Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.07 KB, 34 trang )

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI
Ở THỪA THIÊN HUẾ
2.1. TỔNG QUAN VỀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH
THÁI Ở THỨA THIÊN HUẾ
2.1.1. Khách du lịch
2.1.1.1. Số lượng khách du lịch
Năm 1995, tổng lượng khách du lịch đến với Thừa Thiên Huế đạt 277.400 lượt
khách. Mặc dù năm 1993, quần thể di tích triều Nguyễn đã được công nhận là di sản
văn hóa thế giới nhưng đến năm 1995, tiềm năng du lịch này vẫn chưa thực sự được
khai thác triệt để. Tổng lượt khách du lịch đến Thừa Thiên Huế vẫn là một con số
khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng.
Năm 2000, với sự cố gắng của các cấp chính quyền cũng như sự đầu tư của các
doanh nghiệp lữ hành, số lượng khách đến tỉnh đã tăng lên đáng kể, đạt được con số
470.000 lượt khách, tăng gần gấp đôi so với năm 1995. Đây là một bước tiến khá quan
trọng trong sự phát triển du lịch tỉnh nhà.
Đến năm 2005, con số này đã lên tới 1.050.000 lượt, và năm 2008 là 1.680.000
lượt người. Có thể thấy, du lịch Thừa Thiên Huế đang trên đà phát triển, trở thành một
thế mạnh của kinh tế tỉnh nhà. Du khách trong nước cũng như nước ngoài đều biết đến
Huế như một thành phố du lịch xanh và cổ kính với nhiều di tích văn hóa, lịch sử từ
hàng trăm năm trước.
2.1.1.2. Cơ cấu khách du lịch
Giai đoạn 2000 – 2006, cơ cấu khách du lịch thay đổi theo hướng tỉ trọng khách
du lịch nội địa tăng mạnh, tỷ trọng khách du lịch quốc tế ngày càng chiếm tỉ lệ nhỏ.
Đây là một khuynh hướng khá tiêu cực đối với ngành du lịch, nó ảnh hưởng không nhỏ
tới doanh thu du lịch nói chung và GDP của tỉnh nói riêng. Nhưng trong hai năm gần
đây, tỉ trọng khách quốc tế đã có những chuyển biến tích cực, tăng nhanh trong biểu đồ
cơ cấu khách du lịch đến Thừa Thiên Huế hàng năm
Năm
Khách nội địa Khách quốc tế
Số lượng Tỉ trọng (%) Số lượng Tỉ trọng (%)
2000 275.000 58,51 195.000 41,49


2001 328.000 59,52 232.500 41,48
2002 391.000 59,97 272.000 41,03
2003 400.040 65,58 210.000 34,42
2004 500.000 65,79 260.000 34,21
2005 681.000 64,86 369.000 35,14
2006 794.000 65,55 436.000 35,44
2007 851.200 57,18 666.590 43,92
2008 889.250 52,93 790.750 47,07
Nhìn vào bảng số lượng và tỉ trọng khách du lịch ở trên, có thể thấy năm 2003 đã
có một sự biến động lớn về lượng khách du lịch quốc tế đến với Thừa Thiên Huế.
Lượng khách du lịch quốc tế giảm mạnh, chỉ bằng 77,2% so với năm 2002, tỉ trọng
giảm từ 41,03% xuống còn 34,42%. Dịch bệnh SARS và một số dịch bệnh lây nhiễm
khác trong năm này đã khiến nhiều khách du lịch huỷ bỏ các tour du lịch đặt trước. Bên
cạnh đó, công tác xúc tiến, tuyên truyền của tỉnh vẫn chưa thực sự hiệu quả trong việc
quảng cáo sản phẩm du lịch của tỉnh. Những năm sau đó, lượng khách quốc tế đến
Thừa Thiên Huế tăng lên nhưng tỉ trọng của nó vẫn không có sự thay đổi đáng kể.
Festival là một trong những sự kiện thu hút được rất nhiều khách du lịch đến Huế.
Được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2000, trải qua 5 lần tổ chức, Festival Huế đã để lại
nhiều dấu ấn trong lòng du khách. Năm 2006, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã
quyết định phê duyệt đề án xây dựng thành phố Huế - thành phố Festival của Việt Nam.
Đây thực sự là một điểm nhấn trong phát triển du lịch ở Thừa Thiên Huế, tạo nên những
chuyển biến tích cực về lượng khách du lịch những năm sau đó.
Năm 2007 đánh dấu một bước đột phá của chỉ tiêu này, lượng khách du lịch quốc
tế đạt 666.590 lượt người, tăng 52,89% so với năm 2006 và tỉ trọng tăng vọt từ 35,44%
lên 43,07%. Đây là một dấu hiệu tích cực đối với ngành du lịch Thừa Thiên Huế, tạo ra
một triển vọng về thành phố du lịch được du khách trên khắp thế giới biết đến và ủng
hộ. Năm 2008, lượng khách quốc tế đến Huế vẫn tiếp tục tăng mạnh cả số lượng lẫn tỉ
trọng khách du lịch. Tuy nhiên, với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay, lượng
khách du lịch đến Huế dự báo sẽ có sự biến động trong những năm tiếp theo.
2.1.1.3. Thời gian lưu trú

