Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tìm hiểu về vi khuẩn Clostridium botulinum gây bệnh trong thực phẩm và độc tố botulin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 30 trang )


TIỂU LUẬN MÔN HỌC
VI SINH THỰC PHẨM
…………
ĐỀ TÀI:
Tp. HCM, 5/2011
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 3
1.1. Đặt vấn đề ................................................................................................................................................ 3
1.2. Mục đích .................................................................................................................................................. 3
1.3. Nội dung tìm hiểu ..................................................................................................................................... 3
2.1.1. Lịch sử phát hiện ........................................................................................ 4
2.1.2. Đặc điểm của Clotridium botulinum ......................................................... 5
2.1.2.1. Phân loại ................................................................................................................................................ 5
2.1.2.2. Đặc điểm hình thái ................................................................................................................................. 6
2.1.2.3. Đặc điểm cấu trúc .................................................................................................................................. 7
2.4.2. Nguyên nhân ngộ độc .............................................................................. 13
2.3.4. Phương pháp điều trị ............................................................................... 16
2.3.1. Điều kiện nuôi cấy ................................................................................... 17
2.3.2.Thí nghiệm trên chuột .............................................................................. 18
Clostridium botulinum 2011
I. Mở đầu
1.1. Đặt vấn đề
Thế giới vi sinh vật rất phong phú và đa dạng. Chúng phân bố rộng khắp
trong hệ các sinh thái: trong đất, nước, không khí, trên cơ thể động – thực vật…
Tuy nhiên thành phần và số lượng hệ vi sinh vật phụ thuộc rất nhiều vào điều
kiện môi trường – trong đó đặc biệt là môi trường thực phẩm.
Thực phẩm là tổng hòa những sản phẩm con người có thể ăn được và tiêu
hóa được, đó có thể là các thực phẩm tươi sống như thịt cá, rau quả...các loại
thực phẩm chế biến ăn liền...Đây chính là môi trường thuận lợi cho các vi sinh
vật sinh trưởng và phát triển bởi vì ở đó đầy đủ dinh dưỡng, pH từ 6 – 6.5, nhiệt


độ thích hợp và một số điều kiện khác nữa. Các vi sinh vật có mặt trong thực
phẩm một số ít có lợi còn lại chúng đa số làm hư hỏng thực phẩm và gây ngộ độc
cho con người.
Một số loài gây hại điển hình như Staphylococcus Aureus, Samonella,
E.coli...trong số đó phải kể đến loài Clostridium botulinum – loài gây bệnh độc
thịt sinh độc tố thần kinh cực độc – là nguyên nhân gây ra hàng loạt vụ tử vong
cho con người. Trên thế giới đã ghi nhận rất nhiều trường hợp ngộ độc sau khi sử
dụng các loại đồ hộp, xúc xích hay lạp xưởng...các loại thực phẩm có điều kiện
không có oxy.
1.2. Mục đích
Tìm hiểu về vi sinh vật gây bệnh trong thực phẩm mà cụ thể là vi khuẩn
Clostridium botulinum và độc tố botulin của vi khuẩn này. Từ đó đưa ra một số
biện pháp phòng ngừa và kiểm soát chúng trong việc chế biến và bảo quản thực
phẩm.
1.3. Nội dung tìm hiểu
• Tìm hiểu các đặc điểm cơ bản và tổng quan nhất về Clostridium botulinum.
• Khả năng gây bệnh, tính năng lâm sàng của Clostridium botulinumt rong
thực phẩm và mối liên quan của chúng với các loại thực phẩm.
• Tìm hiểu về độc tố botulin gây bệnh trong thực phẩm nhằm ngăn ngừa các
khả năng nhiễm loại độc tố cực độc này.
3
Clostridium botulinum 2011
II. Nội dung
2.1. Tổng quan về Clostridium botulinum
2.1.1. Lịch sử phát hiện
Năm 1793 ở thị xã Wildbad thuộc Bang Wurttemburg nước Đức, 13 người
bị bệnh và 6 người sau đó đã chết sau khi ăn Blunzen – một loại xúc xích được
làm từ huyết và các thành phần khác được bọc trong dạ dày lợn. Các xúc xích này
đã được luộc và xông khói, sau đó các xúc xích được coi là bền vững ở nhiệt độ
phòng trong vòng vài tuần và thích hợp để tiêu thụ mà không cần phải hâm nóng.

