Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tiểu Luận Kinh Điển C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.32 KB, 35 trang )

MỤC LỤC
Trang
A – LỜI MỞ ĐẦU

1

B – NỘI DUNG

3

I/. TƯ TƯỞNG CỦA I.V.LÊNIN VỀ BẢN CHẤT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
3
1/. Đảng lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động

4

2/. Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân

6

3/. Đảng tổ chức theo chế độ tập trung dân chủ

10

4/. Đường lối, chiến lược, sách lược của Đảng phải xuất phát từ lợi ích của giai
cấp công nhân và lợi ích toàn dân

11

II/. Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG CỦA LÊNIN ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG


ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY

13

1


A - LỜI MỞ ĐẦU
Những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác ra đời là quá trình C.Mác và
Ph.Ăngghen đi sâu nghiên cứu thực tiễn xã hội trong mâu thuẫn nội tại của chủ
nghĩa tư bản. Hai ông nhận thấy rằng, cuộc cách mạng công nghiệp đã phát triển
mạnh mẽ ở Anh, Pháp, Đức và một số nước khác, đã làm cho lực lượng sản xuất phát
triển mạnh mẽ và được biểu hiện về mặt xã hội đưa hai giai cấp tiến bộ nhất thời đại
bước lên vũ đài chính trị với vị trí trung tâm, đó là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản
hiện đại. Trong lòng xã hội tư bản lúc bấy giờ, mâu thuẫn giữa tư sản và phong kiến
chưa được giải quyết triệt để thì xuất hiện mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp
vô sản và mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt. Trong giai đoạn lịch sử đầy sôi
động ấy đã xuất hiện những lãnh tụ cách mạng thiên tài của giai cấp vô sản mà tiêu
biểu là C.Mác và Ph.Ăng ghen. Hai ông đã tìm ra quy luật phát triển của xã hội, luận
chứng một cách khoa học về sự diệt vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản
và sự ra đời tất yếu của một hình thái kinh tế - xã hội mới, đó là chủ nghĩa cộng sản
mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Tự bản thân mình, giai cấp công nhân không thể thực hiện được sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân là khách quan, song để biến khả năng khách quan thành
hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ quan. Trong những nhân tố ấy việc
thành lập Đảng cộng sản với lý luận tiên phong, trung thành với sự nghiệp lợi ích
giai cấp là nhân tố quyết định đảm bảo cho việc thực hiện sứ mệnh lịch sử thủ tiêu
chủ nghĩa tư bản, xây dựng CNXH, chủ nghĩa cộng sản.
Trong những tác phẩm kinh điển của mình, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã đặt nền
tảng tư tưởng cho những vấn đề về Đảng và xây dựng Đảng trong tác phẩm “Tuyên

ngôn của Đảng cộng sản” (gọi tắt là Tuyên ngôn). Đây là cơ sở để Đảng cộng sản
xây dựng cương lĩnh đường lối đề ra chiến lược và sách lược thực hiện mục đích của
mình đó là: lật đổ giai cấp tư sản, lập nền thống trị giai cấp vô sản, tiêu diệt xã hội
2


cũ, xã hội tư sản, dựa trên sự đối kháng giai cấp và không có chế độ tư hữu. Những
nguyên lý C.Mác và Ph.Ăng ghen trình bày trong tác phẩm là nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trải qua mọi
thử thách, hơn một thế kỷ qua, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhiều vấn
đề mới đặt ra đòi hỏi giải quyết nhưng chủ nghĩa Mác không hề lỗi thời. Những tư
tưởng đó có ý nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng Đảng của Đảng ta.
Đảng Cộng sản Việt Nam – chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động Việt Nam, Đảng đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Sự ra đời của Đảng ta, mặc dù có
những yếu tố đặc thù riêng nhưng vẫn đảm bảo các yếu tố cho sự ra đời của một
chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa
xã hội khoa học với phong trào công nhân. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, chủ nghĩa C.Mác - Lênin luôn giữ vị trí nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa C.Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đối với Việt Nam
chúng ta hiện nay, đứng trước xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, công
cuộc xây dựng và đổi mới đất nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
hàng đầu nhưng nó đòi hỏi chúng ta phải có lý luận cách mạng dẫn
đường nhằm đảm bảo cho sự phát triển ấy không đi chệch hướng con đường
tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Do vậy, việc nghiên cứu “Tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăng-ghen về tính tất yếu, quy luật ra đời, vai trò, bản chất của chính đảng vô
sản. Ý nghĩa đối với việc xây dựng Đảng ta hiện nay”, nhằm để đấu tranh với
những tư tưởng sai lệch về giá trị quan trọng của lý luận về đảng cộng sản, giúp

Đảng ta vững vàng lập trường tư tưởng của chính Đảng lãnh đạo.

