng hành chính. Dù có nhận thức giống nhau về khái niệm
hợp đồng như vậy, song cách thức định nghĩa về hợp đồng có sự khác nhau
nhất định. Chẳng hạn:
Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp tại Điều 1101 định nghĩa “Hợp đồng là
sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều chủ thể phải chuyển giao một vật, làm hay
không làm một công việc vì lợi ích của một hay nhiều chủ thể khác”. Định
nghĩa này nhấn mạnh tới đối tượng của hợp đồng.
Bộ luật Dân sự Philippin tại Điều 1305 định nghĩa “Hợp đồng là sự
thống nhất ý chí giữa các bên, mà theo đó mỗi bên tự ràng buộc mình trên cơ
sở tôn trọng bên kia để đưa một cái gì đó hoặc trả cho một dịch vụ nào đó”.
Định nghĩa này chú ý tới hiệu lực ràng buộc của hợp đồng kết hợp với mục
đích của sự ràng buộc.
Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam tại Điều 388 định nghĩa “Hợp đồng
dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự”. Định nghĩa này thiên về hậu quả phát sinh từ căn cứ
hợp đồng.
Các định nghĩa trên tuy có cách thể hiện khác nhau phù hợp cách thức lập
6



pháp của từng quốc gia, nhưng nói chung đều nói rõ bản chất của hợp đồng sự
thỏa thuận hay sự thống nhất ý chí có hiệu lực pháp lý. Các luật gia theo truyền
thống pháp luật Anh - Mỹ thường đưa ra các định nghĩa hợp đồng ngắn gọn hơn,
ví dụ: “Thực chất, hợp đồng là sự thỏa thuận mà tòa án cưỡng chế thi hành” [28,
tr.7]. Định nghĩa này gián tiếp nói tới hiệu lực pháp lý của hợp đồng.
Trong khoa học pháp lý, hành vi pháp lý là một sự thể hiện ý chí nhằm
làm phát sinh ra một hậu quả pháp lý, có nghĩa là làm phát sinh, thay đổi hay
chấm dứt một quyền lợi [4, tr.16]. Hành vi pháp lý bao gồm hợp đồng và
hành vi pháp lý đơn phương. Hợp đồng có bản chất là sự thống nhất của các ý
chí nhằm làm phát sinh hậu quả pháp lý. Còn hành vi pháp lý đơn phương là
việc thể hiện ý chí của chỉ một người nhằm làm phát sinh hậu quả pháp lý.
Đây là các căn cứ rất quan trọng để tạo lập quyền lợi.
Trong thực tiễn đời sống xã hội, mỗi bên trong quan hệ hợp đồng
thường theo đuổi những lợi ích nhất định của riêng mình. Do đó hợp đồng
chính là kết quả của sự dung hòa các lợi ích đối lập nhau giữa họ với nhau. Để
có được lợi ích đó, các bên buộc phải có sự thỏa thuận. Hợp đồng là sự thống
nhất ý chí để làm phát sinh một hệ quả pháp lý đặc biệt - đó là quan hệ nghĩa
vụ mà trong đó có hai loại chủ thể khác nhau: người có quyền yêu cầu và
người có nghĩa vụ. Trong quan hệ này người có nghĩa vụ phải thi hành nghĩa
vụ của mình vì lợi ích của người có quyền yêu cầu. Và người có quyền yêu
cầu có quyền được thỏa mãn quyền yêu cầu của mình bằng sự đòi hỏi người
có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của họ vì lợi ích của chính mình. Việc thi
hành nghĩa vụ bị cưỡng chế bởi pháp luật.
Xuất phát từ đó có thể thấy, hợp đồng có hai vấn đề pháp lý cơ bản - đó
là: (1) Hợp đồng là sự thống nhất của hai ý chí cá biệt; và (2) Sự thống nhất ý
chí đó phải có giá trị pháp lý, có nghĩa là phải hội đủ các điều kiện có hiệu lực
do pháp luật qui định.
7