Nhiều hơn nữa về các vụ ngộ độc xúc xích, đã được ghi lại trong những
năm tiếp theo, thường gắn liền với xúc xích có chứa các thành phần của động vật
khác so với các mô cơ. Điều này khiến một viên chức y tế địa phương là Justinius
Kerner tiến hành thực hiện một nghiên cứu về căn bệnh được gọi là bệnh ngộ độc.
Kerner đã lưu ý một số đặc điểm quan trọng bao gồm việc làm nóng là cần thiết để
ngăn cản sự phát triển của độc tính trong xúc xích. Những xúc xích nhỏ hoặc được
chứa trong những túi không có không khí có khả năng trở thành độc hại.
Mãi cho đến 1896 rằng vi sinh vật chịu trách nhiệm về các vụ ngộ độc đã
được phân lập và mô tả bởi Van Ermengem – Giáo sư Vi
trùng tại trường Đại học Ghent và học trò cũ của Robert
Koch. Đây là kết quả điều tra của ông trong một ổ dịch xảy
ra bệnh ngộ độc, nơi 34 thành viên của một câu lạc bộ âm
nhạc tại Bỉ ăn sống thịt chưa hun khói. Một số ghi nhận chỉ
ra rằng đã có một ít thịt mà họ ăn có mùi vị tương tự như
bơ ôi. Khoảng một ngày sau đó 23 người trong nhóm lâm
bệnh và 3 người đã chết trong vòng một tuần sau đó.
Van Ermengem cho rằng bệnh ngộ độc là kết quả của việc ăn các thực phẩm
có chứa một chất độc không bền nhiệt được tạo ra bởi một vi sinh vật kỵ khí, hình
thành bào tử mà ông gọi là Botulinus Bacillus. Ông cũng chứng minh độc tố đó sẽ
không được tạo ra trong môi trường khi có mặt của muối.
Mặc dù phần lớn các bằng chứng ban đầu cho thấy bệnh ngộ độc chỉ giới
hạn ở các sản phẩm từ thịt, tuy nhiên sau này các độc tố được tìm thấy xảy ra ở bất
cứ nơi cung cấp thực phẩm có điều kiện chế biến thích hợp đối với sự sinh trưởng
và phát triển của các sinh vật gây bệnh. Nó đã được xác định với chứng ngộ độc cá
thối, một căn bệnh có liên quan với việc sử dụng cá muối sống, được biết đến ở
4
Clostridium botulinum 2011
Nga kể từ năm 1880 và vào năm 1904 một đợt bùng phát các bệnh ngộ độc ở
Darmstadt, Đức nguyên nhân gây ra là bởi đậu trắng đóng hộp.
2.1.2. Đặc điểm của Clotridium botulinum