3


B - NỘI DUNG
I/. TƯ TƯỞNG CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN VỀ TÍNH TẤT YẾU,
QUY LUẬT RA ĐỜI, VAI TRÒ, BẢN CHẤT CỦA CHÍNH ĐẢNG VÔ SẢN
1. Tư tưởng của C.Mác - Ph.Ăngghen về tính tất yếu, quy luật ra đời của
chính đảng vô sản
C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên đã nêu lên những tư tưởng cơ
bản về chính Đảng, đồng thời các ông cũng đưa ra những luận điểm để chứng minh
sự ra đời của Đảng vô sản là một yếu tố khách quan. Những luận điểm đó bắt nguồn
từ việc nghiên cứu thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân tới luận điểm khoa học
về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân với tư cách là người đào huyệt chôn chủ
nghĩa tư bản, đồng thời sáng tạo ra một xã hội mới không còn giai cấp, không còn
tình trạng áp bức, bóc lột người.
Về mặt lý luận:
Trong Tuyên ngôn, khái niệm về Đảng được hiểu: Đảng là đội tiên phong, là
bộ phận giác ngộ nhất của giai cấp vô sản. C.Mác và Ph.Ăngghen nêu rõ: “Về mặt
thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công
nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý
luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều
kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”.{4.Tr.614}
Sự hình thành của Đảng bắt nguồn từ sự liên hiệp của những người vô sản
thành các đoàn thể, chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh. Tổ chức ấy của những người
vô sản tạo điều kiện cho sự ra đời của chính đảng vô sản. Tuyên ngôn cho rằng, sự ra
đời của chính đảng vô sản là một tất yếu khách quan phù hợp với quy luật đấu tranh
giai cấp giữa vô sản và tư sản: “Sự tổ chức như vậy của những người vô sản thành
giai cấp và do đó thành chính đảng, luôn luôn bị sự cạnh tranh giữa công nhân với

4


nhau phá vỡ. Nhưng nó luôn luôn được tái lập và luôn luôn mạnh mẽ hơn, vững
chắc hơn, hùng mạnh hơn”.{4.Tr.609}
Từ những đặc điểm đó, Mác - Ăngghen đã đúc rút trong Tuyên ngôn:
- Đảng mang tính giai cấp, đại diện cho lợi ích của giai cấp: “Những người
cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác.
Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào khác tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp
vô sản”.{4.Tr.614}
- Đảng là tổ chức có mục đích, nhiệm vụ rõ ràng. Tuyên ngôn tuyên bố rằng,
mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản là lật đổ sự thống trị của giai cấp tư
sản và giành lấy chính quyền.
- Đảng có lý luận soi đường cho hoạt động của mình. Lý luận đó không phải
là giáo điều mà là những nguyên lý được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn. C.Mác
và Ph.Ăngghen viết: “Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành
một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu”{4.Tr.616}. Hay nói một cách
rõ ràng hơn là: “Họ phải phá hủy hết thảy những cái gì từ trước đến nay, vẫn đảm
bảo và bảo vệ chế độ tư hữu”.{4.Tr.611}
- Đảng có cương lĩnh chính trị, có chiến lược, sách lược cách mạng. Tuyên
ngôn tuyên bố rằng, đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình bày trước
toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình và phải có một Tuyên ngôn
của đảng của mình. “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” chính là cương lĩnh chính trị
của đảng vô sản, trong đó trình bày quan điểm, mục đích, nhiệm vụ, chiến lược và
sách lược của Đảng.
Từ những nghiên cứu trên Mác – Ăngghen đã đi đến kết luận rằng: sự ra đời
của Đảng cộng sản là điều kiện tiên quyết để đảm bảo cho cách mạng xã hội thu
được những thắng lợi và thực hiện được mục tiêu cuối cùng của nó là tiêu diệt giai

5



cấp. Vì chính đảng vô sản là đảng của giai cấp công nhân, đảng mang bản chất giai
cấp công nhân: đảng luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, đồng thời
mọi chủ trương, chiến lược, sách lược, của đảng không chỉ xuất phát từ lợi ích của
giai cấp công nhân, mà còn là đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động.
Hai ông chỉ rõ rằng, giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng nhất, tiên tiến
nhất trong xã hội. Song, Mác và Ăngghen cũng khẳng định rằng: giai cấp công nhân
chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình khi nó tự tổ chức ra được một
chính đảng độc lập của nó. Ngay từ năm 1947, hai ông đã cương quyết bảo vệ quan
điểm phải tổ chức cho được một đảng riêng biệt, tách khỏi tất cả các đảng khác và
đối lập với các đảng đó, từng bước tạo đủ sức mạnh để chiến thắng kẻ thù khi thời
cơ đến.
Dưới sự chỉ đạo của hai ông, Điều lệ của: “Đồng minh những người cộng sản”
đã được khởi thảo, trong đó những tư tưởng cơ bản về tổ chức xây dựng Đảng đã
được thể hiện. Ngoài ra tư tưởng của hai ông còn mở rộng ra tầm quốc tế. Khẩu
hiệu: “Vô sản tất cả đoàn kết lại” trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đã trở thành
phương châm hoạt động cho phong trào công nhân toàn thế giới. Những tư tưởng
trên của Mác và Ăngghen về chính Đảng có ảnh hưởng to lớn và trực tiếp đến sự
phát triển của toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nó đã góp phần
làm phát triển ngày càng to lớn của phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản trên toàn thế giới. Từ lý luận trên cho ta thấy, sự cần thiết phải thành
lập một chính Đảng độc lập của giai cấp vô sản là một tất yếu khách quan, có vai trò
và nhiệm vụ vô cùng quan trọng, thể hiện trách nhiệm cụ thể của người chiến sĩ cộng
sản nói riêng, cũng như toàn thể tổ chức Đảng cộng sản nói chung trong việc thực
hiện sứ mệnh lịch sử lớn lao của mình.
Về mặt thực tiễn:

6



Bước vào những năm 1830-1840 của thế kỷ XIX phương thức sản xuất của
TBCN đã phát triển lên tầm cao, từ đó đã trở thành một lực lượng kinh tế thống trị ở
một số nước tư bản phát triển, như nước Anh, Pháp, Đức và cùng một số các nước
Tây Âu. Sự phát triển đó đã làm bộc lộ lên những mâu thuẫn bên trong vốn có đó,
biểu hiện về mặt xã hội, đó là cuộc đấu tranh của phong trào công nhân chống các
nhà tư bản đã lan rộng khắp. Từ đó làm cho sự mâu thuẫn của phương thức sản xuất
TBCN ngày càng căng thẳng và gay gắt thêm, khiến cho phong trào đấu tranh cách
mạng của GCVS mở rộng ra một số nước Tây Âu.
Từ thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản
những năm thế kỷ XIX ngày càng đòi hỏi phải có một chính đảng vô sản của giai
cấp công nhân, nhất là bài học sau khi Công xã Pari thất bại. Ngay trong “Lời kêu
gọi của Ban Chấp hành Trung ương gửi Liên đoàn những người cộng sản”, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Liên đoàn phải cố gắng để thành lập bên cạnh phái dân
chủ chính thống, một tổ chức đảng công nhân bí mật và công khai độc lập và biến
mỗi chi bộ của mình thành hạt nhân của các hội liên hiệp công nhân”. Trong “Lời
nói đầu viết cho bản Cương lĩnh của Đảng công nhân Pháp” C.Mác đã chỉ ra rằng,
để giải phóng mình và toàn thể loài người không phân biệt nam nữ, chủng tộc khi
giai cấp vô sản thực hiện cuộc cách mạng và khi giai cấp vô sản được tổ chức thành
một chính đảng độc lập và cần phải cố gắng để đạt được một tổ chức như vậy bằng
mọi phương tiện mà giai cấp vô sản có trong tay.
C.Mác và Ăngghen sáng lập ra lý luận khoa học bằng tất cả trí tuệ của mình
và áp dụng vào hoạt động thực tiễn. Hai ông đã cố gắng đoàn kết những phần tử tiên
tiến của phong trào vô sản và đồng thời trực tiếp thành lập đảng vô sản, hai ông đều
nhận thức sâu sắc cần làm cho giai cấp vô sản trở thành một lực lượng độc lập trong
tham gia phong trào dân chủ tư sản, khiến cho họ tiến tới thực hiện mục đích công
sản chủ nghĩa. C.Mác – Ph.Ăngghen cũng hiểu rằng lúc này cần phải có một Đảng

7



vô sản triệt để cách mạng thật sự độc lập có cơ sở lý luận đúng đắn. Hai ông khẳng
định: “Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt
của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ
sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành chính quyền”.{4.Tr.615}
Có được như vậy GCVS mới có khả năng thực hiện được sứ mệnh lịch sử của
mình. C.Mác – Ph.Ăngghen chỉ ra rằng: “Hiện nay, đã đến lúc những người cộng
sản phải công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ
của mình; và phải có một Tuyên ngôn của đảng của mình để đập lại câu chuyện
hoang đường và bóng ma cộng sản”.{4.Tr.595}
2. Tư tưởng của C.Mác - Ph.Ăngghen về quy luật ra đời của chính đảng vô
sản
Sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh của GCVS đòi hỏi một cách bức thiết
phải có một hệ thống lý luận soi đường và một cương lĩnh chính trị làm kim chỉ nam
cho hành động cách mạng. Vào tháng 12 năm 1947, Đại hội lần thứ II Liên đoàn
những người cộng sản đã thảo luận và thông qua Những nguyên lý của chủ nghĩa
cộng sản, do C.Mác – Ph.Ăngghen thảo ra bản tuyên ngôn chính thức, đó là Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản. Việc tuyên bố bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản cũng là
sự thông báo về sự ra đời của một học thuyết cách mạng, một thế giới quan khoa học
của những tư tưởng C.Mác – Ph.Ăngghen. Tư tưởng cơ bản của Tuyên ngôn được
Ph.Ăngghen viết lời tựa cho bản tiếng Đức xuất bản 1883: “Tư tưởng cơ bản và chủ
đạo của “Tuyên ngôn” là: Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã
hội – cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra; cả hai cái đó cấu thành cơ
sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó (từ khi chế độ
công hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử các cuộc đấu
tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc
lột, giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự
8