1.1.2. Khái niệm sự thống nhất ý chí
Sự thống nhất ý chí hay còn gọi là sự thỏa thuận chính là sự gặp gỡ của
hai hay nhiều ý chí được thể hiện ra bên ngoài. Đây là yếu tố đầu tiên của hợp
đồng. Không thể có hợp đồng nếu không có sự thỏa thuận giữa các bên. Thỏa
thuận có thể là trực tiếp như gặp mặt, điện thoại, chat… hoặc gián tiếp như
gửi thư qua bưu điện, fax… Sự thỏa thuận ở đây có nghĩa là cùng nhau thể
hiện và trao đổi ý chí giữa các bên.
Hợp đồng đòi hỏi sự thỏa thuận hay thống nhất ý chí được hình
thành một cách hợp pháp, có nghĩa là đáp ứng được các yêu cầu của pháp
luật, bao gồm:
(1) Sự thống nhất ý chí nội tại, tức là ý chí bên trong và sự thể hiện ra
bên ngoài của các chủ thể; và
(2) Ý chí của các bên gặp gỡ nhau.
Các điều kiện này cho thấy mọi nội dung thỏa thuận không phù hợp
với ý chí thực của các bên có thể và cần phải dẫn đến việc không thừa nhận
giá trị pháp lý của hợp đồng. Trong khi đó ý chí là một hiện tượng thuộc lĩnh
vực tinh thần rất khó nắm bắt. Trong hợp đồng, có thể do nhận thức, hiểu biết,
thậm chí do những mưu đồ riêng của một bên chủ thể, hay có thể do sự không
rõ ràng của ngôn từ mà việc thực hiện hợp đồng đôi khi gặp phải khó khăn.
Do đó, yếu tố thỏa thuận luôn được đặt ra và dễ gây tranh cãi nhất. Hợp đồng
là sự thỏa thuận, nhưng không phải bất cứ thỏa thuận nào cũng là hợp đồng.
Và cũng không cần sự thỏa thuận trực tiếp mới có quan hệ hợp đồng. Thỏa
thuận có thể ngầm định xét theo hoàn cảnh. Bởi vậy, hoàn cảnh, địa điểm và
thời gian, các bên tham gia,… tất cả phải được xem xét gắn liền với thỏa
thuận. Điều này cũng được áp dụng khi xem xét hiệu lực của thỏa thuận. Ví
dụ một thỏa thuận được đưa ra trong hoàn cảnh cấp bách, một trong các bên
bị đe dọa về tinh thần… thì không thể được xem là một thỏa thuận hợp pháp
8



và có hiệu lực thi hành.
Một sự thỏa thuận hay thống nhất ý chí luôn luôn có hai thành tố là đề
nghị và chấp nhận đề nghị. Do đó trong hợp đồng người ta luôn luôn xem xét
tới đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Hai
thành tố này của sự thỏa thuận có các tiêu chuẩn luật định.
Tuy nhiên, hợp đồng chỉ được coi là hình thành khi đã đạt được sự thỏa
thuận tại những điều khoản cơ bản. Các bên phải xác định được đâu là điểm
mấu chốt của vấn đề, từ đó có sự thỏa thuận sâu vào những điều khoản đó,
không nên thỏa thuận chung chung, thỏa thuận về những vấn đề thứ yếu, vừa
không hiệu quả vừa làm mất thời gian của các bên.
Một sự thỏa thuận hay một hợp đồng phải hướng tới những đối tượng
nhất định. Điều kiện quan trọng nhất mà các bên cần phải thỏa thuận trước hết
cũng là đối tượng của hợp đồng, sau đó mới đi vào thỏa thuận các điều khoản
còn lại. Tùy thuộc vào tính chất và nội dung của từng thỏa thuận cụ thể mà
chủ đích của nó là khác nhau.
Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Hồi giáo Iran qui định cụ thể:
“Điều 214
Đối tượng của giao dịch nhất thiết phải là tài sản hoặc hành vi mà hai
bên đồng ý giao hoặc thực hiện.
Điều 215
Đối tượng của hợp đồng nhất thiết có khả năng được sở hữu và nhất
thiết bao gồm lợi ích hợp lý và chính đáng.
Điều 216
Đối tượng của giao dịch không nên mơ hồ trừ trường hợp đặc biệt khi
nhận thức chung về vấn đề này là đầy đủ”.
Như vậy, chủ đích của sự thỏa thuận bao gồm tài sản hoặc hành vi. Tài
sản có thể là tài sản hữu hình hoặc tài sản vô hình, hành vi có thể là công việc
9



