Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử. Luận văn ThS. Luật: 60 38 60

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ HỒNG THANH

PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ GIAO DỊCH ĐIỆN TỬ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ HỒNG THANH

PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ GIAO DỊCH ĐIỆN TỬ

Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số

: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. Hoàng Phƣớc Hiệp

Hà nội - 2013



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Hồng Thanh


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
B2B

: Doanh nghiệp với doanh nghiệp

B2C

: Doanh nghiệp với cá nhân

B2G

: Doanh nghiệp với cơ quan nhà nước

C2C


: Cá nhân với cá nhân

CNH – HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNTT

: Công nghệ thông tin

G2C

: Cơ quan nhà nước với cá nhân

GDĐT

: Giao dịch điện tử

QHQT

: Quan hệ quốc tế

TMĐT

: Thương mại điện tử

TNC

: Các công ty xuyên quốc gia


XNK

: Xuất nhập khẩu

UNCITRAL

: Ủy ban về luật Thương mại quốc tế của Liên hợp

WTO

: Tổ chức Thương mại Thế giới

quốc


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

1.1.

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT
3
QUỐC TẾ VỀ GIAO DỊCH ĐIỆN TỬ
Khái niệm của pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử
3

1.1.1.


Định nghĩa

3

1.1.2.

Các đặc trưng

5

1.2.

Các nguyên tắc cơ bản về pháp luật quốc tế về giao dịch
điện tử

9

1.3.

Chủ thể của pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử

12

1.3.1.

Nhận xét chung

12


1.3.2.

Các chủ thể cần chú ý

12

1.3.3.

Vị trí, vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong pháp
luật quốc tế về giao dịch điện tử

12

1.4.

Nguồn của pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử

15

1.4.1.

Nhận xét chung

15

1.4.2.

Các nguồn chủ yếu

16


1.4.2.1.

Các Luật mẫu, điều ước quốc tế

16

1.4.2.2.

Luật quốc gia

17

1.4.2.3.

Tập quán thương mại quốc tế

18

1.4.2.4.

Incoterms

20

1.4.2.5.

eUCP

21


1.4.3.

Các nguồn bổ trợ

21

1.5.

Một số khái niệm cơ bản của pháp luật quốc tế về giao dịch
điện tử

21


1.5.1.

Giao dịch điện tử và các đặc trưng của giao dịch điện tử

21

1.5.2.

Các khái niệm kề cận giao dịch điện tử

25

1.5.2.1.

Khái niệm thương mại điện tử


25

1.5.2.2.

Khái niệm hợp đồng điện tử

30

1.5.2.3.

Khái niệm thanh toán điện tử

32

1.5.2.4.

Khái niệm chữ ký điện tử và chữ ký số

32

1.5.3.

Pháp luật về giao dịch điện tử có yếu tố nước ngoài và các
đặc trưng

1.5.4.

Quan hệ giữa pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử và pháp
luật quốc gia về giao dịch điện tử


2.1.

39

Tổng quan về pháp luật của Liên Hợp quốc về giao dịch
điện tử

2.1.1.1.

33

Chương 2: CÁC NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP
39
LUẬT QUỐC TẾ VỀ GIAO DỊCH ĐIỆN TỦ
Tổng quan về pháp luật của một số tổ chức quốc tế về giao
dịch điện tử

2.1.1.

33

39

Luật mẫu về Thương mại điện tử của UNCITRAL (Model
Law on Electronic Commerce)

39

2.1.1.2.


Luật mẫu về chữ ký điện tử của UNCITRAL

40

2.1.1.3.

Công ước của Liên hợp quốc về sử dụng chứng từ điện tử
trong hợp đồng thương mại quốc tế

41

2.1.2.

Tổng quan về Khung pháp luật của EU về giao dịch điện tử

42

2.1.3.

Tổng quan về Khung pháp luật của APEC về giao dịch điện
tử

2.1.4.

2.2.

44

Tổng quan về Khung pháp luật của ASEAN về giao dịch

điện tử

45

Tổng quan về pháp luật một số nước về giao dịch điện tử

46


2.2.1.

Tổng quan về Pháp luật của Hoa Kỳ về giao dịch điện tử

2.2.2.

Tổng quan về Khung pháp luật của Singapore về thương
mại điện tử

2.2.3.

56

Công ước Viên 1969 về luật điều ước quốc tế và ký kết điều
ước quốc tế thông qua phương tiện điện tử

2.3.2.

55

Ký kết các điều ước quốc tế và hợp đồng quốc tế thông qua

phương tiện điện tử

2.3.1.

53

Tổng quan về Khung pháp luật của Canada về giao dịch
điện tử

2.3.

49

56

Vấn đề giao kết hợp đồng quốc tế thông qua phương tiện
điện tử (hợp đồng điện tử)

57

2.3.2.1.

Khái niệm hợp đồng điện tử

57

2.3.2.2.

Khái niệm về giao kết hợp đồng điện tử


59

2.3.2.3.

Đặc điểm của hợp đồng điện tử

59

2.3.2.4.

Phân loại hợp đồng điện tử

60

2.3.2.5.

Ký kết hợp đồng điện tử

64

2.3.2.6.

Quy trình thực hiện hợp đồng điện tử

68

2.4.

Liên Hợp quốc, WTO và các vấn đề liên quan giao dịch
điện tử quốc tế


71

2.4.1.