phát triển xã hội của họ; nhưng cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn
mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải
phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa,
nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp
bức và khỏi những cuộc đấu tranh giai cấp”{1.Tr.509-510}. Sự phát triển của nền
sản xuất TBCN đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ tư hữu TBCN đó và đã chuẩn bị những
tiền đề khách quan cho quá trình đó. C.Mác – Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, quá trình
đó không diễn ra một cách tự động. Người đào huyệt chôn chế độ TBCN là GCVS
do chính xã hội tư bản đẻ ra: “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ
giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những
công nhân hiện đại, những người vô sản”.{4.Tr.605}
GCVS hiện đại là một giai cấp có sứ mệnh lịch sử đào huyệt chôn chủ nghĩa
tư bản và có khả năng sáng lập ra xã hội mới. Trong suốt quá trình trưởng thành lớn
lên của GCVS cùng với nền đại công nghiệp, nhưng lại luôn bị bóc lột từ GCTS,
GCTS người không quan tâm đến sự bảo đảm của GCVS. Đồng thời sự phát triển
của nền đại công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô sản, mà còn tập
hợp họ lại thành những khối quần chúng lớn hơn; lực lượng của những người vô sản
tăng thêm và họ thấy rõ lực lượng của mình hơn, phương tiện máy móc ngày càng
xóa bỏ mọi sự khác nhau trong lao động và càng làm cho GCVS tiếp xúc với nhau
dể dàng hơn. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng: “Việc tăng thêm phương tiện
giao thông do đại công nghiệp tạo ra, giúp công nhân các địa phương tiếp xúc với
nhau, đã làm cho sự đoàn kết ấy được dể dàng. Mà chỉ tiếp xúc như vậy cũng đủ để
tập trung nhiều cuộc đấu tranh địa phương, đâu đâu cũng mang tính chất giống
nhau, thành cuộc đấu tranh toàn quốc, thành cuộc đấu tranh giai cấp… Sự tổ chức
như vậy của những người vô sản thành giai cấp và do đó thành chính đảng, luôn

9


luôn bị sự cạnh tranh giữa công nhân với nhau phá vỡ. Nhưng nó luôn luôn được tái

lập và luôn luôn mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn, hùng mạnh hơn”.{18.Tr.203}
Từ việc xác định vai trò lịch sử thế giới của GCVS Ph.Ăngghen đã đi đến xác
định sự cần thiết phải thành lập một Đảng cách mạng của GCVS, một chính Đảng
độc lập của giai cấp mình: “Trong cuộc đấu tranh của mình chống quyền lực liên
hợp của các giai cấp hữu sản, giai cấp công nhân, chỉ khi được tổ chức thành một
chính đảng độc lập đối lập với tất cả các chính đảng cũ do giai cấp hữu sản lập nên,
thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp”.{2.Tr.173}
Chính đảng của GCVS ra đời là một đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc đấu
tranh giai cấp, cần có lực lượng lãnh đạo GCVS thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử
thế giới của mình. Đảng là một tổ chức chính trị, là sản phẩm lịch sử tự nhiên của
cuộc đấu tranh giai cấp, và Đảng đại diện cho quyền lợi của GCVS và quần chúng
lao động.
Thực tiễn khi chưa có đảng lãnh đạo, giai cấp công nhân luôn có sự cạnh
tranh, chia rẽ, mất đoàn kết. Sau Công xã Pari 1871, C.Mác và Ph.Ăngghen thấy
rằng: “Để khỏi một lần nữa tụt xuống vai trò của kẻ vỗ tay hoan nghênh bọn dân
chủ tư sản, công nhân mà trước hết là Liên đoàn phải cố gắng thành lập, song song
với phái dân chủ chính thức, một tổ chức đảng riêng biệt, bí mật và công khai của
công nhân và biến mỗi chi bộ thành trung tâm và hạt nhân của các Hội Liên hiệp
công nhân”{2.Tr.173}. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thất bại là
tổ chức không có chính đảng thống nhất ý chí và hành động lãnh đạo. Từ đó, hai ông
chỉ đạo thành lập các chính đảng độc lập ở từng nước, các chính đảng đó phải là tổ
chức đoàn kết thống nhất, để đoàn kết giai cấp vô sản ở từng nước và giữ vững
nguyên tắc thống nhất quốc tế của phong trào vô sản. Khi chưa có đảng lãnh đạo thì
hành động của giai cấp công nhân không đúng tính chất của một giai cấp. Vì đảng
cộng sản là đảng của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Thông
10


qua thực tế phong trào mà C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ cho ta thấy tính tất yếu của
cuộc đấu tranh giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, các ông viết: Những phong

trào ấy thể hiện ra là những phong trào của giai cấp bị áp bức hiện đại, của giai cấp
vô sản, là những hình thức ít nhiều phát triển của cuộc đấu tranh lịch sử tất yếu của
giai cấp vô sản chống lại giai cấp thống trị, giai cấp tư sản… Thực tế cho thấy, bất
cứ chính đảng nào cũng đều mang trong mình bản chất của một giai cấp nhất định,
không có đảng phi giai cấp hay đảng của một dân tộc chung chung. Do đó, đảng độc
lập của giai cấp công nhân chỉ có thể mang bản chất của giai cấp công nhân.
Khi chưa có đảng lãnh đạo, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân không vượt
khỏi giới hạn cao nhất của nó là “chủ nghĩa công đoàn”. Trong khi đó, đảng của
công nhân phải thể hiện tính tổ chức, sự thống nhất ý chí, tính độc lập với mức độ
cao nhất; nếu nó không muốn… bị giai cấp tư sản bóc lột, không muốn theo đuôi
giai cấp tư sản. Tất nhiên, không có nghĩa là đảng cộng sản tồn tại biệt lập và tách
khỏi các đảng và các tổ chức vô sản khác. Vì theo quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen thì đảng vô sản phải duy trì tính độc lập giai cấp của mình. Trên cơ sở
là không chỉ đại diện cho quyền lợi của giai cấp công nhân mà còn đại diện cho
quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Còn lúc chưa có đảng thì họ: những người
vô sản chưa đi đánh kẻ thù của chính mình mà đánh kẻ thù của kẻ thù mình, tức là
những tàn dư của chế độ quân chủ chuyên chế, bọn địa chủ, bọn tư sản phi công
nghiệp, bọn tiểu tư sản. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chủ trương xây dựng chính đảng
độc lập của giai cấp vô sản. Đó là chính đảng độc lập về chính trị, tư tưởng và tổ
chức.
Đảng cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa
học với phong trào công nhân, trên quan điểm duy vật lịch sử, xuất phát từ cơ sở
kinh tế để nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời
thông qua những sự kiện lịch sử đấu tranh giai cấp trong mỗi hình thái kinh tế - xã

11


hội để tìm ra một lực lượng trung tâm có khả năng lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa,
xây dựng chế độ mới – xã hội cộng sản chủ nghĩa.