2.1.2.1. Phân loại
Clostridium Botulinum thuộc:
Vực (domain): Bacteria
Lớp (class): Clostridia
Bộ (ordo): Clostridiales
Họ (familia): Clostridiaceae
Chi (genus): Clostridium
Loài (species): C. botulinum
Clostridium là một giống trực khuẩn Gram dương, thuộc ngành Firmicutes.
Đây là những vi khuẩn kỵ khí bắt buộc có khả năng sinh nha bào khi môi trường
sống bất lợi. Tên của chúng bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp kloster có nghĩa trục quay.
Từ những đặc điểm điển hình trên, người ta xếp các vi khuẩn vào giống
Clostridium, tuy nhiên gần đây nhiều chủng đã được phân loại vào các giống khác.
Giống Clostridium bao gồm khoảng 100 loài có những chủng sống tự do
trong môi trường và một số hiện diện như những mầm bệnh tiềm ẩn với con
người.Trong nhóm này có bốn vi khuẩn chủ yếu gây bệnh cho con người:
• C. botulinum , có khả năng sinh độc tố trong thức ăn, vết thương gây ra bệnh
độc thịt.
• C. difficile , tồn tại như là mầm bệnh cơ hội thuộc hệ vi sinh vật ở ruột và
phát triển khi có điều kiện nhất là trong liệu pháp chữa trị bằng kháng sinh
và gây ra chứng viêm đại tràng màng giả.
• C. perfringens , ban đầu có tên C. welchii, là nguyên nhân gây ra một loạt các
hội chứng khác nhau, từ ngộ độc thức ăn cho đến bệnh hoại thư sinh hơi.
Loài này cũng sản sinh ra độc tố ruột huyết gây ra bệnh nhuyễn thận ở cừu
và dê. Lợi ích của C. perfringens là thay thế nấm men trong phương pháp
bánh mì muối.
• C. tetani , gây ra bệnh uốn ván.
Khi phát triển trên thực phẩm, C. Botulinum tiết độc tố, có 6 loại nhưng 3
loại A, B và E thuộc loại gây ngộ độc và nguy hiểm, gây chết người do tác động
lên hệ thống thần kinh. Loại A thường thấy ở châu Mỹ, loại B thường thấy ở Châu

Âu và loại E thường thấy ở Nhật Bản
5
Clostridium botulinum 2011
2.1.2.2. Đặc điểm hình thái
Van Ermengems chỉ định thay thế quyết định ban đầu vào năm 1923 khi các
sinh vật chịu trách nhiệm về bệnh ngộ độc đã được xếp lại lớp là Clostridium
Botulinum.
Độ pH tối thiểu mà Clostridium
botulinum sẽ tăng trưởng phụ thuộc rất nhiều
vào các yếu tố như nhiệt độ, hoạt động nước
(a
w
) và acid được sử dụng để điều chỉnh pH. Sự
thống nhất từ lâu đã cho rằng là độ pH khoảng
4,7 là mức tối thiểu và điều này thực tế đã có ý
nghĩa quan trọng và thiết thực cho ngành công
nghiệp đồ hộp. Các chủng không phân giải
protein có khả năng dung nạp acid thấp hơn và
nói chung là bị ức chế ở pH 5,0 – 5,2. Các báo
cáo cho rằng đã có sự tăng trưởng và sản xuất độc tố ở giá trị pH thấp hơn 4.0
trong lớp protein bảo vệ. Trong trường hợp bệnh ngộ độ có xảy ra ở thực phẩm nơi
mà độ axit là một hàng rào bảo vệ quan trọng, chẳng hạn như trong hoa quả đóng
hộp, các loại nấm men hoặc nấm mốc, tăng trưởng trong sản phẩm và làm tăng độ
pH.
Độ pH tối đa cho sự tăng trưởng của Clostridium botulinum là 8,5 – 8,9 và
các chất độc không bền ở giá trị pH kiềm này. Điều này nói chung là một đặc điểm
quan trọng trong sinh lý sinh vật vì hầu hết tất cả các loại thực phẩm đều có tính
axit nhẹ. Nó có thể có ý nghĩa tuy nhiên ở một số sản phẩm lên men Bắc Mỹ thỉnh
thoảng liên quan đến các bệnh ngộ độc mà sự tăng độ pH trong quá trình lên men
sẽ là một yếu tố bảo vệ.