Luật mẫu của Liên Hợp quốc về thương mại điện tử

71

2.4.2.

Luật mẫu của Liên Hợp quốc về chữ ký điện tử

73

2.4.3.

Công ước Liên hợp quốc về Sử dụng giao dịch điện tử trong
hợp đồng quốc tế - United Nations Convention on the Use
of Electronic Communications in International Contracts

2.4.4.

2.5.

74

Các quy định của WTO về giao dịch điện tử, vòng đàm
phán Doha về giao dịch điện tử


75

Một số nội dung khác của pháp luật quốc tế giao dịch điện

81


tử
2.5.1.

Vấn đề an toàn và bảo mật trong pháp luật quốc tế về giao
dịch điện tử

81

2.5.2.

Vấn đề xung đột pháp luật trong giao dịch điện tử

83

3.1.

Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIAO
85
DỊCH ĐIỆN TỬ
Tổng quan về cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi hội
nhập quốc tế và thực hiện giao dịch điện tử quốc tế


85

3.1.1.

Cơ hội, thách thức

85

3.1.2.

Yêu cầu của WTO, ASEAN, APEC về giao dịch điện tử

87

3.2.

Thực trạng pháp luật Việt Nam về giao dịch điện tử quốc tế

89

3.2.1.

Nhận xét

89

3.2.2.

Luật Giao dịch điện tử và các quy phạm pháp luật liên quan


89

3.2.2.1.

Khái quát chung hệ thống pháp luật Việt Nam về giao dịch
điện tử

89

3.2.2.2.

Những ưu điểm

98

3.2.2.3.

Những hạn chế

99

3.3.

Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giao dịch
điện tử quốc tế

3.4.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giao dịch điện
tử


3.4.1.

3.4.3.

102

Rà soát hệ thống pháp luật về giao dịch điện tử ở nước ta
hiện nay

3.4.2.

101

102

Giải pháp về giá trị pháp lý của các hình thức thong tin điện
tử quốc tế

103

Giải pháp về giá trị pháp lý của chữ ký điện tử

105


3.4.4.

Giải pháp về Vấn đề bản gốc


3.4.5.

Giải pháp về Hoàn thiện khung pháp lý về dịch vụ công trực
tuyến

3.4.6.

106

107

Giải pháp về Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về đấu
thầu điện tử

107

3.4.7.

Giải pháp về Xây dựng cơ chế, bộ máy

108

3.4.8.

Giải pháp về Xây dựng khung pháp lý về bảo đảm an toàn
giao dịch điện tử

109

KẾT LUẬN


114

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

115


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Chúng ta đang sống trong thời đại của Công nghệ thông tin, của Kỹ thuật số
hoá, của những thay đổi không ngừng trên mọi phương diện. Song hành với
những thay đổi chóng mặt đó là những khái niệm mới, những phạm trù mới,
những cách thức mới, và Giao dịch Điện tử (GDĐT) là một phương thức giao
dịch mới tương tự như vậy. Tuy mới chỉ xuất hiện cách đây chưa lâu và đang
còn trong giai đoạn hình thành và phát triển nhưn GDĐT cũng đã phần nào tác
động đến cuộc sống của mỗi con người chúng ta.
GDĐT với những đặc tính ưu việt hơn hẳn Giao dịch Truyền thống đang
là một xu thế tất yếu ở hầu hết các quốc gia, nhưng đồng thời cũng kéo theo nó
hàng loạt các vấn đề phát sinh và nổi cộm nhất là các vấn đề pháp lý liên quan
đến GDĐT Trong hầu hết các cuộc hội thảo, toạ đàm được tổ chức trong thời
gian gần đây, người ta thường nhắc nhiều đến việc phải xây dựng một khuôn khổ
pháp lý cho hoạt động GDĐT. Xây dựng pháp luật về GDĐT đã, đang và sẽ trở
thành một nhu cầu bức xúc ở tất cả các quốc gia muốn phát triển GDĐT.
Tại Việt Nam, cùng với sự xuất hiện của internet, các giao dịch trên mạng
đã nhanh chóng phát triển và trở thành nhu cầu cấp bách trong hoạt động của
nhiều cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Theo báo cáo của các Bộ Thương mại
thì bắt đầu từ 2005 chúng ta đã chủ động bắt tay vào xử lý các vấn đề về khung
pháp lý cho các giao dịch qua mạng, các GDĐT. Nhiều vấn đề lý luận pháp lý đã,
đang được đặt ra để nghiên cứu.

Mặt khác trong GDDT không thể tránh khỏi việc phát sinh các tranh chấp,
các vướng mắc. Nhưng chính các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp,
các vướng mắc cũng không khỏi lúng túng. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu vấn
đề pháp luật quốc tế về GDĐT còn có thể góp phần cho các cơ quan giải quyết
tranh chấp xử lý các vấn đề tranh chấp của Việt Nam.


