Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHẬP KHẨU, HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.79 KB, 34 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHẬP KHẨU, HIỆU QUẢ KINH
DOANH NHẬP KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO
HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA DOANH
NGHIỆP
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHẬP KHẨU
1. Khái niệm nhập khẩu
Trong thời gian gần đây, khi vai trò của Việt Nam trong các tổ chức quốc
tế ngày càng được khẳng định thì cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ của hoạt
động ngoại thương. Xuất nhập khẩu hàng hóa trở thành một mảng quan trọng
trong hoạt động nói chung của cả nền kinh tế. Hai hoạt động chủ yếu là xuất
khẩu hàng hóa ra thị trường nước ngoài và nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài
về tiêu thụ tại thị trường trong nước trở thành các hoạt động khá phổ biến. Cùng
với xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu là các yếu tố cấu thành chính cho hoạt động
ngoại thương. Nhập khẩu là một hoạt động kinh doanh quốc tế, vượt ra khỏi
phạm vi biên giới quốc gia. Có thể nói, nhập khẩu chính là việc các công ty
trong nước mua hàng hóa của các nhà sản xuất, phân phối nước ngoài về tiêu
thụ tại thị trường nội địa nước mình, nhằm phục vụ những nhu cầu về sản xuất,
tiêu dùng hoặc tái sản xuất mà nền sản xuất trong nước không đáp ứng được
hoặc đáp ứng chưa tốt nhu cầu đó. Trên cơ sở đó, tìm kiếm lợi nhuận cho mình.
Hoạt động nhập khẩu thể hiện mối liên hệ phụ thuộc, sự ràng buộc của nền kinh
tế một nước với nền kinh tế thế giới.
Như vậy, có thể nói rằng nhập khẩu là việc mua bán hàng hóa, dịch vụ từ
các nhà sản xuất, cung ứng nước ngoài về phục vụ các nhu cầu trong nước. Điều
này góp phần làm cho chủng loại hàng hóa trên thị trường nội địa trở nên phong
phú và đa dạng, người tiêu dùng có cơ hội lựa chọn nhiều loại hàng hóa hơn cho
nhu cầu của mình.
2. Đặc điểm cơ bản và vai trò của hoạt động nhập khẩu
2.1 Đặc điểm cơ bản của hoạt động nhập khẩu
Nhập khẩu là một hoạt động kinh doanh quốc tế, nó mang những đặc
trưng rất riêng so với kinh doanh nội địa. Những đặc điểm riêng này có tác động
và ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp.


Các đặc điểm có thể kể đến như:
Về thị trường, các nhà nhập khẩu hoàn toàn có thể lựa chọn được cho
mình nhà cung cấp nước ngoài một cách hợp lý nhất. Bất cứ quốc gia nào có thể
cung cấp sản phẩm, hàng hóa đều có thể trở thành thị trường cho các nhà nhập
khẩu hàng hóa. Mỗi quốc gia đều có những lợi thế so sánh tuyệt đối và tương
đối khác nhau, họ hoàn toàn có thể sản xuất những hàng hóa họ có lợi thế nhất,
từ đó cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh nhất.
Các nhà nhập khẩu có nhiều cơ hội lựa chọn thị trường nhập khẩu cho mình.