Clostridium botulinum cũng bị ức chế bởi NaCl 5% hoặc NaNO
3
2.5%.
Trong đa số các trường hợp Clostridium botulinum sinh khí và tạo mùi khó
chịu, ta có thể nhận biết và loại bỏ chúng bằng đặc điểm này. Tuy nhiên vài trường
hợp ngoại lệ thì ta không thể nhận ra Clostridium botulinum bằng cảm quan, do đó
có thể bị nhiễm độc.
Clostridium botulinum phân bố khắp nơi trong đất, đặc biệt những nơi như
đất vườn, nghĩa trang, nơi chăn nuôi gia súc, gia cầm. Trong các loại rau quả, kể
cả mật ong. Chúng cũng có trong ruột của các động vật nuôi trong nhà, trong ruột
cá, đôi khi có cả trong ruột người, ở nơi nước bị ô nhiễm. Do vi khuẩn có trong tự
nhiên nên thực phẩm dễ bị nhiễm trong quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển và
6
Clostridium botulinum 2011
bảo quản. Đặc biệt chúng có khả năng lây nhiễm và phát triển mạnh trong các loại
thực phẩm như thịt cá ướp muối, ướp lạnh, hun khói, đồ hộp, xúc xích, lạp xưởng,
phomat bị đóng kín hoặc có độ dày lớn…vì các loại thực phẩm này là môi trường
thuận lợi về các điều kiện kỵ khí, nhiệt độ, độ pH, đầy đủ chất dinh dưỡng cần
thiết cho chúng sinh trưởng và phát triển.
Clostridium botulinum có khả năng sinh độc tố botulin cực độc trong điều
kiện kỵ khí, ở nhiệt độ 30 – 37
0
C, ở 10 – 12
0
C độc tố tạo thành bị chậm lại và ở 4
– 5
0
C thì ngừng hẳn. Botulin là loại độc tố thần kinh, có thể gây tê liệt các bó cơ
thần kinh và là nguyên nhân gây tử vong đối với con người và nhiều động vật.
2.1.2.3. Đặc điểm cấu trúc

Clostridium botulinum là vi khuẩn Gram dương, có thể di động với tiên mao
và lung nhung, chúng là vật kỵ khí bắt buộc, hình dáng thẳng hoặc hơi cong que,
dài 2-10 µm, hình thành bào tử hình bầu dục trung tâm hoặc hình dùi trống.
Chủng loại Clostridium
Botulinum biểu hiện đầy đủ của đặc
điểm sinh lý và sinh hóa không giống
nhau trong một loài. Đặc điểm thông
dụng quan trọng nhất của loài này là
việc sản xuất các dược lý độc tố thần
kinh được công nhận là chịu trách
nhiệm về bệnh ngộ độc. Tám huyết
thanh độc tố khác biệt được công nhận
là: A, B, C
1
, C
2
, D, E, F, và G, mặc dù
C
2
không phải là một chất độc thần kinh, một chủng
duy nhất của Clostridium Botulinum sẽ thường chỉ
sản xuất một loại, mặc dù có những ngoại lệ. Năm
1985, một số chủng Clostridium barati và
Clostridium butyricum chịu trách nhiệm đối với
trường hợp bệnh ngộ độc cho trẻ sơ sinh được phát
hiện là có sản xuất độc tố thần kinh tương tự, mặc
dù chúng không hề liên quan đến bất kỳ trường hợp
ngộ độc thực phẩm nào.
7
Clostridium botulinum 2011

2.1.3. Phân nhóm
Dựa vào các đặc điểm sinh lý người ta phân Clostridium botulinum thành 4
nhóm như bảng sau:
Nhóm I II III IV
Loại độc tố A, B, F B, E, F C
1
, C
2
, D G
Phân giải Protein Có Không Không Có
Phân giải Lipid Có Có Có Không
Phân giải Saccharose Có Có Có Không
Psychrotrophic
(t
0
min
tăng trưởng)
Không
(10 – 12
0
C)

(3 – 5
0
C)
Không
(15
0
C) (12
0

C)
Sự ức chế của muối
(a
w
)
10%
(0.94)
5%
(0.975)
3% >3%
Bền nhiệt

(Chết ở
121
0
C, 0.1 –
0.25 phút)
Không
(Chết ở
80
0
C, 0.6 –
3.3 phút)
Đối tượng gây bệnh Người Người Chim và động vật Người
Nhóm I phân giải protein mạnh mẽ và thường sẽ cho ta biết sự hiện diện
của chúng trong thực phẩm bởi một phần các sản phẩm bị phân rã trở nên có mùi
ôi. Nhóm I là chủng không ưa lạnh và vì thế ít liên quan đến sản phẩm đông lạnh.
Tuy nhiên chúng thực hiện việc sản xuất ra phần lớn các bào tử chịu nhiệt và có
thể gây ra một vấn đề khi các loại thực phẩm đó phụ thuộc vào bước làm nóng.
Ngược lại, nhóm II chủng đại diện cho một mối nguy hiểm tiềm năng lớn