C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên thực hiện sự kết hợp trên để
thành lập “Liên đoàn những người cộng sản”. Là một thứ chủ nghĩa mà từ nay người
ta không còn hiểu chủ nghĩa cộng sản là xây dựng bằng óc tưởng tượng, một lý
tưởng xã hội hết sức hoàn bị, mà là sự nhận thức về bản chất, những điều kiện và
những mục đích chung bắt nguồn từ những điều kiện ấy của cuộc đấu tranh do giai
cấp vô sản tiến hành. Như vậy, rõ ràng là chủ nghĩa cộng sản đã trở thành mục đích,
là lý tưởng hướng đến của nhân loại, giai cấp vô sản đã, đang và sẽ thực hiện sứ
mệnh cao cả mà lịch sử nhân loại giao cho.
Sự cần thiết phải thành lập các đảng vô sản độc lập luôn đặt ra trong quá trình
vận động và phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Năm 1871, tại
Hội nghị Luân Đôn của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế họp từ 17 đến 23/9/1871,
Ph.Ăngghen tiếp tục đấu tranh cho chính đảng vô sản bằng việc chắp bút cho Nghị
quyết “Về hoạt động chính trị của giai cấp công nhân”, trong đó nêu bật vấn đề
thành lập các đảng công nhân độc lập phải được xem là các nguyên tắc cơ bản của
phong trào. Ông viết: “Đảng công nhân phải được thành lập không phải để thành
cái đuôi của bất cứ một đảng tư sản nào mà phải thành một đảng độc lập, có mục
đích riêng và chính trị riêng của mình”{4.Tr.314}. Nghị quyết phản ánh tư tưởng
của C.Mác – Ph.Ăngghen trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa Bacunin – biểu hiện
của chủ nghĩa bè phái, chủ nghĩa vô chính phủ có hại cho phong trào công nhân. Tư
tưởng này được nhắc lại trong tác phẩm “Cái được gọi là những sự phân biệt trong
Quốc tế”: chỉ khi đã tổ chức thành một chính đảng chính trị riêng biệt, đối lập với tất
cả các đảng phái cũ do các giai cấp hữu sản tạo nên, thì giai cấp công nhân mới có
thể hoạt động với tư cách là một giai cấp, chống lại quyền lực liên hiệp ấy của các
giai cấp hữu sản. Sự tổ chức của giai cấp công nhân như vậy thành một chính đảng

12


là cần thiết để đảm bảo thắng lợi của cách mạng xã hội và mục đích cuối cùng của
nó – xóa bỏ giai cấp.

3. Tư tưởng của C.Mác - Ph.Ăngghen về vai trò của chính đảng vô sản
Trong các tác phẩm của mình, khi bàn về vai trò của các chính đảng vô sản,
C.Mác và Ph.Ăngghen đều khẳng định Đảng có vai trò lãnh đạo cách mạng. Vai trò
đó của chính đảng vô sản là một tất yếu lịch sử, được thể hiện trên những phương
diện sau:
Thứ nhất, Đảng vô sản là đội tiên phong chính trị
Đảng vô sản là chính đảng của giai cấp vô sản, là sản phẩm tất yếu của cuộc
đấu tranh giai cấp, là sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công
nhân. Đảng đại biểu quyền lợi của giai cấp vô sản, là đội tiên phong về lý luận và
thực tiễn. Sự ra đời của đảng vô sản đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp vô sản.
Đảng khác với toàn bộ giai cấp vô sản ở tính tiên phong. Vai trò tiên phong của
Đảng đảm bảo cho Đảng tập hợp được giai cấp vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng là điều
kiện đảm bảo cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử toàn thế giới. Tính tiên
phong của Đảng được thể hiện trước hết là sự Tiên phong về lý luận. Đây là tiêu
chuẩn căn bản để phân biệt giữa người cộng sản và người vô sản. C.Mác và
Ph.Ăngghen đòi hỏi về lý luận Đảng phải được vũ trang bằng lý luận tiên tiến, có
trình độ giác ngộ cao. Hai ông coi việc trang bị lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học
cho giai cấp công nhân là yếu tố rất quan trọng để nâng cao giác ngộ cho họ và việc
giáo dục chủ nghĩa xã hội cho đội ngũ đảng viên là một nội dung đặc biệt quan trọng
của việc xây dựng Đảng về tư tưởng. Theo C.Mác – Ph.Ăngghen, chỉ có thể kết hợp
chặt chẽ sự thống nhất về tư tưởng với sự thống nhất về tổ chức, dựa trên nền tảng
vững chắc của chủ nghĩa xã hội khoa học mới làm cho Đảng trở thành một lực lượng
chính trị có khả năng thu hút đông đảo quần chúng nhân dân theo mình trong cuộc
đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
13