Trước thực trạng bức xúc như vậy, trong khuôn khổ chương trình đào tạo
cao học Luật tôi chọn đề tài “Pháp luật quốc tế về GDĐT” làm đề tài nghiên cứu
luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Luật học chuyên ngành Quốc tế tại Khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về GDĐT và pháp luật về GDĐT;
- Đi sâu tìm hiểu và phân tích một vài vấn đề pháp lý về GDĐT theo quy
định của Liên Hợp Quốc, ASEAN, một số nước và Việt Nam;
- Tìm hiểu và phân tích vai trò quan trọng của pháp luật về GDĐT trong
quá trình Việt Nam hội nhập quốc tế;
- Đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về GDĐT trước
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
- Về giới hạn phạp vi nghiên cứu, luận văn này tập trung nghiên cứu các
quy định pháp luật quốc tế tổng quát về GDĐT đặc biệt của Liên Hợp Quốc và
ASEAN về vấn đề này. Một số quy định trong pháp luật các nước và pháp luật
Việt Nam liên quan cũng sẽ được đề cập trong mức độ có thể được. Luận văn
không nghiên cứu các vấn đề lý luận kinh tế - pháp lý về GDĐT, các vấn đề kỹ
thuật tạo lậpGDĐT cũng như thực tiễn giải quyết tranh chấp ở các nước và Việt
Nam về các vấn đề GDĐT.
- Về giới hạn phạm vi không gian và thời gian nghiên cứu luận văn chỉ tập
trung vào giai đoạn hiện nay, sau khi Liên Hợp Quốc đã thông qua một số Công
ước quốc tế về vấn đề liên quan đến GDĐT.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu.


Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử, phương pháp phân tích so sánh và các phương pháp phổ biến khác trong
thực thi các đề tài nghiên cứu khoa học.
5. Bố cục luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn này
gồm 3 chương sau:
Chương 1: “Một số vấn đề lý luận pháp luật quốc tế về Giao dịch điện tử”
Chương 2: “Các nội dung cơ bản của pháp luật Quốc tế về Giao dịch điện
tử”
Chương 3: “Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
Giao dịch điện tử”


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ GIAO DỊCH
ĐIỆN TỬ
1.1. Khái niệm pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử
1.1.1. Định nghĩa
Cho đến nay, chưa có một định nghĩa chính thức về pháp luật quốc tế về
giao dịch điện tử trong các văn bản pháp luật quốc tế được cộng đồng quốc tế
thừa nhận rộng rãi. Tuy nhiên, có thể nói pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử
là một ngành mới trong hệ thống pháp luật bao gồm các nguyên tắc và quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ các giao dịch điện tử vượt ra khỏi
phạm vi một quốc gia. Pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử là ngành luật quốc
tế hỗn hợp bao gồm các quy phạm của công pháp quốc tế và các quy phạm của
tư pháp quốc tế về giao dịch điện tử.
Để hiểu pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử, phải nghiên cứu kỹ các giao

dịch điện tử quốc tế. Có ba định nghĩa sau về giao dịch điện tử quốc tế cần được
chú ý.
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thì giao dịch điện tử bao gồm
việc cung cấp các dịch vụ công từ cơ quan nhà nước, việc sản xuất, quảng cáo,
bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet,
nhưng được giao nhận một cách hữu hình.
Luật mẫu về Thương mại điện tử của Ủy ban Liên hợp quốc về Luật
Thương mại quốc tế (UNCITRAL) định nghĩa: "Thuật ngữ thương mại
[commerce] cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh
từ mọi giao dịch mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các
giao dịch mang tính thương mại bao gồm, nhưng không chỉhạn chế ở , các giao
dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch


vụ; thoả thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng
(factoring), cho thuê dài hạn (leasing); xây dựng các công trình; tư vấn, kỹ thuật
công trình (engineering); đầu tư; cấp vốn, ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai
thác hoặc tô nhượng, liên doanh và các hình thức về hợp tác công nghiệp hoặc
kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường
không, đường sắt hoặc đường bộ". Theo định nghĩa này, có thể thấy phạm vi áp
dụng các giao dịch điện tử rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh
tế, trong đó các giao dịch mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một phạm vi rất
nhỏ trong giao dịch điện tử. Thực tế, đó chính là bản chất của giao dịch điện tử
quốc tế khi mà nội dung giao dịch không chỉ đơn giản là trao đổi hàng hoá, dịch
vụ.
Theo Ủy ban châu Âu: "Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện các
giao dịch kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và
truyền dữ liệu điện tử dưới dạng text, âm thanh và hình ảnh". Thương mại điện
tử trong định nghĩa này gồm nhiều loại giao dịch : hoạt động mua bán hàng hóa;
dịch vụ; giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng; chuyển tiền điện tử; mua

bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử; đấu giá thương mại; hợp tác thiết kế; tài
nguyên trên mạng; mua sắm công cộng; tiếp thị trực tiếp với người tiêu dùng và
các dịch vụ sau bán hàng; đối với thương mại hàng hoá (như hàng tiêu dùng,
thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (như dịch vụ cung cấp thông
tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức
khoẻ, giáo dục) và các hoạt động mới (như siêu thị ảo). Theo quan điểm này,
"thương mại" (commerce) trong "giao dịch điện tử" không chỉ là buôn bán hàng
hoá và dịch vụ (trade) theo các hiểu thông thường, mà bao quát một phạm vi
rộng lớn hơn nhiều, do đó việc áp dụng giao dịch điện tử sẽ làm thay đổi hình
thái hoạt động của hầu hết nền kinh tế. Theo ước tính đến nay, thương mại điện
tử có tới trên 1.300 lĩnh vực ứng dụng, trong đó, buôn bán hàng hoá và dịch vụ