hơn trong các thực phẩm đông lạnh. Chúng không phân giải protein với các
protein có nguồn gốc, có thể phát triển và sản xuất chất độc ở nhiệt độ xuống dưới
3
0
C và sản sinh bào tử với sức đề kháng nhiệt thấp. Chúng cũng có xu hướng dễ bị
ức chế bởi muối. (bảng 1). Tỷ lệ tăng trưởng và sản xuất độc tố ở giới hạn nhiệt độ
thấp hơn là làm chậm và sẽ giảm hơn nữa bằng bất kỳ yếu tố khác bất lợi đến tăng
trưởng. Nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng thời gian lưu trữ 1 – 3 tháng là cần
thiết để sản xuất chất độc ở 3.3
0
C. Cá trích đóng gói hút chân không được cấy vào
100 bào tử / bao trở thành độc hại sau 15 ngày lưu trữ ở 5
0
C. Hầu hết các trường
hợp bệnh ngộ độc ở người đều do các típ chất độc loại A, B, E và tỷ lệ gây bệnh
của các típ độc khác cho con người là rất hiếm.
8
Clostridium botulinum 2011
Nhóm III sản xuất chất độc chủng loại C và D thường là liên quan với các
căn bệnh ở động vật và chim. Kể từ khi bệnh ngộ độc không nhất thiết phải là
nguyên nhân gây ra cái chết trong những trường hợp này, và đã có không có báo
cáo nào về sự có mặt của típ G loại trong thực phẩm, vai trò của nó trong việc gây
bệnh từ thực phẩm là đáng ngờ.
Nhóm IV chủng sản xuất độc tố loại G và một số Clostridium botulinum
không sinh độc tố được chỉ định là một loài mới, Clostridium argentinense.
2.1.4. Phân bố
Mặc dù cũng có trường hợp nó được tìm thấy ở đường tiêu hóa của loài
chim và động vật có vú, nhưng Clostridium botulinum bản chất là một vi khuẩn
hoại sinh sống trong đất. Nó xuất hiện rất phổ biến, mặc dù sự phân bố địa lý
không đồng nhất. Khảo sát tiến hành tại Hoa Kỳ tìm thấy típ độc loại A là phổ

biến nhất ở phía Tây, hiếm có ở thung lũng Mississippi, rất ít ở vùng dọc theo ven
biển phía Đông, nơi típ độc loại B đã chiếm ưu thế. Phân phối này đã được phản
ánh trong các dịch bệnh ngộ độc tại Hoa Kỳ trong giai đoạn 1950 – 1979, khi 85%
những người ở phía tây sông Mississippi bị ngộ độc do loại độc tố A và 63% của
những người phía đông bị ngộ độc do loại B. Vùng đất châu Âu típ độc loại B có
xu hướng phổ biến hơn loại A.
Bùn thủy sản cung cấp ẩm, kỵ khí, môi trường giàu chất dinh dưỡng do đó
Clostridium botulinum có thể phát triển, vì vậy việc phân lập các Clostridium
botulinum từ các nguồn này là nhiều hơn từ các loại đất. Típ độc loại E ưa lạnh đã
9
Clostridium botulinum 2011
được đặc biệt liên quan đến môi trường trong khu vực như miền tây Bắc Mỹ, Nhật
Bản và bờ biển Baltic. Kết quả là, loại E là thường là nguyên nhân về sự bùng phát
của bệnh ngộ độc mà cá là phương tiện lây nhiễm chủ yếu.
2.2. Bệnh và triệu chứng lâm sàng
2.2.1.Độc tố botulin
Clostridium botulinum có 8 típ độc tố là A, B, C
1
, C
2
, D, E, F, và G, (mặc dù
C
2
không phải là một chất độc thần kinh), được gọi chung là botulin. Phân biệt
giữa chúng với nhau bằng các đặc tính kháng nguyên. Trong đó có 3 típ gây độc là
A, B, E (độc nhất là típ A, đến típ B).
Độc tố này có tính độc mạnh nhất trong các chất độc đã biết. Nó độc gấp 7
lần so với độc tố uốn ván, gây chết người với một lượng rất nhỏ chỉ 10
-8
g. Lợi