Ngoài ra, tính tiên phong của Đảng còn được biểu hiện trong hoạt động thực
tiễn của Đảng bằng sự gương mẫu của người đảng viên. C.Mác – Ph.Ăngghen đã
nêu trong “Lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương gởi Liên đoàn những người

cộng sản” tháng 3 năm 1950: “Các hội viên của Liên đoàn đều tích cực tham gia
phong trào họ đều đứng ở vị trí đầu trong hàng ngũ những người chiến sĩ cách
mạng triệt để duy nhất của giai cấp vô sản”.{3.Tr.341}
Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác – Ph.Ăngghen khẳng định:
“Vậy là, về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong
các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào
tiến lên; về mặt lý luận họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu
rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”. {4.Tr.614615}
Thứ hai, Đảng vô sản là người tổ chức và lãnh đạo
C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “Mục đích trước mắt của những người
cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức
những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp
vô sản giành lấy chính quyền”.{4.Tr.615}
Như vậy, chính đảng vô sản có vai trò to lớn là lãnh đạo phong trào công
nhân, bồi dưỡng giáo dục họ, giúp họ đấu tranh có cương lĩnh, có tổ chức, chiến
lược và sách lược hành động cụ thể, lãnh đạo giai cấp vô sản dùng sự thống trị của
mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất
cả những công cụ sản xuất vào nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ
chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản
xuất. Cho nên, việc giai cấp vô sản trở thành chính đảng là tất yếu để đảm bảo cho
cách mạng xã hội thu được thắng lợi và thực hiện được mục đích cuối cùng của nó
là: tiêu diệt giai cấp tư sản..
14


Trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, giai cấp vô sản thông qua con
đường cách mạng mà trở thành giai cấp thống trị, giành chính quyền, thiết lập và sử
dụng nhà nước chuyên chính vô sản như một công cụ, phương tiện quan trọng để
tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng toàn diện, triệt để nhất trong lịch sử nhằm cải tạo
xã hội cũ, xây dựng chế độ mới không còn đối kháng giai cấp. Nhiệm vụ này chỉ có

thể thực hiện được dưới sự lãnh đạo của Đảng vô sản.
Thứ ba, Đảng vô sản là nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng
- Đảng có vai trò là hạt nhân lãnh đạo chính trị của phong trào vô sản. Đảng
đề ra đường lối cách mạng cho giai cấp vô sản, đó là đường lối cách mạng không
ngừng, đưa sự nghiệp đến thắng lợi cuối cùng. Trong Lời kêu gọi của Ban Chấp
hành Trung ương gửi Liên đoàn những người cộng sản tháng 3 năm 1850, C.Mác –
Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Lợi ích của chúng ta và nhiệm vụ của chúng ta là phải làm cho
cách mạng trở thành cách mạng không ngừng, cho đến khi tất cả các giai cấp ít hay
nhiều hữu sản đều bị gạt ra khỏi chính quyền, cho đến khi giai cấp vô sản giành
được chính quyền nhà nước… Đối với chúng ta, vấn đề không phải là cải biến chế
độ tư hữu, mà là xóa bỏ nó, không phải là làm lu mờ những đối kháng giai cấp, mà
là xóa bỏ những giai cấp, không phải là cải thiện xã hội hiện hành, mà là xây dựng
một xã hội mới”.{2.Tr.172}
Đảng đề ra phương pháp đấu tranh thích hợp cho giai cấp vô sản, như hướng
vào đấu tranh chính trị, đồng thời vẫn sử dụng đấu tranh kinh tế làm thủ đoạn cho
mục đích chính trị; sử dụng bạo lực cách mạng để lật đổ chính quyền bóc lột…
Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác – Ph.Ăngghen thay mặt những
người cộng sản: “Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được
bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện có”{1.Tr.586}. Đồng thời
hai ông cũng chỉ rõ: “Nhưng để có thể đương đầu một cách kiên quyết và có tính
chất uy hiếp với các đảng sẽ phản bội công nhân, ngay từ giờ phút thắng lợi đầu
15


tiên đó, công nhân cần được vũ trang tốt và tổ chức tốt”, phải “lập tức vũ trang cho
toàn thể giai cấp vô sản”{2.Tr.175-176}. Và “việc giải phóng giai cấp công nhân
về mặt kinh tế là mục tiêu vĩ đại mà bất kỳ phong trào chính trị nào cũng phải phục
tùng với tư cách là thủ đoạn”.{3.Tr.23}
Đảng đề ra sách lược hành động cho giai cấp vô sản, trong quan hệ với các
đảng của giai cấp tư sản, tiểu tư sản nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp vô sản. Đối với