phải làm hoặc công việc không được thực hiện…Những tài sản hay hành vi
đó phải là hợp pháp, được xác định cụ thể, đáp ứng được một lợi ích nào đó
(vật chất hoặc tinh thần) cho chủ thể có quyền. Đây là nguyên tắc cơ bản mà
bất cứ pháp luật của hệ thống nào cũng ghi nhận.
Một thỏa thuận hướng đến chủ đích như vậy sẽ làm phát sinh hậu quả
pháp lý: xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong
thỏa thuận; đáp ứng những nhu cầu hay lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần
mà chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia thỏa thuận. Đây là mục đích
của thỏa thuận và cũng chính là cơ sở xác lập mục đích của hợp đồng. Mục
đích này sẽ được biểu hiện thông qua chính nội dung của thỏa thuận và áp đặt
lên các đối tượng mà thỏa thuận hướng tới.
1.2. Khái niệm hợp đồng thương mại
Người ta thường lấy việc phân biệt giữa hành vi dân sự và hành vi
thương mại làm nền tảng cho việc phân biệt giữa luật dân sự và luật thương
mại. Thông thường luật thương mại là luật riêng điều tiết các loại hợp đồng
thương mại trong sự so sánh với luật dân sự là luật chung chứa đựng các qui
định áp dụng không chỉ riêng cho hợp đồng dân sự mà còn áp dụng cho cả
các loại hợp đồng thương mại trong trường hợp luật thương mại không có
qui định có thể áp dụng cho một hoặc một số tranh chấp phát sinh từ các
loại hợp đồng này. Việc phân biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng
thương mại có một số ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhất định. Vì vậy nó lý
giải cho việc Unidroit (Tổ chức thống nhất luật tư của thế giới) đã cất công
soạn thảo Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế (năm
1994 và năm 2004).
Như trên đã lý giải hợp đồng là một loại hành vi pháp lý bên cạnh hành
vi pháp lý đơn phương. Do đó có thể hiểu hợp đồng thương mại là hành vi
thương mại mà hành vi thương mại là hành vi pháp lý có tính cách thương
10



mại [4, tr.106]. Việc phân biệt giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại nói
chung cũng chính là nền tảng quan trọng để phân biệt giữa hợp đồng dân sự
và hợp đồng thương mại.
Luật Thương mại 1997 của Việt Nam định nghĩa tại Điều 5, khoản 1
rằng: “Hành vi thương mại là hành vi của thương nhân trong hoạt động
thương mại làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân với nhau
hoặc giữa thương nhân với các bên có liên quan”. Điều 45 của đạo luật này
liệt kê cụ thể các hành vi thương mại như sau:
“Hành vi thương mại theo quy định của Luật này gồm:
1- Mua bán hàng hoá;
2- Đại diện cho thương nhân;
3- Môi giới thương mại;
4- Uỷ thác mua bán hàng hoá;
5- Đại lý mua bán hàng hoá;
6- Gia công trong thương mại;
7- Đấu giá hàng hóa;
8- Đấu thầu hàng hoá;
9- Dịch vụ giao nhận hàng hoá;
10- Dịch vụ giám định hàng hoá;
11- Khuyến mại;
12- Quảng cáo thương mại;
13- Trưng bày giới thiệu hàng hoá;
14- Hội chợ, triển lãm thương mại”.
Theo Điều này, hợp đồng thương mại đã bị bó hẹp như vậy, có nghĩa là
hợp đồng trong lĩnh vực kể trên được xem là hợp đồng thương mại. Hện nay
Luật Thương mại 2005 đã không đi theo khuynh hướng qui định như vậy nữa,
nhưng lại khó xác định ranh giới của hợp đồng dân sự và hợp đồng thương
11