Năm 2005, số ngày lưu trú bình quân của khách du lịch Thừa Thiên Huế mới đạt
1,98 ngày với khách quốc tế và 1,93 ngày với khách nội địa. Tổng số ngày khách đạt
hơn 2.000.000 ngày trong đó ngày khách quốc tế đạt hơn 732.000 ngày và ngày khách
nội địa đạt hơn 1.300.000 ngày. Năm 2008, số ngày lưu trú bình quân tăng chậm, đạt
2,01 ngày với khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa là 1,94 ngày. Số ngày
khách quốc tế của Thừa Thiên Huế mới chiếm tỷ trọng 4,02% (so với cả nước) và
23,44% (so với khu vực Miền trung - Tây nguyên). Như vậy, tỷ trọng của khách du lịch
Thừa Thiên Huế đối với du lịch Việt Nam và khu vực Miền trung - Tây Nguyên cũng
còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và vị trí của Thừa Thiên Huế trong chiến lược
phát triển du lịch Việt Nam và khu vực Miền trung - Tây nguyên.
2.1.1.4. Mùa du lịch
Mùa du lịch là yếu tố phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết, khí hậu cũng như phong
tục tập quán của nơi du lịch cũng như quê hương của khách du lịch. Những du khách
đến từ những quốc gia khác nhau với nền văn hóa khác nhau sẽ có những mùa du lịch
khác nhau.
Với khách nội địa, mùa du lịch thường bắt đầu vào khoảng cuối tháng 4, đầu tháng
5 với kì nghỉ lễ dài nhất trong năm. Tiếp theo là những tháng hè với thời tiết khô ráo
nhất trong năm, rất thích hợp cho những tour du lịch ngoài trời, thăm thú cảnh quan
thiên nhiên. Mùa du lịch của khách nội địa thường kết thúc vào tháng 10,11 vì đây là
khoảng thời gian mưa nhiều ở Huế, các hoạt động du lịch diễn ra không thuận lợi.
Đối với khách du lịch quốc tế, tháng cuối năm với kì nghỉ Giáng sinh và năm mới
kéo dài là khoảng thời gian đi du lịch thích hợp nhất. Với hầu hết khách quốc tế, đây là
khoảng thời gian mà khi hậu ở nước họ rất khắc nghiệt, nên họ có xu hướng lựa chọn
những đất nước nhiệt đới, có nhiệt độ cao, ấm áp làm nơi du lịch nghỉ dưỡng. Và Việt
Nam, trong đó có Thừa Thiên Huế là một trong những điểm đến thú vị.
2.1.2. Sản phẩm du lịch
2.1.2.1. Các tuyến du lịch
- Các tuyến du lịch nội tỉnh.
• Tuyến du lịch Cố đô Huế;
• Tuyến du lịch Thành phố Huế - Thuận An - Phá Tam Giang - Đầm Cầu Hai;