đảng dân chủ tiểu tư sản, trong “Những người cộng sản và Karl Heinzel”, C.Mác –
Ph.Ăngghen đã phân tích: “Trong những điều kiện hiện nay,… những người cộng
sản chẳng những hoàn toàn là những người dân chủ trong tất cả các vấn đề thực
tiễn của Đảng. Hậu quả tất yếu của nền dân chủ ở tất cả các nước văn minh là
quyền thống trị chính trị của giai cấp vô sản, mà quyền thống trị chính trị của giai
cấp vô sản là tiền đề đầu tiên của tất cả mọi biện pháp cộng sản chủ nghĩa. Cho
nên, chừng nào còn chưa giành được nền dân chủ thì những người cộng sản và
những người dân chủ còn kề vai sát cánh chiến đấu, và lợi ích của những người dân
chủ cũng là lợi ích của chính những người cộng sản”.{1.Tr.425}
- Đảng có vai trò lãnh đạo về tư tưởng, lý luận cho phong trào cách mạng.
C.Mác – Ph.Ăngghen đánh giá rất cao vai trò của tư tưởng, lý luận. Năm 1844, trong
tác phẩm “Góp phần phê phán triết học Hêghen”, C.Mác từng viết: “Lực lượng vật
chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành
lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”{1.Tr.25}. Cũng trong
năm 1844, C.Mác – Ph.Ăngghen tiếp tục khẳng định trong tác phẩm “Gia đình thần
thánh”: “Nói chung, tư tưởng không thể thực hiện tốt được gì hết. Muốn thực hiện
tốt những tư tưởng thì cần có những con người sử dụng tốt lực lượng thực
tiễn”{1.Tr.154}. Những con người đó, trong cuộc đấu tranh giai cấp, không ai khác,
chính là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng phải là người đem lý luận cách mạng và

16


khoa học vào phong trào quần chúng, biến sức mạnh quần chúng thành thắng lợi của
cách mạng.
- Đảng có vai trò là người tổ chức, chỉ đạo phong trào quần chúng. Vai trò này
được thể hiện rất rõ trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” về mục đích trước mắt
của những người cộng sản, ông khẳng định: “Mục đích trước mắt của những người
cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: Tổ chức
những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp

vô sản giành lấy chính quyền”{4.Tr.615} và khẩu hiệu mà họ nêu ra là “Vô sản tất
cả các nước, đoàn kết lại !”.{1.Tr.586}
Để thực hiện vai trò lãnh đạo, Đảng phải được xây dựng thành một tổ chức
độc lập. Đây là một trong những nội dung tư tưởng lớn của C.Mác – Ph.Ăngghen về
xây dựng chính đảng vô sản. Trong quá trình tham gia cải biến tổ chức Liên đoàn
những người chính nghĩa thành Liên đoàn những người cộng sản, C.Mác –
Ph.Ăngghen đã trực tiếp thực hiện tư tưởng này. Liên đoàn những người cộng sản
trở thành tổ chức quốc tế đầu tiên của giai cấp công nhân, hoạt động theo con đường
của chủ nghĩa Mác.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, Liên đoàn không tránh khỏi sự tác động
tiêu cực của các đảng phái tư sản, tiểu tư sản. Trong tác phẩm “Lời kêu gọi của Ban
Chấp hành Trung ương gửi Liên đoàn những người cộng sản” tháng 3 năm 1850,
C.Mác – Ph.Ăngghen đã phân tích tình trạng này: Khi những người dân chủ tiểu tư
sản bị áp bức ở khắp nơi thì nói chung, họ tuyên truyền trong giai cấp vô sản sự
đoàn kết và sự hòa giải, họ bắt tay hợp tác với giai cấp vô sản và cố gắng xây dựng
một chính đảng đối lập lớn lao, bao gồm những người biệt phái của đảng dân chủ,
tức là họ cố gắng đánh bẫy công nhân bằng một tổ chức đảng. Do đó, “Để khỏi một
lần nữa bị tụt xuống làm vai trò của kẻ vỗ tay hoan nghênh bọn dân chủ tư sản,
công nhân và trước hết là Liên đoàn phải cố gắng thành lập, song song với phái dân
17


chủ chính thức, một tổ chức đảng riêng biệt, bí mật và công khai của công nhân và
biến mỗi chi bộ thành trung tâm và hạt nhân của các hội liên hiệp công nhân, trong
đó lập trường và lợi ích của giai cấp vô sản được đưa ra thảo luận độc lập với
những ảnh hưởng tư sản”.{2.Tr.173}
Đồng thời hai ông cũng đã đưa ra phương hướng để giải quyết vấn đề
“Nhưng, để giành được thắng lợi cuối cùng của mình họ sẽ phải dựa vào nổ lực của
bản thân: phải có ý thức về những lợi ích giai cấp của mình, phải chiếm càng nhanh
càng tốt lấy cái vị trí là một đảng độc lập và không một phút giây nào được để cho

phái dân chủ tiểu tư sản dùng những luận điệu bịp bợm đẩy mình đi chệch con
đường một tổ chức độc lập của đảng của giai cấp vô sản. Khẩu hiệu chiến đấu của
họ phải là: Cách mạng không ngừng !”.{2.Tr.181}
Tóm lại, tư tưởng của C.Mác – Ph.Ăngghen về vai trò của các chính đảng vô
sản đã chỉ ra rằng, để giai cấp công nhân thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình,
thì không thể không có vai trò lãnh đạo, chỉ đường của một tổ chức cách mạng độc
lập của giai cấp công nhân – chính đảng vô sản. Đó là điều kiện có ý nghĩa quyết
định nhất cho sự thắng lợi triệt để và nhanh chóng của cách mạng.
4. Tư tưởng của C.Mác - Ph.Ăngghen về bản chất của chính đảng vô sản
Khác với các tổ chức chính trị, xã hội khác, quan điểm về tính chất tiền
phong, tính chất giai cấp của một Đảng vô sản chân chính đã được C.Mác và
Ph.ăngghen trình bày khá rõ trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản. Hai ông viết:
- Những người cộng sản “tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi
ích của toàn thể giai cấp vô sản”.
- “Trong cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ - những người cộng sản
(N.Q.B) luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn phong trào”