chỉ là một lĩnh vực ứng dụng. Sự bao quát rộng của định nghĩa về thương mại
điện tử đã bao hàm các nội dung căn bản của giao dịch điện tử.
1.1.2. Các đặc trưng
- Sự phát triển của giao dịch điện tử gắn liền và tác động qua lại với sự
phát triển của ICT.
Giao dịch điện tử là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong mọi hoạt
động giao dịch, chính vì lẽ đó mà sự phát triển của công nghệ thông tin sẽ thúc
đẩy giao dịch điện tử phát triển nhanh chóng, tuy nhiên sự phát triển của thương
mại điện tử cũng thúc đẩy và gợi mở nhiều lĩnh vực của ICT như phần cứng và
phần mềm chuyển dụng cho các ứng dụng thương mại điện tử, dịch vụ thanh
toán cho thương mại điện tử, cũng như đẩy mạnh sản xuất trong lĩnh vực ICT
như máy tính, thiết bị viễn thông, thiết bị mạng.
+ Về hình thức, giao dịch điện tử là giao dịch hoàn toàn qua mạng. Trong
hoạt động giao dịch truyề n thố ng các bên phải gă ̣p gỡ nhau trực tiế p để tiế n hành
đàm phán , giao dich
̣ và đi đế n ký kế t hơ ̣p đồ ng . Còn trong hoạt động giao d ịch
điê ̣n tử nhờ viê ̣c sử du ̣ng các phương tiê ̣n điê ̣n tử có k ết nối với mạng toàn cầu,

chủ yếu là sử dụng mạng internet, mà giờ đây các bên tham gia vào giao dịch
không phải gă ̣p gỡ nhau trực tiế p mà vẫn có thể đàm phán

, giao dich
̣ đươ ̣c với

nhau dù cho các bên tham gia giao dich
̣ đang ở bấ t cứ quố c gia nào . Ví dụ như
trước kia muố n mua mô ̣t quyể n sách thì b ạn đọc phải ra tâ ̣n của hàng để t ham
khảo, chọn mua một cuốn sách mà mình mong muốn

. Sau khi đã cho ̣n đươ ̣c

cuố n sách cầ n mua thì ngư ời đọc phải ra quầ y thu ngân để thanh toán mua cuố n
sách đó. Nhưng giờ đây với sự ra đời của thương ma ̣i điê ̣n tử thì chỉ cầ n c ó một
chiế c mày tính và ma ̣ng internet , thông qua vài thao tác kích chuô ̣t , người đọc
không cầ n biế t mă ̣t của người bán hàng thì h

ọ vẫn có thể mua mô ̣t cuố n sách

mình mong muốn trên các website mua bán trực tuyến như amazon
vinabook.com.vn.

.com;


+ Về phạm vi hoạt động, trên khắp toàn cầu hay thị trường trong giao dịch
điện tử là thị trường phi biên giới. Điều này thể hiện ở chỗ mọi người ở tất cả các
quốc gia trên khắp toàn cầu không phải di chuyển tới bất kì địa điểm nào mà vẫn
có thể tham gia vào cũng một giao dịch bằng cách truy cập vào các website hoặc

vào các trang mạng xã hội.
+ Về chủ thể tham gia, Trong hoạt động giao dịch điện tử phải có tổi thiểu
ba chủ thể tham gia. Đó là các bên tham gia giao dịch và không thể thiếu được
tham gia của bên thứ ba đó là các cơ quan cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan
chứng thực, đây là những người tạo môi trường cho các giao dịch giao dịch điện
tử. Nhà cung cấp dịch vụ mạng. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng
thực có nhiệm vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao
dịch điện tử, đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao
dịch điện tử.
+Về thời gian không giới hạn,: Các bên tham gia vào hoạt động giao dịch
điện tử đều có thể tiến hành các giao dịch suốt 24 giờ 7 ngày trong vòng 365
ngày liên tục ở bất cứ nơi nào có mạng viễn thông và có các phương tiện điện tử
kết nối với các mạng này, đây là các phương tiện có khả năng tự động hóa cao
giúp đẩy nhanh quá trình giao dịch.
- Trong giao dịch điện tử, hệ thống thông tin chính là thị trường. Trong
giao dịch truyền thống các bên phải gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành đàm
phán, giao dịch. Còn trong giao dịch điện tử các bên không phải gặp gỡ nhau
trực tiếp mà vẫn có thể tiến hành đàm phán, ký kết hợp đồng. Để làm được điều
này các bên phải truy cập vào hệ thống thông tin của nhau hay hệ thống thông tin
của các giải pháp tìm kiếm thông qua mạng internet, mạng extranet….để tìm
hiểu thông tin về nhau từ đó tiến hành đàm phán kí kết hợp đồng. Ví dụ giờ đây
các doanh nghiệp thương mại muốn tìm kiếm các đối tác trên khắp toàn cầu thì


chỉ cần vào các trang tìm kiếm như google, yahoo hay vào các cổng thương mại
điện tử như trong nước là ecvn.com hay của hàn quốc là ec21.com.
- Trong quan hệ giao dịch điện tử có thể có sự tham gia của bốn chủ thể
chính: Chính phủ (G), doanh nghiệp (B), khách hàng cá nhân (C), người lao
động (E). Việc kết hợp các chủ thể này lại với nhau sẽ cho chúng ta những mô
hình giao dịch điên tử khác nhau. Dưới đây là một số mô hình giao dịch điện tử