dụng độc tố này con người đã từng sử dụng chúng trong chiến tranh để làm vũ khí
sinh học.
Hình: Ảnh 3D độc tố botulin
10
Clostridium botulinum 2011
Đặc điểm của độc tố này có là không bị phân hủy trong môi trường aicd của
dạ dày và dưới tác dụng của các enzyme tiêu hóa (pepsin, trysin), nó chịu được
nhiệt độ thấp, nhưng lại mất hoạt tính ở nhiệt độ cao và môi trường kiềm. Ở 50
0
C
độc tố đã bị phá hủy sau 30 phút.
Tuy nhiên, nếu được sử dụng với một liều lượng rất nhỏ thì độc tố botulin trở
nên có hữu ích trong điều trị y tế.
Trên thực tế, độc tố Botulinum đã được sử dụng để làm giảm nếp nhăn trên
khuôn mặt bằng cách ngăn ngừa co thắt của cơ bắp dưới da, và cho các trường hợp
y tế khác, chẳng hạn như co thắt mí mắt và mồ hôi nách nặng. Tuy nhiên, đã có
trường hợp xuất hiện của tác dụng phụ nghiêm trọng, chẳng hạn như tê liệt cơ bắp
lan ra ngoài vùng được điều trị. Điều đó cho thấy với việc sử dụng các chất độc
botulinum vì lý do y tế cần phải hết sức thận trọng vì botulin là con dao hai lưỡi.
2.2.2.Ngộ độc botulin
Ba loại bệnh ngộ độc được ghi nhận: do thực phẩm gây bệnh ngộ độc, bệnh
ngộ độc trẻ em hoặc truyền nhiễm và các nhiễm độc vết thương. Chỉ có ở hai loại
hình đầu tiên là thực phẩm luôn luôn có liên quan.
Nhiễm độc thực phẩm là một ví dụ về ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn: đó là
kết quả của việc tiêu hóa một ngoại độc tố được tạo ra bởi Clostridium botulinum
phát triển trong thực phẩm. Các độc tố botulin là độc tố thần kinh; không giống
như độc tố khác có hoạt động cục bộ trong ruột, chúng ảnh hưởng đến chủ yếu là
các dây thần kinh tiết acetylcholine của hệ thần kinh ngoại vi.
Các thử nghiệm trên động vật cho thấy độc tố ăn phải cùng với thức ăn và
còn hoạt tính sẽ được hấp thu ở phần trên của ruột non và đi đến mạch máu thông