Trong một thị trường rộng lớn, phong phú và đa dạng như vậy, để chọn được thị
trường hiệu quả và hợp lý, các nhà nhập khẩu phải phân tích, so sánh để có
được lựa chọn đúng đắn nhất. Trong hoạt động kinh doanh, mục tiêu lợi nhuận
luôn được chú trọng. Để đạt được mục tiêu đó, các nhà nhập khẩu cần cân nhắc
tới những lợi ích đạt được cũng như các chi phí bỏ ra khi kinh doanh trên một
thị trường nhất định. Các yếu tố liên quan thị trường thường được các nhà nhập
khẩu xem xét bao gồm: hàng hóa thị trường cung ứng, chất lượng hàng hóa đó,
nhu cầu thị trường với hàng hóa đó, chi phí vận chuyển, các quy định pháp
luật…
Về cách thức thanh toán, nhập khẩu cũng như hoạt động ngoại thương,
có rất nhiều phương thức thanh toán như: chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng chứng
từ… với nhiều công cụ thanh toán như: tiền mặt, séc, hối phiếu, kỳ phiếu…
Trong thanh toán nhập khẩu, các bên thường quy định điều khoản thanh toán rất
cụ thể, tỷ mỉ. Các loại ngoại tệ mạnh thường được sử dụng, điều đó cũng đồng
nghĩa với việc nhà nhập khẩu phải chịu rủi ro rất lớn khi tỷ giá hối đoái biến
động lớn. Để đảm bảo hiệu quả hoạt động của mình không bị ảnh hưởng, đạt kết
quả cao, yêu cầu đối với các doanh nghiệp tham gia nhập khẩu phải rất chú ý tới
điều khoản thanh toán. Các yếu tố như: hình thức thanh toán, thời hạn thanh
toán, đồng tiền sử dụng để thanh toán, tỷ giá hối đoái… là các yếu tố buộc các
doanh nghiệp phải rất chú trọng.
Về hệ thống pháp lý, hoạt động nhập khẩu chịu sự chi phối của nhiều hệ
thống pháp luật khác nhau. Do chủ thể của hoạt động nhập khẩu đến từ các quốc

gia khác nhau, nên hoạt động nhập khẩu chịu sự chi phối của luật nước người
mua, luật nước người bán, luật quốc tế, các tập quán thương mại… Các nguồn
luật này nhiều khi có sụ xung đột, mâu thuẫn nhau. Điều này thường mang lại
nhiều rủi ro cho các bên. Yêu cầu đặt ra là mỗi doanh nghiệp tham gia hoạt
động nhập khẩu phải lưu ý và nắm rõ điều này để lựa chọn được nguồn luật điều
chỉnh hợp đồng, tránh được các phát sinh không cần thiết.
Xuất phát từ đặc điểm hoạt động vượt ra khỏi biên giới quốc gia mà hoạt
động nhập khẩu mang những đặc điểm riêng nêu trên. Những đặc điểm này một
mặt mang lại cho các bên tham gia hoạt động nhập khẩu cả những cơ hội lớn
cũng như các rủi ro đáng kể.
2.2 Vai trò của hoạt động nhập khẩu
Trước hết, nhập khẩu giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chính phủ các
quốc gia có thể kiểm soát, điều chỉnh cơ cấu kinh tế thông qua các chính sách
nhập khẩu. Đối với các nghành cần khuyến khích phát triển, chính phủ có thể áp
dụng các biện pháp, chính sách nhập khẩu nhiều ưu đãi với những mặt hàng
phục vụ nghành đó. Đồng thời với những sản phẩm cạnh tranh trực tiếp với sản
phẩm nghành đó sản xuất ra, chính phủ có thể áp dụng biện pháp hạn chế nhập
khẩu, các biện pháp bảo hộ. Mặt khác, với những quốc gia đang hoặc kém phát
triển, họ ít có điều kiện nghiên cứu phát triển và triển khai công nghệ mới, hiện
đại. Thông qua hoạt động nhập khẩu, họ có thể có được những công nghệ mới,
hiện đại, phục vụ nền sản xuất trong nước, làm gia tăng năng suất cũng như khả
năng cạnh tranh cho nền kinh tế quốc gia đó. Đồng thời cũng có thể đáp ứng
được nhu cầu cho thị trường trong nước, qua đó làm giảm sự lệ thuộc vào các
nước khác.