mại. Điều 3, khoản 1 của đạo luật này định nghĩa: “Hoạt động thương mại là
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác”. Thực chất điều luật này cho rằng hợp đồng thương mại là các hợp
đồng nhằm mục đích sinh lợi kể cả có hoặc không gắn liền với hoạt động của
thương nhân. Khuynh hướng này gần gũi với quan niệm của Liên hiệp quốc
xem thương mại bao gồm hầu hết các dạng hoạt động kinh tế [1, tr.35]. Uỷ
ban Liên hiệp quốc về luật thương mại quốc tế đã xác định trong đạo luật mẫu
về thương mại điện tử do Uỷ ban này soạn thảo như sau: “Thuật ngữ “thương
mại”/commerce/cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề
nảy sinh ra từ mọi mối quan hệ mang tính chất thương mại, dù có hay không
có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính thương mại /commercial/ bao gồm,
nhưng không phải chỉ bảo gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch
thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; thoả thuận
phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại; uỷ thác hoa hồng (factoring), cho
thuê dài hạn (leasing); xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình
(engineering); đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận khai thác
hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác công nghiệp
hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hoá hay hành khách bằng đường biển,
đường không, đường sắt hoặc đường bộ”.
Theo PGS. TS. Ngô Huy Cương, cho đến nay, người ta vẫn chưa đưa ra
được một định nghĩa có tính cách khoa học đối với hành vi thương mại ngoài
cách thức liệt kê. Nhưng đã có nhiều công trình nghiên cứu làm rõ được phần
nào các yếu tố của một hành vi thương mại. Ông cho rằng: trong nền kinh tế
thị trường, các thương nhân tham gia tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc sản
xuất, mua bán, trao đổi hàng hoá. Vậy về nguyên tắc, các hành vi được thực
hiện trong mối quan hệ Tiền- Hàng- Tiền mà được biểu diễn một cách cụ thể
12



bằng công thức T- H- T'. Và về mặt pháp lý, người ta phân tích hành vi
thương mại thành hai yếu tố hay nói cách khác hành vi thương mại có hai yếu
tố là mua vào và bán ra [4, tr.109].
Nếu xem các đạo luật tư, nhất là liên quan đến hợp đồng, thông thường
chỉ được sử dụng trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, thì Điều 29 của Bộ
luật Tố tụng Dân sự 2004 có vai trò quan trọng. Tại điều luật này nhà làm luật
đã xác định các tranh chấp được gọi là tranh chấp thương mại phải do thương
nhân thực hiện và vì mục tiêu lợi nhuận.
Từ đó có thể hiểu hợp đồng thương mại là hợp đồng vì mục tiêu lợi
nhuận được giao kết giữa thương nhân với thương nhân hoặc giữa thương
nhân với người thường mà pháp luật xác định có tính chất thương mại.
Việc thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại về bản chất
không có sự khác biệt quan trọng nào, song về nội dung có một số điểm khác
biệt liên quan tới chủ thể của sự thống nhất ý chí và mục đích của sự thống
nhất ý chí.
1.3. Nội dung của sự thống nhất ý chí hay sự thỏa thuận để giao kết
hợp đồng thương mại
1.3.1. Chủ thể của thỏa thuận
Sự thống nhất ý chí hay sự thỏa thuận đòi hỏi phái có từ 2 người trở
lên. Trường hợp đặc biệt chỉ có 1 bên chủ thể. Ví dụ: A giám hộ cho B, quản
lý tài sản của B, thiết lập thỏa thuận cho thuê tài sản của B mà A chính là
người thuê (trong pháp luật Việt Nam phải có sự đồng ý của người giám sát
giám hộ), hay A ủy thác cho B bán tài sản và B cũng chính là người
mua…Tuy nhiên dù thực tế là 1 chủ thể nhưng chủ thể này lại thể hiện với 2
tính cách khác nhau, do đó vẫn có thể coi là 2 chủ thể của sự thỏa thuận.
Chủ thể của sự thỏa thuận có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, hoặc các
tổ chức khác. Nếu là cá nhân, phải đảm bảo có đủ năng lực hành vi tham gia
13