qua hệ bạch huyết. Nó liên kết đến những dây thần kinh cuối tại ngã ba dây thần
kinh cơ, ngăn chặn sự giải phóng các acetylcholine có trách nhiệm truyền các kích
thích, do đó tạo ra trạng thái tê liệt.
Các triệu chứng ban đầu của nhiễm độc xảy ra từ 8 giờ đến 8 ngày, thông
thường là 12 – 48 h sau khi ăn phải các thực phẩm có chứa độc tố. Các triệu chứng
tiến triển theo tuần tự bao gồm: ói mửa, táo bón, bí tiểu, nhìn một thành hai, khó
nuốt (chứng khó nuốt), miệng khô và khó khăn trong việc nói (dysphonia). Bệnh
nhân vẫn tỉnh táo cho đến khi các kết quả suy nhược tiến triển như suy hô hấp
hoặc suy tim dẫn đến tử vong. Điều này thường xuất hiện 1 – 7 ngày sau khi khởi
phát triệu chứng. Bệnh nhân nếu còn sống có thể phải mất đến 8 tháng đến hồi
phục hoàn toàn.
11
Clostridium botulinum 2011
Các bác sĩ có thể thực hiện việc để giảm nhẹ tác động của độc tố đã tích tụ
tại các khớp thần kinh cơ, mặc dù thuốc kháng độc tố phong tỏa thần kinh cơ như
4 – aminopyridine được tạo ra có cải thiện tạm thời. Do đó sự tồn tại quan phụ
thuộc vào chẩn đoán và điều trị sớm, chủ yếu bằng cách rửa dạ dày bằng kiềm rửa
để loại bỏ bất kỳ thực phẩm độc hại còn lại, truyền tĩnh mạch của kháng độc tố cụ
thể hoặc polyvalent để trung hòa độc tố lưu hành, và hỗ trợ hô hấp cơ học khi cần
thiết.
Tỷ lệ tử vong thường cao (20 – 50%), nhưng sẽ phụ thuộc vào có nhiều yếu
tố như các loại độc tố (loại A thường tạo ra một tỷ lệ tử vong cao hơn B, E), số
lượng ăn phải, các loại thực phẩm và tốc độ của chữa trị.
Nó đã được chứng minh, ít nhất là đối với các loại C và D, là thông tin di
truyền mã hóa cho sản xuất độc tố được kết hợp với một vi khuẩn ôn hoà. Điều
này vẫn tiếp diễn trong tế bào vi khuẩn như prophage một; DNA của nó kết hợp và
tái tạo với các nhiễm sắc thể của vi khuẩn mà không gây phân giải. Trạng thái
phân giải xảy ra rộng rãi trong vi khuẩn trong tự nhiên, thường không làm thay đổi
vi sinh vật đặc trưng, nhưng đôi khi, như ở đây, nó liên kết với việc sản xuất chất
độc. Một ví dụ khác là việc sản xuất các độc tố bệnh bạch hầu bằng chế phẩm

Corynebacterium diphtheriae.
Trẻ sơ sinh bị ngộ độc khác với hội chứng cổ điển ở chỗ nó kết quả của tích
tụ của trong ruột trẻ sơ sinh với C. botulinum và sản xuất độc tố tại chỗ. Nó đã
được mô tả đầu tiên (năm 1976) và thường xuyên nhất được báo cáo tại Hoa Kỳ,
mặc dù các trường hợp đã xuất hiện tại Úc, Canada, châu Âu và Nam Mỹ. Đến
năm 2005 đã có 6 các trường hợp xác nhận của bệnh ngộ độc cho trẻ sơ sinh ở
Anh, chủ yếu liên quan đến sản xuất độc tố loại B.
Nó xảy ra chủ yếu ở trẻ tuổi từ 2 tuần đến 6 tháng, đặc biệt khoảng thời gian
đó không có thức ăn sữa được cung cấp Ở giai đoạn này, trẻ sơ sinh hệ vi khuẩn
đường ruột không phát triển đầy đủ và chưa có khả năng cạnh tranh và loại trừ ra
C. botulinum. Kể từ khi nó chỉ có đòi hỏi ăn phải bào tử tồn tại, các nguồn môi
trường khác với thực phẩm có thể tham gia và những loại thực phẩm mà hoạt động
như phương tiện không nhất thiết có khả năng hỗ trợ tăng trưởng của sinh vật. Mật
ong là liên quan với một số trường hợp ngộ độc cho trẻ sơ sinh ở Mỹ và một số
cuộc điều tra đã tìm thấy bào tử tồn tại của C. botulinum trong 10% số mẫu kiểm
tra. Do đó nó được cho là không nên ăn mật ong đối với trẻ em dưới một năm tuổi.
Bệnh này có đặc điểm là các triệu chứng thần kinh cơ liên quan đến các cổ
điển và chẩn đoán ngộ độc có thể được xác nhận bởi sự cô lập của sinh vật và độc
12

×