Thứ hai, nhập khẩu góp phần làm nền kinh tế quốc gia phát triển ổn định,
cân đối. Mỗi quốc gia, dù giàu có và phát triển đến đâu cũng không thể tự sản
xuất và đáp ứng tất cả các nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa dạng và phong phú
của mình. Như đã nói, mỗi đất nước có một lợi thế so sánh riêng. Để đạt hiệu
quả cao nhất, họ chỉ tập trung vào sản xuất những mặt hàng họ có lợi thế đó,
mang những sản phẩm đó đi trao đổi để đáp ứng các nhu cầu khác nữa. Hoạt

động nhập khẩu là một mặt của sự trao đổi đó. Nó giúp cho các nền kinh tế có
được sự cân đối giữa các chủng loại sản phẩm họ có thể sản xuất và không thể
sản xuất nhằm đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng của người dân. Nhập khẩu giúp
bổ sung một cách hợp lý những thiếu hụt của nền kinh tế quốc gia. Với vai trò
này, nhập khẩu thực sự trở thành một hoạt động không thể thiếu với nền kinh tế
các quốc gia. Nó đảm bảo cho các quốc gia có thể phát triển một cách cân đối,
ổn định, vững bền.
Thứ ba, nhập khẩu giúp cải thiện và nâng cao chất lượng sống của người
dân. Trong điều kiện kinh tế phát triển như hiện nay, nhu cầu người tiêu dùng
ngày càng lớn, đa dạng và phong phú. Những sản phẩm sản xuất trong nước
nhiều khi không thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân. Nhập khẩu giúp
bổ sung đáp ứng các nhu cầu cao đó. Mặt khác, nhập khẩu làm cho chủng loại
hàng hóa trở nên phong phú, đa dạng hơn. Cùng một chi phí, để đáp ứng cùng
một nhu cầu, người tiêu dùng có thể lựa chọn hàng hóa có xuất sứ từ nhiều quốc
gia khác nhau. Bên cạnh đó, hoạt động nhập khẩu còn đảm bảo cung cấp các
yếu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất khi nguồn nguyên vật liệu trong nước
khan hiếm không đáp ứng đủ nhu cầu. Trên cơ sở đó, nhiều hoạt động sản xuất
được duy trì và mở rộng, tạo điều kiện tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho
nền kinh tế nói chung.
Thứ tư, nhờ nhập khẩu, chất lượng sản xuất nền kinh tế quốc gia được cải
thiện. Khi các sản phẩm nhập khẩu được đưa vào tiêu thụ trên thị trường nội
địa, các sản phẩm sản xuất trong nước có thể vì thế mà mất thị trường. Để cạnh
tranh, yêu cầu đặt ra với các nhà sản xuất trong nước là phải tìm cách để nâng
cao chất lượng sản phẩm, cắt giảm chi phí. Chính áp lực cạnh tranh với hàng
hóa nhập khẩu đã buộc các công ty nội địa cải tiến quy trình, công nghệ, cung
cách làm việc của mình để sản xuất được những sản phẩm có thể cạnh tranh.
Điều này góp phần làm thay đổi năng lực sản xuất của các công ty, của một
nghành, từ đó làm thay đổi năng lực sản xuất của cả nền kinh tế.
Thứ năm, nhập khẩu có tác động tích cực, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động nhập khẩu một mặt đảm bảo các yếu tố đầu vào sản xuất cho một số

nghành, một mặt làm thay đổi công nghệ, quy trình sản xuất. Điều đó cho phép
chúng ta sản xuất ra được những sản phẩm đảm bảo chất lượng và tiêu chuẩn kỹ
thuật của họ, là bước khởi đầu cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa ra thị trường
nước ngoài. Ngoài ra, trong nhiều chương trình hợp tác giữa các chính phủ, các
tổ chức nhà nước, khi chúng ta chấp nhận nhập khẩu hàng hóa của họ, họ cũng
sẽ chấp nhận nhập khẩu hàng hóa khác của ta. Khi đó, hoạt động nhập khẩu
cũng đã góp phần thúc đẩy và tác động tích cực tới hoạt động xuất khẩu.