phố biến nhất hiện nay.
+ Giao dịch điện tử giữa Doanh nghiệp và người tiêu dùng (B2C)
Doanh nghiệp sử dụng các phương tiện điện tử để bán hàng hóa và dịch vụ
tới người tiêu dùng; người tiêu dùng thông qua các phương tiện điện tử để lựa
chọn, mặc cả, đặt hàng, thanh toán và nhận hàng. Mô hình B2C chủ yếu là mô
hình bán lẻ qua mạng như www.Amazon.com, qua đó doanh nghiệp thường thiết
lập website, hình thành cơ sở dữ liệu về hàng hóa, dịch vụ, tiến hành các quy
trình tiếp thị, quảng cáo và phân phối trực tiếp tới người tiêu dùng. Thương mại
điện tử B2C đem lại lợi ích cho cả doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng: doanh
nghiệp tiết kiệm nhiều chi phí bán hàng do không cần phòng trưng bày hay thuê
người giới thiệu bán hàng, chi phí quản lý cũng giảm hơn. Người tiêu dùng sẽ
cảm thấy thuận tiện vì không phải tới tận cửa hàng, ngồi ở bất cứ nơi đâu, bất cứ
khi nào cũng có khả năng lựa chọn và so sánh nhiều mặt hàng cùng một lúc,
cũng như tiến hành việc mua hàng. Hiện nay, số lượng giao dịch theo mô hình
thương mại điện tử B2C rất là lớn, tuy nhiên thì giá trị giao dịch từ hoạt động
này chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng giá trị thương mại điện tử ngày nay, chiếm
khoảng 5%. Trong tương lai thương mại điện tử theo mô hình B2C sẽ còn phát
triển nhanh hơn nữa. Mô hình thương mại điện tử B2C còn được gọi dưới cái tên
khác đó là bán hàng trực tuyến (e-tailing)
+ Giao dịch điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B)


B2B là loại hình giao dịch qua các phương tiện điện tử giữa doanh nghiệp
với doanh nghiệp. Các giao dịch B2B chủ yếu được thực hiện trên các hệ thống
ứng dụng Thương mại điện tử như mạng giá trị gia tăng VAN, SCM, các sàn
giao dịch Thương mại điện tử B2B (emarketplaces)... Các doanh nghiệp có thể
chào hàng, tìm kiếm bạn hàng, đặt hàng, ký kết hợp đồng, thanh toán qua các hệ
thống này. Ở mức độ cao, các giao dịch này có thể diễn ra một cách tự động ví
dụ như www.alibaba.com. Thương mại điện tử B2B đem lại lợi ích rất thực tế
cho các doanh nghiệp, đặc biệt giúp các doanh nghiệp giảm các chi phí về thu

thập thông tin tìm hiểu thị trường, quảng cáo, tiếp thị, đàm phán, tăng cường các
cơ hội kinh doanh. Ngày nay, số lượng giao dịch thương mại điện tử B2B còn rất
khiêm tốn chỉ khoảng 10%, tuy nhiên thì giá trị giao dịch từ hoạt động này chiếm
rất cao, trên 85% giá trị giao dịch thương mại điện tử hiện nay.
+ Giao dịch điện tử giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước (B2G)
Trong mô hình này, Cơ quan nhà nước đóng vai trò như khách hàng và quá
trình trao đổi thông tin cũng được tiến hành qua các phương tiện điện tử. Cơ
quan nhà nước cũng có thể lập các website, tại đó đăng tải những thông tin về
nhu cầu mua hàng của cơ quan mình và tiến hành việc mua sắm hàng hóa, lựa
chọn nhà cung cấp trên website. Ví dụ như hải quan điện tử, thuế điện tử, chứng
nhận xuất xứ điện tử, đấu thầu điện tử, mua bán trái phiếu chính phủ.....
+ Giao dịch điện tử giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng (C2C)
Đây là mô hình giao dịch điện tử giữa các cá nhân với nhau. Sự phát triển
của các phương tiện điện tử, đặc biệt là internet làm cho nhiều cá nhân có thể
tham gia hoạt động thương mại với tư cách người bán hoặc người mua. Một cá
nhân có thể tự thiết lập website để kinh doanh những mặt hàng do mình làm ra
hoặc sử dụng một website có sẵn để đấu giá món hàng mình có. Giá trị giao dịch
từ hoạt động thương mại điện tử C2C chỉ chiếm khoảng 10% tổng giá trị giao


dịch từ hoạt động thương mại điện tử. Ebay.com là một ví dụ thành công nhất
trên thế giới cho mô hình thuơng mại điện tử C2C.
+ Giao dịch điện tử giữa cơ quan nhà nước và cá nhân (G2C)
Mô hình G2C chủ yếu đề cập tới các giao dịch mang tính hành chính, tuy
nhiên cũng có thể mang những yếu tố của giao dịch điện tử. Ví dụ như hoạt động
đóng thuế cá nhân qua mạng, trả phí đăng ký hồ sơ,...
1.2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử
Như trên đã nêu, pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử là ngành luật quốc
tế hỗn hợp bao gồm các quy phạm của công pháp quốc tế và các quy phạm của
tư pháp quốc tế về giao dịch điện tử. Do vậy pháp luật quốc tế về giao dịch điện