thỏa thuận. Tùy từng trường hợp mà xem xét hiệu lực pháp lý của những thỏa
thuận do những người bị hạn chế hay chưa đủ năng lực hành vi tạo lập. Bộ
luật Dân sự của Pháp tại Điều 1108 quy định các điều kiện để hợp đồng có
hiệu lực, trong đó các bên giao kết phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
Như vậy, để thỏa thuận trở thành hợp đồng thì cũng đòi hỏi yêu cầu này. Điều
211, Bộ luật Dân sự Cộng hòa Hồi giáo Iran quy định các bên nhất thiết phải
ở một độ tuổi nhất định, đã trưởng thành và có nhận thức thích hợp. Bộ luật
Dân sự 2005 của Việt Nam yêu cầu người giao kết hợp đồng có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ. Vệc có năng lực hành vi dân sự đầy đủ cũng chính là
một trong những điều kiện cần để trở thành thương nhân thể nhân ở bất kể hệ
thống pháp luật nào.
Nếu chủ thể của sự thống nhất ý chí là pháp nhân hay tổ chức khác thì
phải có đủ năng lực để tiến hành giao dịch, đang hoạt động bình thường và
hợp pháp tại thời điểm thỏa thuận… Các vấn đề về ủy quyền, đại diện... phải
hợp pháp và chính đáng. Các qui tắc này là các qui tắc chung áp dụng cho cả
pháp nhân công và pháp nhân tư mà trong đó có cả thương nhân pháp nhân.
Rõ ràng một thương nhân không được phép hoạt động ngân hàng không thể
huy động tiền gửi trong dân chúng và cho vay bởi bản thân thương nhân này
không có năng lực giao kết các hợp đồng nhân tiền gửi và hợp đồng tín dụng
ngân hàng.
Chủ thể có thể tự mình tham gia thỏa thuận, hoặc cũng có thể thông qua
người đại diện của họ. Tuy nhiên người đại diện phải có quyền đại diện. Việc
thể hiện ý chí của người đại diện sẽ ràng buộc người được đại diện, bởi thế họ
cũng phải có ý chí đại diện và ý chí thỏa thuận, giao kết hợp đồng. Thông
thường đại diện được đặt ra khi có bên chủ thể là pháp nhân hoặc người mất
hoặc chưa có năng lực hành vi.

14



1.3.2. Các thành tố của sự thỏa thuận
Để tiến hành thỏa thuận, các bên có thể trực tiếp gặp nhau và đàm
phán. Một trong các bên khởi xướng đàm phán bằng chào hàng hoặc dự thảo
hợp đồng. Các bên có thể theo qui trình thỏa thuận từng điều khoản. Khi điều
khoản còn lại cuối cùng được thống nhất, các bên có thể ký trực tiếp vào hợp
đồng. Đối với phương thức giao kết hợp đồng như vậy, khó có thể xác định
được ai là người đề nghị giao kết hợp đồng và ai là người chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng.
Hiện nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, các hợp đồng - đặc
biệt là hợp đồng thương mại quốc tế - thường được ký kết giữa các bên vắng
mặt, sự thống nhất ý chí của các bên thông qua trao đổi thư từ, tài liệu, gọi là
trao đổi đề nghị và chấp nhận đề nghị. Hai giai đoạn này không bao giờ đan
xen vào nhau [7, tr.33]. Vậy việc nghiên cứu đề nghị giao kết hợp đồng và
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng chính là nghiên cứu các thành tố của sự
thỏa thuận.
1.3.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng
Điều 2.1.2, Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại
quốc tế 2004 định nghĩa: “Một đề nghị được gọi là đề nghị giao kết hợp đồng
nếu nó đủ rõ ràng và thể hiện ý chí của bên đưa ra đề nghị bị ràng buộc khi đề
nghị giao kết được chấp nhận”.
Bộ luật Dân sự của Pháp quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là quyết
định đơn phương có chủ ý của một người bày tỏ ý định giao kết hợp đồng
theo những điều kiện xác định với một hay nhiều người khác” [3, tr.27]. Định
nghĩa này có phần hơi khác so với định nghĩa trên, nhưng về cơ bản cũng nói
được bản chất của lời đề nghị, ngoài ra còn chỉ ra rằng đề nghị không chỉ
được gửi đến một người cụ thể mà có thể gửi tới nhiều người.