3. Các hình thức nhập khẩu
Trong ngoại thương, các phương thức giao dịch mua bán hàng hóa khá
phong phú và đa dạng. Cùng với đó, hoạt động nhập khẩu cũng có khá nhiều
hình thức. Khi tham gia kinh doanh nhập khẩu, tùy thuộc vào năng lực tài chính
của doanh nghiệp, vào chủng loại và đặc tính hàng hóa, vào quan hệ giữa các
bên mà nhà nhập khẩu có thể lựa chọn cho mình các hình thức nhập khẩu phù
hợp và đạt hiệu quả. Hiện nay, các hình thức nhập khẩu có thể kể đến bao gồm:
nhập khẩu trực tiếp, nhập khẩu ủy thác,nhập khẩu hàng đổi hàng, nhập khẩu gia
công, nhập khẩu liên doanh.
Nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu mà hai bên mua và bán trực
tiếp giao dịch với nhau, hàng hóa được nhà nhập khẩu mua trực tiếp từ nhà sản
xuất, cung ứng nước ngoài mà không qua trung gian. Theo đó, bên xuất khẩu
trực tiếp giao hàng cho bên nhập khẩu. Nhà nhập khẩu sẽ tự bỏ vốn để kinh
doanh nhập khẩu, tự thực hiện các công việc như tìm đối tác, đàm phán, ký kết
hợp đồng, tự tổ chức kinh doanh hàng nhập khẩu, tự chịu chi phí cho giao dịch,
nghiên cứu thị trường, giao nhận, lưu kho… Theo hình thức này, các doanh
nghiệp nhập khẩu phải chịu trách nhiệm với các hoạt động của mình. Nhập khẩu
trực tiếp chứa đựng độ rủi ro cao hơn các hình thức nhập khẩu khác nhưng
mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho các nhà nhập khẩu.
Nhập khẩu ủy thác hay còn gọi là nhập khẩu qua trung gian, là hình thức
nhập khẩu qua trung gian thương mại. Theo hình thức này, bên nhập khẩu sẽ ủy
thác cho một trung gian thương mại, trung gian này sẽ liên hệ với nhà xuất
khẩu, thực hiện các nghiệp vụ nhập khẩu hàng hóa thông thường để nhập hàng

về theo hợp đồng ủy thác với nhà nhập khẩu thực sự. Khi hoàn thành hợp đồng,
nhà nhập khẩu sẽ phải trả cho trung gian một khoản tiền gọi là phí ủy thác.
Doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu nhận ủy thác sẽ không phải bỏ vốn, không
phải xin hạn nghạch, không cần quan tâm tới thị trường tiêu thụ hàng hóa nhập
về đó mà chỉ hoạt động theo ý nghĩa đại diện cho bên đã ủy thác cho mình tiến
hành các giao dịch với nhà xuất khẩu như: đàm phán, ký hợp đồng, thông quan
hàng nhập, giải quyết khiếu nại, đòi bồi thường khi có tổn thất… Doanh nghiệp
kinh doanh nhập khẩu ủy thác không phải bỏ vốn, rủi ro thấp nhưng lợi nhuận
không cao. Doanh thu chủ yếu là phí ủy thác nhận được từ nhà nhập khẩu chính
thức.
Nhập khẩu hàng đổi hàng là hình thức nhập khẩu đi đôi với xuất khẩu.
Thanh toán cho hoạt động này không dùng tiền mà dùng hàng hóa. Hình thức
nhập khẩu này thực chất là sự thực hiện hai nghiệp vụ khác nhau: xuất và nhập
khẩu. Theo hình thức này, khi doanh nghiệp nhập khẩu một lượng hàng hóa của
đối tác nước ngoài, đi kèm với việc xuất khấu cho họ một lượng hàng hóa khác
tương ứng với giá trị, tính chất lô hàng đã nhập. Theo hình thức này, các bên
tham gia hợp đồng vừa là người nhập khẩu, vừa là người xuất khẩu. Họ có thể
tìm kiếm được lợi nhuận từ việc kinh doanh hàng nhập khẩu, đồng thời lại tiêu
thụ được hàng hóa khác của mình.
Nhập khẩu gia công là hình thức nhập khẩu mà bên nhập khẩu cũng là
bên nhận gia công thực hiện nhập khẩu nguyên vật liệu hay bán thành phẩm từ
bên đặt gia công để tiến hành gia công hàng hóa theo hợp đồng gia công.