tử có các nguyên tắc của công pháp quốc tế và các nguyên tắc của tư pháp quốc
tế.
Nguyên tắ c cơ bản của công pháp qu ốc tế về giao dịch điện tử là những tư
tưởng chin
́ h tri ̣, pháp lý mang t ính chỉ đạo , bao trùm, có giá trị bắt buộc chung
(Jus cogens) đối với mọi chủ thể pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử. Trong
công pháp quố c tế , các nguyên tắc cơ bản đó là những quy phạm Jus cogens
được ghi nhận ở điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.
Công luật quốc tế về giao dịch điện tử tuân theo những nguyên tắc cơ bản
của công pháp quốc tế nói chung. Các nguyên tắc này được ghi nhận trong Hiến
chương Liên hợp quốc, có hiệu lực pháp lí bắt buộc đối với các nước thành viên
Liên hợp quốc và các chủ thể khác của luật quốc tế. Đó là những nguyên tắc:
bình đẳng chủ quyền; nghiêm chỉnh chấp hành nghĩa vụ quốc tế; hoà bình giải
quyết các tranh chấp quốc tế; không dùng vũ lực hoặc đe doạ bằng vũ lực trong
quan hệ quốc tế; không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước. Những
nguyên tắc này được giải thích một phần trong Tuyên bố về các nguyên tắc của
luật quốc tế được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua 24.10.1970 liên quan


đến quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia thể theo Hiến chương Liên
hợp quốc (1970).
Ngoài ra, công pháp quốc tế về giao dịch điện tử còn có nhiều nguyên tắc
khác, chẳng hạn như nguyên tắc:
- Nguyên tắc tôn trọng sự thoả thuận trong giao dịch điện tử;
- Nguyên tắc cam kết thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên liên
quan trong giao dịch điện tử;
- Nguyên tắc giải quyết tranh chấp trong giao dịch điện tử theo các quy định
về giải quyết tranh chấp của pháp luật quốc tế…..
Các nguyên tắc của tư pháp quốc tế Việt Nam về giao dịch điện tử có thể
là:. Nguyên tắc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc

gia Việt Nam;Nguyên tắc hợp tác hữu nghị, mở rộng giao lưu với tất cả các
nước: Nguyên tắc có đi có lại trong quan hệ tư pháp quốc tế; Nguyên tắc áp dụng
pháp luật nước ngoài không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam; Nguyên tắc tôn trọng quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia;Nguyên
tắc không phân biệt đối xử trong quan hệ kinh tế, thương mại quốc tế;Nguyên tắc
tự do, tự nguyên cam kết, thỏa thuận; Nguyên tắc giải quyết các vụ việc tư pháp
quốc tế theo"Luật của cơ quan có thẩm quyền" (Lex fori); Các nguyên tắc
chuyên biệt trong tư pháp quốc tế về giao dịch điện tử. Các nguyên tắc này được
áp dụng phổ biến trong điều chỉnh các quan hệ Tư pháp quốc tế. Khi nghiên cứu
các nguyên tắc này cần chú ý sự khác biệt của các nguyên tắc đó với các hệ
thuộc xung đột pháp luật có tên gọi tương tự. Các hệ thuộc xung đột chỉ là các
công thức kỹ thuật pháp lý cho phép chúng ta biệt định hướng pháp luật cần áp
dụng trong những trường hợp xung đột pháp luật cụ thể. Còn các nguyên tắc,
như đã định nghĩa từ đầu, là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình
xây dựng, thực thi các quy phạm của Tư pháp quốc tế và là những tư tưởng chỉ
đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình họat động của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham


gia quan hệ tư pháp quốc tế. Nội dung của các nguyên tắc này được thể hiện rõ
qua các quy định khác nhau của Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Lao động, Bộ
luật Hàng hải Việt Nam, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Hàng không dân dụng
năm 2006, Luật Thương mại năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005, Luật Doanh
nghiệp năm 2005 và các quy định khác tương tự trong các văn bản quy phạm
pháp luật của Việt Nam. Nội dung của các nguyên tắc này cũng được ghi nhận
trong các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và trong
nhiều thỏa thuận quốc tế khác liên quan.
1.3. Chủ thể của pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử
1.3.1. Nhận xét chung
Chủ thể của pháp luật giao dịch điện tử khá đa dạng. Bên cạnh các chủ thể
của công pháp quốc tế về giao dịch điện tử mà quan trọng nhất là quốc gia thì

còn có các chủ thể của tư pháp quốc tế về giao dịch điện tử, chẳng hạn như các
công ty xuyên quốc gia, các tập đoàn, các doanh nghiệp, thậm chí là các cá nhân
tham gia vào các hoạt động giao dịch điện tử quốc tế.
1.3.2. Các chủ thể cần chú ý
- Quốc gia: Tham gia ký kết và thực hiện các Điều ước quốc tế về giao dịch
điện tử xuyên quốc gia;
- Các doanh nghiệp, tập đoàn, công ty xuyên quốc gia tham gia vào các hoạt
động thương mại điện tử quốc tế, cung cấp các dịch vụ liên quan đến giao dịch
điện tử có yếu tố nước ngoài;
- Cá nhân tham gia vào các giao dịch điện tử, đăng ký và tiếp nhận các dịch
vụ điện tử trực tuyến, các thương nhân tham gia vào các hoạt động đấu thầu
điện tử có yếu tố nước ngoài…
1.3.3. Vị trí, vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong pháp luật quốc
tế về giao dịch điện tử