18


- “Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong
các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến
lên. Về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ
những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”.
Những quan điểm trên của C.Mác và Ph.Ăngghen thực sự nói lên bản chất
cách mạng và khoa học của Đảng, chỉ rõ Đảng là một đội tiên phong có tổ chức và là
một tổ chức cao nhất của giai cấp vô sản. Tổ chức ấy bao gồm những người ưu tú
nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất của giai cấp, những người đại biểu trung thành
nhất với lợi ích của giai cấp vô sản (đương nhiên, nói như vậy hoàn toàn không có
nghĩa là tách rời lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc), điều mà ngay trong Tuyên ngôn,

hai ông cũng đã nói rõ điều đó. Rằng “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành
lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân
tộc”.
Quan điểm về những người được coi là ưu tú, là những đại biểu trung thành
nhất như vậy, đồng thời cũng là những tiêu chuẩn cơ bản của người cộng sản mà
C.Mác và Ph.ăngghen đã chỉ dẫn để cho các Đảng vô sản lựa chọn và kết nạp đảng
viên của mình.
II/. Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG CỦA MÁC – ĂNGGHEN ĐỐI VỚI VIỆC
XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY

19


1/. Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1. Khái quát sự ra đời
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân
phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.

20


Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân tộc ta
sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng, bất
khuất. Vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã liên tiếp đứng
lên chống lại chúng. Từ năm 1958 đến trước năm 1930, hàng trăm phong
trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt chống thực dân Pháp đã nổ ra theo nhiều

hướng khác nhau, dưới ngọn cờ của các sĩ phu và các nhà yêu nước đương thời, như
khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong
trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân… lãnh đạo. Các cuộc khởi nghĩa,
phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng đều thất bại và bị thực
dân Pháp đàn áp tàn bạo. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến thất bại của các phong
trào đấu tranh là do những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong
trào chưa tìm được con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển
của xã hội Việt Nam. Cách mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về
đường lối cứu nước. Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với
thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của
dân tộc ta lúc bấy giờ. Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang chìm trong cuộc
khủng hoảng về đường lối cứu nước, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) rời Tổ
quốc đi tìm đường cứu nước. Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc
diễn ra khi Người đọc toàn văn: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của Lênin. Người hiểu sâu sắc những vấn đề cơ bản của
đường lối giải phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc
gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp
vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng giải phóng
dân tộc từng nước với phong trào trào cách mạng vô sản thế giới. Từ đây Người
dứt khoát đi theo con đường cách mạng của Lênin. Nguyễn Ái Quốc là người Việt
Nam đầu tiên tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm ra con đường đúng đắn
giải phóng dân tộc Việt Nam. Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã
21


tham gia hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tích cực vận
động phong trào cách mạng thuộc địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác –
Lênin về Việt Nam. Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu , Trung
Quốc trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ
nghĩa Mác-Lênin và những tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được

giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi đường
đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn ”. Nó lôi cuốn những
người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản. Phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều tầng lớp nhân dân phát triển
mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Chỉ trong một thời
gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập: Ở
Bắc Kỳ có Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929), ở Nam Kỳ có An Nam
Cộng sản Đảng (7/1929), ở Trung Kỳ có Đông Dương Cộng sản Liên đoàn
(9/1929). Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Song, sự
tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn
đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một đảng thống nhất
lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chién sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt
Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng nhu cầu đó của lịch sử:
thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Từ ngày 3 đến 7/2/1930, Hội nghi hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu Long
(Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị
nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của
Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là một Đại hội thành lập Đảng. Đảng được
thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta
trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác22


Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa
chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy
đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng
đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại
trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách

mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ
sức lãnh đạo cách mạng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên
tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện
Đảng ta.
Ngày 3/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó là kết quả của sự
chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; của sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta; là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác – Lênnin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Sự ra đời của Đảng đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước ta, phù hợp với x u
thế phát triển của thời đại.
1.2. Vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc
hội thông qua ngày 28/11/2013, khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng
Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ
Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về

23


những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”

24


Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng
lợi rất vẻ vang, mở ra kỷ nguyên mới trong sự nghiệp phát triển của dân tộc ta: kỷ

nguyên độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam
do nhiều nhân tố tạo nên, song nhân tố chủ yếu nhất là sự lãnh đạo của Đảng. Ngay
từ khi vận động thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc - người sáng lập Đảng ta - đã thấy
phải có đảng cách mạng và đảng có vững thì cách mạng mới thành công. Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng (nǎm 1930) ghi rõ: “Điều cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng
là cần phải có một Đảng cộng sản có một đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập
trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải trong đấu tranh mà trưởng
thành”.
Trải qua hơn nửa thế kỷ hoạt động, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc tính
đúng đắn của luận điểm nói trên. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội tổng kết quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng, đã nêu lên
một bài học cơ bản: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nghiên cứu kinh nghiệm về sự lãnh đạo và xây
dựng đảng của Đảng ta là việc làm thiết thực, trọng yếu, bảo đảm cho cách mạng
phát triển vững chắc, nhằm thực hiện mục tiêu: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2. Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
2.1. Bối cảnh Việt Nam từ khi đổi mới đến nay

25


×