Nhập khẩu liên doanh là hình thức nhập khẩu trên cơ sở một liên kết
kinh tế. Liên kết này được hình thành một cách tự nguyện giữa các doanh
nghiệp, trong đó có ít nhất một doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp.
Liên kết kinh tế này cùng phối hợp các kỹ năng để giao dịch, đưa ra biện pháp,
chính sách, đường lối để hoạt động nhập khẩu có lợi nhất cho tất cả các bên
tham gia liên kết. Hình thức này chứa đựng ít rủi ro hơn so với hình thức nhập
khẩu trực tiếp, vì có sự chia sẻ nghĩa vụ cho các bên tham gia liên kết, nhưng
đồng thời mức lợi nhuận cũng thấp hơn do có sự chia sẻ lợi ích.

II. HQKD NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
1. Khái niệm HQKD, HQKD nhập khẩu của doanh nghiệp
1.1 Khái niệm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Tham gia vào hoạt động kinh tế, nói chung bất cứ đơn vị nào cũng hướng
tới mục tiêu lợi nhuận. Tối đa hóa lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng các doanh
nghiệp theo đuổi. Với một đồng vốn bỏ vào kinh doanh, ai cũng muốn nó mang
lại nhiều đồng lợi nhuận nhất. Muốn đạt được điều đó, các doanh nghiệp không
ngừng đầu tư cho nghiên cứu thị trường, thay đổi quy trình, công nghệ, cải tiến
sản phẩm, cắt giảm chi phí sản xuất, cũng như các chi phí liên quan… Tất cả
những điều đó, nói một cách khác là sự sắp xếp, hợp lý hóa quá trình sản xuất
kinh doanh. “Hiệu quả kinh doanh” là một thuật ngữ để đánh giá, xem xét mứ
độ hợp lý hóa quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Dưới nhiều góc độ khác nhau, có rất nhiều quan điểm, ý kiến về thuật
ngữ “hiệu quả kinh doanh” này. Có thể kể đến một số quan điểm sau đây:
Quan điểm thứ nhất cho rằng “Hiệu quả kinh doanh là kết quả đạt được
trong hoạt động kinh doanh, là doanh thu tiêu thụ hàng hóa”
1
. Quan điểm đã thể
hiện được mối liên hệ giữa doanh thu và hiệu quả kinh doanh. Theo quan điểm
này, hiệu quả kinh doanh là như nhau nếu các hoạt động kinh doanh cùng mang
lại một mức doanh thu. Có thể thấy, trên thực tế để mang lại cùng một mức
doanh thu nhưng doanh nghiệp phải có sự đầu tư khác nhau cho các hoạt động
khác nhau. Mức đầu tư đó chính là chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra để đạt được
doanh thu. Chưa phản ánh được điều này chính là hạn chế của quan điểm trên
về hiệu quả kinh doanh.
Quan điểm thứ hai cho rằng “Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa
phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí”
2
. So với quan điểm
thứ nhất, quan điểm này đã thể hiện được mối liên hệ giữa doanh thu và chi phí.

Nó phản ánh được trình độ sử dụng đồng vốn tăng thêm của doanh nghiệp, trên
cơ sở đó giúp doanh nghiệp ra quyết định có nên đầu tư mở rộng hoạt động đó
hay không. Mặc dù vậy, quan điểm này vẫn còn hạn chế nhất định, đó là việc nó
mới chỉ phản ánh mối liên hệ giữa chi phí và doanh thu bổ sung mà chưa phản
ánh được mối liên hệ giữa doanh thu và chi phí ban đầu. Mà trên thực tế, ban
đầu doanh nghiệp phải bỏ vốn đầu tư tới một ngưỡng nhất định mới có thể có
doanh thu bước đầu. Với những đầu tư ban đầu, quan điểm về hiệu quả kinh
doanh ở trên chưa phản ánh được trình sử dụng chúng.