Sự tăng trưởng mạnh mẽ cả về lượng lẫn chất, vai trò to lớn đối với sự phát
triển kinh tế cùng với các tác động ngày càng tăng trong quan hệ quốc tế đang
đem lại cho TNC khả năng của một chủ thể quan hệ quốc tế. Điều này được thể
hiện trên 4 tiêu chí của chủ thể quan hệ quốc tế là tham gia, mục đích, năng lực
và ảnh hưởng.
Thứ nhất, xét trên tiêu chí tham gia, về mặt thời gian, TNC bắt đầu ghi dấu
ấn lớn trong quan hệ quốc tế với việc vươn ra thị trường nước ngoài từ nửa cuối
thế kỷ XIX, phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Về mặt
không gian, ngày nay, các TNC đã “phủ sóng” hầu như khắp mọi quốc gia trên
thế giới. Thậm chí, nhiều TNC có tầm hoạt động trên quy mô toàn cầu. Về kênh
quan hệ, các TNC tham gia vào QHQT không chỉ qua quan hệ giữa TNC với
quốc gia khác, giữa TNC với công ty khác mà còn trong nội bộ công ty qua quan
hệ giữa trụ sởvới các chi nhánh của mình ở nước ngoài. Về hình thức quan hệ,
đó là sự phân công lao động quốc tế, đầu tư nước ngoài, thương mại xuyên quốc

gia, giao dịch tài chính quốc tế, chuyển giao công nghệ, thu hút lao động nước
ngoài,… Về lĩnh vực tham gia, hoạt động của TNC không chỉ diễn ra trong mọi
ngành kinh tế lớn mà còn đi sâu vào các lĩnh vực chuyên môn hẹp. Bên cạnh đó,
sự tham gia của TNC trong chính trị - lĩnh vực quan trọng trong quan hệ quốc tế
là rất đáng kể. Ngoài ra, TNC còn hiện diện khá lớn một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp trong nhiều lĩnh vực khác nhau của quan hệ quốc tế như khoa học, văn hoá,
xã hội,… Không chỉ về bề rộng, mức độ tham gia quan hệ quốc tế của các TNC
cũng rất sâu sắc, đặc biệt trong kinh tế. Điều này tạo khả năng cho TNC tham gia
sâu hơn nữa vào đời sống kinh tế, chính trị và xã hội quốc tế.
Thứ hai, xét trên tiêu chí mục đích, tất cả các TNC đều có mục đích lợi
nhuận. Lợi nhuận chính là mục đích cơ bản, bao trùm và xuyên suốt của các
TNC và được phản ánh trong điều lệ, trong tổ chức và mọi hoạt động kinh
doanh. Không có mục đích lợi nhuận, không phải là TNC. Trên phương diện


quan hệ quốc tế, mục đích này là động lực chính hướng hoạt động của TNC ra
bên ngoài nhằm khai thác hơn nữa lợi nhuận trên thị trường quốc tế. Trước kia,
mục đích lợi nhuận đã khiến TNC góp phần đưa quan hệ bóc lột, sự nô dịch thực
dân và sự can thiệp chính trị vào quan hệ quốc tế. Ngày nay, mục đích lợi nhuận
vẫn tiếp tục quy định cố gắng mở rộng thị trường, tăng cường hoạt động và phát
triển các hình thức tác động khác nhau của chúng trong quan hệ quốc tế. Thông
qua quá trình kinh doanh quốc tế, các TNC có những đóng góp tích cực cho sự
phát triển kinh tế các nước như đầu tư vốn, kích thích xuất khẩu, mở rộng sản
xuất, cải tổ cơ cấu, chuyển giao công nghệ, phát triển kỹ năng quản lý, tạo việc
làm,… Các tác dụng tích cực đó đã khiến mục đích lợi nhuận của TNC dễ hoà
hợp hơn với mục đích phát triển của các nước. Đồng thời, việc giảm thiểu sự can
thiệp chính trị thô bạo như trước kia cũng góp phần làm giảm mâu thuẫn với
mục đích an ninh chính trị của các nước đang phát triển. Và từ đó, sự nghi ngại,
chống đối TNC ở các nước này cũng giảm theo. Đó chính là cơ hội cho TNC mở
rộng hoạt động ra khắp thế giới để thực hiện mục đích lợi nhuận, đổi mới

phương thức kinh doanh, thúc đẩy thương mại điện tử phát triển.
Thứ ba, xét trên tiêu chí năng lực, các TNC có nguồn tài lực và nhân lực
riêng từ các chủsở hữu và những người tham gia khác. Nguồn tài chính của
chúng rất lớn và nguồn nhân lực của chúng cũng dồi dào. Thậm chí, có những
TNC có số tài sản vượt xa GDP của nhiều nước phát triển. Đó là chưa kể xu
hướng M&A đang tạo ra những TNC khổng lồ trong nền kinh tế quốc tế. Các
TNC được luật pháp chính quốc cũng như nước sở tại trao cho quyền tự chủ và
những thẩm quyền riêng trong hoạt động kinh doanh. Luật pháp của chính quốc
thì rộng rãi, luật pháp nước sở tại thì khuyến khích, luật pháp quốc tế thì còn
thiếu và phụ thuộc nhiều vào các nước phát triển vốn lại là chính quốc nên càng
tạo điều kiện cho sự tự trị của TNC. Cơ sở tài chính, nguồn nhân lực và những
thẩm quyền như vậy đem lại cho các TNC khả năng độc lập trong quyết định và