15



Tóm lại, đề nghị giao kết hợp đồng là một đề nghị bày tỏ rõ ý định
muốn giao kết hợp đồng, có nội dung xác định và được gửi tới những đối tác
đã được xác định. Bên đề nghị còn phải chịu sự ràng buộc về đề nghị đó.
Đề nghị giao kết hợp đồng có bản chất là một hành vi pháp lý đơn
phương, có nghĩa là chỉ bên đưa ra đề nghị thể hiện ý chí với mong muốn bên
được đề nghị chấp nhận và bị ràng buộc bởi chính ý chí của mình. Hành vi
này do bên đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng tiến hành, và hoàn toàn xuất
phát từ chủ ý đơn phương của người đó, làm phát sinh một số hệ quả pháp lý
nhất định đối với bản thân người đó mà không thể làm phát sinh nghĩa vụ đối
với bên nhận được đề nghị.
Đề nghị giao kết hợp đồng có các điều kiện sau đây:
(1) Đề nghị giao kết hợp đồng phải được thể hiện ra bên ngoài bằng
một hình thức vật chất cụ thể: văn bản, lời nói, hành vi cụ thể…
(2) Đề nghị giao kết hợp đồng phải chắc chắn, không được mang tính
nước đôi, nghĩa là nội dung của nó phải thể hiện rõ ý muốn giao kết hợp đồng
của bên đưa ra đề nghị, không được có sự thay đổi, thất tín trong một thời hạn
nhất định, và chỉ cần hành vi chấp nhận đề nghị của bên kia là đủ để giao kết
hợp đồng.
(3) Đề nghị giao kết hợp đồng phải hướng tới đối tượng cụ thể, có thể
là một người hoặc một nhóm người, thậm chí cũng có thể hướng tới công
chúng nói chung; có kèm theo hoặc không kèm theo thời hạn trả lời.
Về vấn đề này ở Anh Quốc có vụ việc Carlill v. Carbolic Smoke Ball
Company (1893) 1 QB 256 như sau: Bị đơn là người sản xuất “smoke ball” đã
quảng cáo như sau trên một số tờ báo: “Carbolic Smoke Ball Company sẽ trả
100 bảng cho bất kỳ ai mắc phải cúm, cảm hay bất kỳ bệnh nào bị gây ra bởi
nhiễm lạnh sau khi đã dùng carbolic smoke ball phù hợp với chỉ dẫn kèm
theo. 1000 bảng đã được gửi tại Alliance Bank, Regent Street minh chứng cho
16



sự thành thật của chúng tôi trong vấn đề này”. Tin tưởng vào quảng cáo, bà
Carlill đã mua hàng và sử dụng phù hợp với chỉ dẫn. Thế nhưng bà vẫn mắc
bệnh cúm, nên bà kiện đòi 100 bảng từ Carbolic Smoke Ball Company. Bị
đơn lập luận hợp đồng như vậy đã lập với cả thế giới và điều đó là không
thể. Toà án Anh Quốc khẳng định: Đề nghị như vậy được xem là đề nghị với
cả thế giới và nó ràng buộc khi có ai đó tới và thực hiện điều kiện như quảng
cáo [5, tr.233].
(4) Đề nghị giao kế hợp đồng phải đủ cụ thể, rõ ràng để cho phép hình
thành hợp đồng khi được chấp nhận.
Đề nghị giao kết hợp đồng là nền tảng cho hợp đồng trong tương lai,
bởi thế phải nêu rõ nội dung chủ yếu, các điều khoản cơ bản của hợp đồng.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính linh hoạt của các quan hệ tư, “Nhà làm luật không
thể và cũng không cần xác định một cách cứng nhắc những nội dung nhất
định mà một đề nghị giao kết hợp đồng phải bao gồm” [27, tr.161]. Việc xem
xét tính cụ thể của một đề nghị tùy thuộc vào mong muốn bị ràng buộc bởi
hợp đồng của người đề nghị và người chấp nhận; và những điều khoản có thể
xác định bằng việc diễn giải ngôn ngữ của hợp đồng, xác định theo tập quán,
theo ý chí chung của các bên….Thực tế một đề nghị thiếu cụ thể có thể được
khắc phục bằng nhiều cách như dẫn chiếu đến các quan hệ hợp đồng đã có
giữa các bên, các điều khoản mẫu đã được thừa nhận, tình hình thị trường vào
thời điểm ký kết…
Tuy nhiên, những phân tích trên không làm mất đi đặc điểm về tính xác
định của đề nghị. Lời đề nghị đưa ra vẫn phải cụ thể, rõ ràng, có đủ cơ sở để
ràng buộc trách nhiệm đối với bên đề nghị. Nếu thiếu đi đặc điểm này thì đề
nghị có thể trở nên vô hiệu, thậm chí không được xem là tồn tại,đặc biệt đối
với đề nghị chung (đề nghị gửi tới công chúng rộng rãi).