Quan điểm thứ ba cho rằng “Hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so
sánh giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó”
3
. Quan điểm
này đã phản ánh được mối liên hệ giữa doanh thu và chi phí bỏ ra để có kết quả
đó. Theo quan điểm này, hiệu quả kinh doanh chính là lợi nhuận thu được từ
1 Giáo trình Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI, PGS.TS Nguyễn Thị Hường tập
2, trang 318.
2 Giáo trình Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI, PGS.TS Nguyễn Thị Hường tập
2, trang 318
3 Giáo trình Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI, PGS.TS Nguyễn Thị Hường tập
2, trang 318
hoạt động đó. So với hai quan điểm trên, quan điểm này đã phản ánh được mối
quan hệ bản chất của hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này cho thấy, với những
hoạt động khác nhau, với cùng một lượng vốn bỏ ra mà thu về cùng một lượng
giá trị thì các hoạt động kinh doanh đó đã có hiệu quả như nhau. Nhưng trên
thực tế, điều này là không chính xác. Quan điểm về hiệu quả kinh doanh này
chưa thể hiện được vai trò của các yếu tố khác như thời gian thu được kết quả,
quy mô hoạt động… Đây cũng chính là hạn chế của quan điểm này.
Quan điểm thứ tư cho rằng “Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù phản
ánh mối liên hệ giữa sự vận động của kết quả với sự vận động của chi phí bỏ ra
để đạt kết quả đó, đồng thời phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản

xuất”
4
. Về cơ bản, quan điểm này đã phản ánh được mối liên hệ bản chất về
hiệu quả kinh doanh giữa doanh thu và chi phí cũng như sự vận động của hai
yếu tố này, đồng thời còn phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực của
doanh nghiệp. Tuy vậy, hạn chế của nó là chưa thể hiện được mối quan hệ chặt
chẽ giữa hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp với hiệu quả kinh tế xã hội.
Với bốn quan điểm trên về hiệu quả kinh doanh, chúng ta vẫn chưa tìm
được đáp án chung và chính xác nhất để nói về hiệu quả kinh doanh. Một cách
tổng quát, có thể nói rằng: “Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản
ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý của
doanh nghiệp để thực hiện ở mức cao nhất các mục tiêu kinh tế xã hội với chi phí
thấp nhất”
5
. Nó là thước đo phản ánh trình độ tổ chức, quản lý sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Quan điểm này đã phản ánh được mối liên hệ bản chất
giữa việc sử dụng các nguồn lực và kết quả do nó mang lại, đồng thời cũng thể
hiện được trình độ sử dụng các nguồn lực cũng như phản ánh được mối liên hệ
giữa hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp với hiệu quả kinh tế xã hội. Trên
góc độ nền kinh tế quốc gia, hiệu quả kinh doanh phải phản ánh mức độ thỏa
4 Giáo trình Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI, PGS.TS Nguyễn Thị Hường tập
2, trang 319
5 Giáo trình Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI, PGS.TS Nguyễn Thị Hường tập
2, trang 319
mãn nhu cầu ngày càng cao của người dân và toàn xã hội về cả chất lượng lẫn
số lượng. Hiệu quả được xem xét trên cơ sở lợi ích toàn xã hội, làm sao để đạt
được mức phát triển lớn nhất với nguồn lực xã hội thấp nhất.
1.2 Khái niệm hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp
Về cơ bản, dưới góc độ kinh tế đơn thuần hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
cũng như hiệu quả kinh doanh nói chung. Có thể nói rằng hiệu quả kinh doanh

nhập khẩu của doanh nghiệp chính là trình độ sử dụng các nguồn lực để nhập
khẩu và trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp để thực hiện các mục tiêu
kinh tế xã hội ở mức cao nhất với chi phí nhất định trong quá trình nhập khẩu.
Như đã nói ở trên, hoạt động nhập khẩu thường sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu
vật tư, thiết bị hay hàng hóa, góp phần cân đối nền kinh tế. Với đặc điểm
này,hiệu quả hoạt động nhập khẩu đã phản ánh cả hiệu quả kinh tế xã hội. Hoạt
động nhập khẩu lúc này đã tạo động lực phat triển kinh tế xã hội.