tự chủ trong hoạt động kinh doanh. TNC tựquyết định thị trường, mặt hàng, đối
tác, tổ chức, nhân lực, chính sách và biện pháp kinh doanh của nó ở bất kỳ nước
nào mà không chịu sự áp chế của ai, miễn là phù hợp với luật pháp. Sự độc lập
và tự chủ của TNC còn được thể hiện qua khả năng tác động lên quốc gia và can
thiệp vào một số khu vực thuộc thẩm quyền quốc gia. Hiện nay, cho dù vẫn phải
chịu sự điều chỉnh nhất định của quốc gia, năng lực này của TNC vẫn đang được
củng cố nhờ xu hướng tự do hoá thương mại, sự chào đón của các quốc gia nhận
đầu tư, sự phát triển năng lực của bản thân các TNC và cả xu hướng tăng cường
hợp tác giữa chúng.
Thứ tư, xét trên tiêu chí ảnh hưởng trong quan hệ quốc tế, TNC có được vị
trí khá lớn trong quan hệ quốc tế không chỉ nhờ thực lực to lớn và khả năng kiến
tạo các quan hệ xuyên quốc gia. Ảnh hưởng này còn được quy định bởi nhu cầu
phát triển ngày càng tăng của mọi quốc gia trên thế giới. Nhu cầu phát triển này
đã đem lại vị thế quan trọng cho TNC trong chính sách đối ngoại của các quốc
gia. Hơn nữa, các TNC chủ yếu xuất phát từ các trung tâm chính trị và kinh tế
lớn của thế giới như Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Nhờ sự hậu thuẫn của các thế

lực này, ảnh hưởng kinh tế và tiếng nói chính trịcủa TNC trong quan hệ quốc tế
được tăng lên đáng kể. Đáng chú ý, sau Chiến tranh Lạnh, ảnh hưởng của TNC
trong quan hệ quốc tế có chiều hướng tăng lên. Nếu sự nổi lên của yếu tố kinh tế
trong QHQT đem lại vị thế quốc tế cao hơn cho TNC, thì xu thế thống nhất của
thị trường thế giới đem lại ảnh hưởng toàn cầu cho chúng. Trong khi đó, do khả
năng chi phối chính trị của kinh tế ngày một lớn nên khảnăng tác động tới quốc
gia và quan hệ quốc tế của TNC cũng rất đáng kể. Nhìn chung, TNC vẫn có khả
năng tác động lên quốc gia, kể cả chính quốc lẫn nước sở tại, buộc chúng thay
đổi hay điều chỉnh hành vi đối nội và đối ngoại trong đó có các chính sách về
giao dịch điện tử.


1.4. Nguồn của pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử
1.4.1. Nhận xét chung
Nguồn của pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử khá đa dạng do phạm vi
của giao dịch điện tử là khá rộng liên quan đến các chủ thể công pháp quốc tế và
chủ thể tư pháp quốc tế. Chính vì vậy, việc xác định nguồn của pháp luật quốc tế
loại này về giao dịch điện tử cần phải xuất phát từ phạm vi của giao dịch điện tử.
Nguồn chủ yếu của pháp luật quốc tế về giao dịch điện tử hiện nay có thể bao
gồm các Luật mẫu của Liên Hợp quốc và các tổ chức quốc tế liên quốc gia, liên
chính phủ, điều ước quốc tế nhiều bên và song phương, pháp luật quốc gia, các
tập quán quốc tế và các nguồn bổ trợ khác.
1.4.2. Các nguồn chủ yếu
1.4.2.1. Các Luật mẫu, điều ước quốc tế
Trong bối cảnh công nghệ phát triển với một tốc độ nhanh chóng, pháp luật
cần phải được xây dựng để kịp thời điều chỉnh những hiện tượng xã hội mới phát
sinh. Việc thiếu khung khổ pháp lý trong nhiều hệ thống xét xử để điều chỉnh
những vấn đề liên quan tới hiệu lực pháp lý của các giao dịch điện tử là rào cản
rất lớn đối với sự phát triển của các hoạt động giao dịch điện tử. Thực tế, trong
những giao dịch thương mại điện tử, chào hàng, đặt hàng hoặc hợp đồng được

giao kết bằng phương tiện điện tử đã tạo nên một giao dịch điện tử hoàn chỉnh.
Tuy nhiên, rất nhiều quy định pháp lý, liên quan tới hợp đồng và những giao
dịch thương mại khác đưa ra đòi hỏi tài liệu phải ở dạng văn bản, được ký, lưu
trữ hoặc dưới hình thức bản gốc.
Nhằm tạo khung pháp lý cho phát triển thương mại điện tử, năm 1996 Uỷ
ban Luật Thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) đã soạn thảo
một luật mẫu về thương mại điện tử, hình thành những quy định mẫu về thừa
nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu nhằm bảo vệ về mặt pháp lý cho
những tổ chức, cá nhân mong muốn tham gia thương mại điện tử. Luật mẫu có


×