17



Ví dụ:
Sự việc

Phán quyết của Tòa án

Trong vụ kiện Công ty đại lý

A thắng kiện. Giữa A và B

bán buôn Farris Wholesale, Inc.(bên không có quan hệ hợp đồng. Hai bên
A) và cửa hàng bán ga Harvey(bên chỉ thỏa thuận rằng A sẽ cung cấp ga
B), CA 9 Idaho,589 F 2d 1979; A cho B khi nào B cảm thấy có nhu cầu
thỏa thuận sẽ cung cấp ga cho B khi và giá cả hợp lý. Một thỏa thuận như
nào B có nhu cầu và cảm thấy giá cả vậy không quy định một nghĩa vụ
phù hợp. Sau một thời gian khi B xác định và cụ thể của B, vì B có thể
muốn mua thì A từ chối với lý do tại thực hiện khi thấy có lợi cho mình.
nơi B kinh doanh đã có quá nhiều Do thiếu tính xác định như vậy, cho
cửa hàng đại lý bán ga cho A.

nên giữa 2 bên không tồn tại quan hệ
hợp đồng.

Bảng 1.1 [27, tr.162].
(5) Đề nghị giao kết hợp đồng phải thể hiện được ý chí của bên đề nghị
mong muốn được ràng buộc nếu bên kia chấp nhận đề nghị đó.
Điều đó có nghĩa là bên đề nghị phải biểu lộ ý định muốn giao kết hợp
đồng trong lời đề nghị được đưa ra. Tuy nhiên, ý chí thì khó mà tuyên bố
được một cách rõ ràng, do đó cần xem xét đến các yếu tố khác để đánh giá
mong muốn này của bên đề nghị như hoàn cảnh, cách thức trình bày đề nghị,
đối tượng được đề nghị…. Thông thường một đề nghị được gửi tới một hoặc

một vài người cụ thể thì được chú ý hơn là một đề nghị gửi tới cộng đồng nói
chung; và đề nghị càng chi tiết, càng cụ thể thì ý chí muốn giao kết của bên đề
nghị cũng được chú ý hơn. Nếu thiếu ý chí muốn xác lập các nghĩa vụ pháp
luật của bên đưa ra lời đề nghị thì không được coi là đề nghị giao kết hợp
đồng và không dẫn đến trách nhiệm của người đưa ra nó.

18


(6) Đề nghị giao kết hợp đồng phải được gửi tới những người mà lời đề
nghị nhắm tới.
Bên đề nghị đã sẵn sàng cho việc ký kết một bản hợp đồng tương lai,
và chủ thể ký kết cũng đã được họ xác định. Do đó đề nghị phải có một đích
đến cụ thể và được gửi đi trong thời gian hợp lý.
Một lời mời đàm phán cũng là một đề nghị, tuy nhiên nó lại khác căn
bản so với đề nghị giao kết hợp đồng. Việc phân biệt hai khái niệm này sẽ làm
rõ hơn các điều kiện của đề nghị giao kết hợp đồng, và cũng phần nào giải
thích được tại sao cần có những điều kiện đó thì một lời đề nghị mới được coi
là đề nghị giao kết hợp đồng.
Bảng so sánh sự giống và khác nhau giữa đề nghị giao kết hợp đồng và
lợi mời đàm phán như sau:
Đề nghị GKHĐ

Lời mời đàm phán

- Thể hiện rõ ý định giao kết - Chỉ bao gồm những thông tin
hợp đồng;

chung chung, chưa cụ thể


- Thể hiện ý chí chịu sự ràng buộc về - Chưa thể hiện rõ ý chí của bên đưa
lời đề nghị đối với bên được đề nghị

ra lời mời

- Chịu sự ràng buộc về trách nhiệm - Không có sự ràng buộc pháp lý
pháp lý
- Nếu được bên được đề nghị chấp - Nếu được chấp nhận thì không đủ
nhận thì hợp đồng sẽ được giao kết

để giao kết hợp đồng mà chỉ đưa tới
kết quả các bên đồng ý đàm phán về
hợp đồng

Bảng 1.2
Để một đề nghị tạo thành một đề nghị giao kết hợp đồng, thì đề nghị đó
nhất thiết phải làm rõ rằng người lập ra nó có ý chí bị ràng buộc pháp lý bởi
19