Với doanh nghiệp, hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả khi kết quả thu về là
lớn nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất. Đồng thời, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
còn thể hiện trình độ cũng như khả năng sử dụng các nguồn lực sẵn có phục vụ
cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu đó.
Trên giác độ toàn xã hội, hoạt động nhập khẩu chỉ đạt được hiệu quả khi
kết quả thu về từ việc nhập khẩu hàng hóa của nhà cung cấp nước ngoài cao hơn
kết quả thu được nếu tiến hành sản xuất hàng hóa đó trong nước. nói cách khác,
hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả khi nó góp phần nâng cao hiệu quả xã hội,
làm tăng chất lượng hàng hóa và hạ giá thành sản phẩm.
Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là một phạm trù phức tạp, nó chịu tác
dụng của nhiều yếu tố và bao hàm nhiều nội dung hơn. Hoạt động nhập khẩu có
hiệu quả phải đồng thời mang lại lợi ích cho doanh nghiệp tiến hành hoạt động
và đảm bảo mang lại những lợi ích cho nền kinh tế và toàn xã hội.
2. Phân loại hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp
Dười nhiều góc độ khac nhau, dựa vào các căn cứ khác nhau người ta có
nhiều cách phân loại hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Dưới đây là một số cách
phân loại hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp.
2.1 Căn cứ theo phương pháp tính hiệu quả
Theo căn cứ này, bao gồm hiệu quả tương đối và hiệu quả tuyệt đối.
2.1.1 Hiệu quả tuyệt đối
Hiệu quả tuyệt đối là đại lượng thể hiện sự chênh lệch giữa kết quả thu
được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó đối với mỗi phương án kinh doanh,
trong từng thời kỳ với từng doanh nghiệp khác nhau. Hiệu quả tuyệt đối được

thể hiện qua tương quan chênh lệch của kết quả và chi phí, nói cách khác đó là
sự chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Có thể hiểu hiệu quả tuyệt
đối qua công thức tính sau:
E = KQ – CF (*)
Trong đó:
- E: hiệu quả tuyệt đối, là chỉ tiêu trực tiếp đo lượng lợi nhuận doanh
nghiệp thu được sau mỗi kỳ kinh doanh. Hiệu quả tuyệt đối thường được đo
bằng các đơn vị tiền tệ như: triệu đồng, tỷ đồng, triệu USD…
- KQ: Tổng các kết quả thu được bao gồm: doanh thu từ hoạt động bán
hàng, doanh thu từ hoạt động tài chính, các khoản thu khác… Kết quả thường
được đo bằng các đơn vị tiền tệ như: triệu đồng, tỷ đồng, triệu USD…
- CF: Tổng các chi phí bỏ ra để thu được kết quả trên bao gồm: tiền nhập
hàng từ nước ngoài về, chi phí vận chuyển, chi phí mua bảo hiểm hàng hóa, chi
phí lưu kho, bảo quản hàng, chi phí lãi vay ngân hàng, chi phí mua ngoài, tiền
lương công nhân viên… Chi phí thường được đo bằng các đơn vị tiền tệ như:
triệu đồng, tỷ đồng, triệu USD…
Cần lưu ý rằng, trong kinh doanh, doanh thu và chi phí có thể được đo
lường bằng các đơn vị tiền tệ khác nhau, nhưng khi tính hiệu quả tuyệt đối cần
đưa về cùng một đơn vị tiền để tính. Khi kết quả và chi phí được đo bằng đồng
tiền nào để tính thì hiệu quả cũng được tính bằng được tính bằng đồng tiền đó.
2.1.2 Hiệu quả tương đối
Hiệu quả tương đối là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản
xuất của doanh nghiệp. Với CF và KQ như trong công thức (*) ở trên, ta có 2
cách tính hiệu quả tương đối với các ý ngĩa khác nhau:
Chỉ tiêu 1:
H
1
=
Về mặt ý nghĩa chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng chi phí bỏ ra sẽ mang lại
bao nhiêu đồng kết quả. Điều này cũng có nghĩa rằng chỉ tiêu này phản ánh hiệu

quả kinh doanh, đồng thời thể hiện sức sản xuất của các yếu tố đầu vào, cũng
như việc sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp được coi là hoạt động có hiệu quả khi doanh nghiệp đó
hoạt động có lãi. Nói cách khác, ít nhất doanh nghiệp đó phải đảm bảo được
doanh thu đủ bù đắp chi phí. Về mặt toán học, điều đó có nghĩa là kết quả doanh
nghiệp đạt được phải hớn hơn chi phí bỏ ra (hay KQ > CF). Vì vậy, một doanh
nghiệp được coi là hoạt động hiệu quả khi chỉ tiêu H
1
nêu trên có giá trị lớn hơn
1. Chỉ tiêu này càng cao thể hiện doanh nghiệp kinh doanh càng hiệu quả và
ngược lại.
Chỉ tiêu 2:
H
2
=
Về mặt ý nghĩa, chỉ tiêu này là chỉ tiêu phản ánh ngược của chỉ tiêu trên.
Chỉ tiêu này cho biết để thu được về một đồng kết quả, doanh nghiệp phải bỏ ra
bao nhiêu đồng chi phí. Với các doanh nghiệp có quy trình sản xuất kinh doanh
hợp lý, thì một đồng vốn bỏ vào hoạt động kinh doanh sẽ tạo ra nhiều đồng kết
quả hơn so với các doanh nghiệp khác.Ngược lại với chỉ tiêu trên, chỉ tiêu này
càng thấp thể hiện hiệu quả kinh doanh, sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao
và ngược lại.
Dưới góc độ toán học, khi giá trị của H
2
nhỏ hơn 1 cho thấy chi phí
doanh nghiệp bỏ ra ít hơn kết quả thu về (có nghĩa là CF < KQ), cũng có nghĩa
doanh nghiệp hoạt động hiệu quả.
2.2 Căn cứ theo phạm vi tính hiệu quả
Theo phạm vi, hiệu quả kinh doanh bao gồm hiệu quả kinh doanh tổng
hợp và hiệu quả kinh doanh bộ phận.

2.2.1 Hiệu quả kinh doanh tổng hợp
Là hiệu quả kinh doanh tính chung cho toàn doanh nghiệp , cho tất cả các
bộ phận trong doanh nghiệp. Nó cho biết kết quả thực hiện các mục tiêu doanh
nghiệp đề ra trong một giai đoạn nhất định.
2.2.2 Hiệu quả kinh doanh bộ phận
Là hiệu quả kinh doanh được tính cho từng bộ phận, từng hoạt động kinh
doanh trong doanh nghiệp, hoặc với từng yếu tố sản xuất của doanh nghiệp như
vốn, lao động… Hiệu quả kinh doanh bộ phận chỉ phản ánh hiệu quả từng hoạt
động, từng yếu tố riêng lẻ chứ không phản ánh được hết hiệu quả của toàn
doanh nghiệp.
Giữa hiệu quả kinh doanh bộ phận và hiệu quả kinh doanh tổng hợp có
mối liên hệ mật thiết. Hiệu quả kinh doanh tổng hợp tăng có thể phản ánh sự
tăng lên tương ứng của hiệu quả kinh doanh bộ phận, cũng có thể hiệu quả kinh
doanh bộ phận không đổi hoặc đang giảm sút. Mặc dù phản ánh chi tiết và
chính xác hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất riêng biệt cũng như sự đóng góp
của chúng, nhưng chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận không phản ánh được
một cách tổng quát khả năng, trình độ sử dụng nguồn lực vào sản xuất kinh
doanh cũng như hiệu quả kinh doanh toàn doanh nghiệp.
2.3 Căn cứ theo thời gian mang lại hiệu quả
Khi tính toán hiệu quả, ngoài phạm vi tính toán thì giới hạn thời gian là
một yếu tố quan trọng phản ánh chính xác hiệu quả doanh nghiệp đạt được.

×