sự chấp thuận của người khác. Nếu không có ý chí như vậy có thể được biểu
lộ, thì đề nghị được lập, dù nó có thể là bất cứ thứ gì khác, không tạo thành
một đề nghị giao kết hợp đồng. Vì vậy giấy báo giá, catalogue, mời tham gia
đấu giá… đều là lời mời đàm phán. Thực tế việc phân chia ranh giới giữa đề
nghị giao kết hợp đồng và lời mời đàm phán thường rất mập mờ, phải dựa vào
tình tiết của từng vụ việc cụ thể. Ví dụ: Khi một công ty kêu gọi mọi người
mua cổ phần của công ty thì chỉ là lời mời thương thảo, người muốn mua mới
là người đưa ra đề nghị, công ty có quyền đồng ý bán hoặc không. Nhưng khi
công ty chào bán cổ phần mới thì cổ đông phổ thông có quyền được ưu tiên
mua cổ phần mới chào bán với một tỷ lệ nhất định, lúc này thư của công ty

thông báo cho các cổ đông quyền ưu tiên mua cổ phần của họ được coi là đề
nghị giao kết hợp đồng, chỉ cần cổ đông chấp nhận mua thì hợp đồng được
xác lập mà công ty không có quyền từ chối.
Đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với bên đề
nghị. Tuy nhiên trách nhiệm này không phải là vô hạn mà tùy thuộc vào hiệu
lực của lời đề nghị. Đề nghị giao kết hợp đồng nếu thỏa mãn các điều kiện kể
trên thì sẽ có hiệu lực vào thời điểm được gửi tới cho người được đề nghị.
Đề nghị có kèm thời hạn trả lời lời thì đó là thời hạn có hiệu lực của đề
nghị, trong khoảng thời gian này, người nhận có quyền chấp nhận và hợp
đồng sẽ được giao kết. Đây cũng là thời gian ràng buộc trách nhiệm của bên
đưa ra lời đề nghị, bên đề nghị không được giao kết hợp đồng với bên thứ ba
trong khi chờ bên được đề nghị trả lời.
Trường hợp đề nghị không kèm thời hạn trả lời thì cũng phải xác định
một khoảng thời gian hợp lý để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình. Khoảng thời gian này tùy từng trường hợp cụ thể, phụ thuộc vào đối
tượng của hợp đồng, phương thức liên lạc, tập quán, thói quen kinh doanh
giữa các bên… mà có cách xác định riêng cho phù hợp.
20


Khi đề nghị giao kết hợp đồng bắt đầu có hiệu lực thì việc rút lại, thay
đổi, hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng là không thể. Tuy nhiên pháp luật hợp
đồng theo hệ thống Anh - Mỹ cho phép hủy bỏ hay rút lại đề nghị giao kết
hợp đồng tại bất cứ thời điểm nào trước khi thỏa thuận. Để việc rút lại này có
hiệu lực thì bên đề nghị phải thông báo cho người nhận đề nghị trong thời
gian hợp lý. Quy định này tương đối khác so với các nước theo truyền thống
pháp luật Châu Âu lục địa và pháp luật Xã hội chủ nghĩa mà trong đó có Việt
Nam. Đề nghị giao kết hợp đồng chỉ được rút lại trong một số trường hợp luật
định như: phải quy định rõ điều kiện này trong đề nghị, hay khi bên được đề
nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc

cùng với thời điểm nhận được đề nghị.
Việc rút lại và việc hủy bỏ lời đề nghị giao kết hợp đồng có sự khác
nhau. Có thể rút lại một đề nghị trước khi đề nghị này có hiệu lực trong khi
việc xem xét một đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy bỏ hay không lại chỉ
đặt ra sau thời điểm này [2, tr.84].
Việc một đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy ngang hay không cũng
là một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất trong hình thành hợp đồng, đòi
hỏi một giải pháp để điều hòa hai cách tiếp cận trên. Bộ nguyên tắc
UNIDROIT đã có một cách giải quyết tương đối hợp lý tại Điều 2.1.4 như sau:
“1. Cho đến khi hợp đồng đươc giao kết, đề nghị giao kết vẫn có thể bị
hủy bỏ, nếu hủy bỏ này đến bên được đề nghị trước khi bên này gửi chấp
nhận giao kết hợp đồng.
2. Tuy nhiên, đề nghị giao kết hợp đồng không thể hủy bỏ:
a, Nếu đề nghị này quy định không thể bị hủy ngang với việc quy định
một thời hạn xác định cho việc chấp nhận hoặc cách khác; hoặc
b, Nếu bên được đề nghị có cơ sở hợp lý để tin rằng đề nghị không thể
hủy ngàng, vì vậy, bên được đề nghị đã hành động”.
21


×