• Tuyến du lịch Thành phố Huế - Cảnh Dương - Bạch Mã - Lăng Cô - Hải Vân;
• Tuyến du lịch Thành phố Huế - A Lưới - đường mòn Hồ Chí Minh
- Các tuyến du lịch liên tỉnh.
• Tuyến du lịch Huế - A Lưới - Đường mòn Hồ Chí Minh - Khe Sanh - Lao Bảo;
• Huế - Quảng Trị - Lao Bảo;
• Tuyến du lịch Huế - Cảnh Dương - Bạch Mã - Lăng Cô - Hải Vân - Đà Nẵng - Hội An.
2.1.2.2. Cơ sở lưu trú
Năm 1995 số phòng lưu trú đạt 1.349 phòng, 2000 đạt 2.115 phòng, năm 2005 đạt
4000 phòng; còn năm 2008 con số này đạt 6131 phòng; giai đoạn 1995 - 2005 tốc độ
tăng trưởng phòng khách sạn thực tế đạt 11,48%/năm. Số phòng lưu trú của tỉnh có tốc
độ tăng chậm, chưa đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu của khách du lịch
So với cả nước và khu vực miền Trung - Tây Nguyên, số phòng lưu trú của Thừa
Thiên Huế mới đạt 3,69% (cả nước) và 12,88% (khu vực miền Trung - Tây Nguyên)..
Về cơ cấu hệ thống cơ sở lưu trú. Tính đến năm 2008, toàn tỉnh có 279 cơ sở lưu
trú với hơn 6.000 phòng và 11.345 giường trong đó có 247 cơ sở lưu trú đủ tiêu chuẩn
đón khách quốc tế. Số lượng khách sạn là 136 khách sạn với gần 5.400 phòng, trong đó
có 70 khách sạn được công nhận hạng 1 - 4 sao chiếm tỷ lệ 24,44% trong tổng số cơ sở
lưu trú của tỉnh.
Công suất sử dụng phòng bình quân năm 2008 là 60 - 65%.
Nhìn chung, chất lượng cơ sở lưu trú của Thừa Thiên Huế đang tăng lên khá
nhanh về số lượng. Số lượng khách sạn đạt tiêu chuẩn 1 - 4 sao cũng tăng lên hiện
chiếm hơn 20% trong tổng số cơ sở lưu trú.
Tuy nhiên, tỷ lệ khách sạn quy mô nhỏ (dưới 20 phòng) vẫn còn khá lớn chiếm tỷ
lệ 30% số khách sạn của Thừa Thiên Huế và đặc biệt chúng đang có chiều hướng phát
triển nhanh. Điều này sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến việc nâng cao chất lượng dịch vụ
lưu trú của du lịch Thừa Thiên Huế. Khách sạn quy mô nhỏ chiếm tỉ lệ cao cũng là biểu
hiện của sự phát triển du lịch cộng đồng ở Huế. Hầu hết các hộ gia đình, các đơn vị
kinh doanh nhỏ với nguồn vốn có hạn và mục tiêu thu hồi vốn nhanh chỉ triển khai xây
dựng các khách sạn nhỏ, chất lượng vừa đủ phục vụ khách du lịch.
2.1.2.3. Cơ sở ăn uống và vui chơi giải trí

Với mục tiêu bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, đồng thời thoả
mãn nhu cầu khám phá, thưởng thức của khách du lịch; việc phục hồi các loại hình văn
hoá truyền thống đạt được nhiều thành quả đáng biểu dương thông qua việc tổ chức
thành công các kỳ Festival, các nhà sáng tác, nghệ sĩ, nghệ nhân và học sinh sinh viên
các trường Đại học Nghệ Thuật Huế đã góp phần lưu giữ và phát huy những giá trị văn
hoá đặc sắc, độc đáo của Di sản phi vật thể Huế đưa vào phục vụ du lịch có hiệu quả.
Nhiều điểm vui chơi giải trí, các công trình phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi thư giãn
cho nhân dân và cho du khách được xây dựng.
Hệ thống các nhà hàng trên địa bàn có sự tăng nhanh về lượng và chất; trong đó
một số nhà hàng được đầu tư lớn, đủ tiện nghi và điều kiện phục vụ, đáp ứng được nhu
cầu của đối tượng khách có thu nhập và chi tiêu cao.
2.1.2.4. Vận chuyển khách du lịch
Các loại hình vận chuyển khách được từng bước đa dạng, đáp ứng được nhu cầu
của khách du lịch. Đến nay, số đầu xe trong các doanh nghiệp du lịch khoảng 80 xe chất
lượng tốt với năng lực vận chuyển khoảng 1.200 chỗ; Các phương tiện vận chuyển
công cộng phát triển mạnh, chất lượng các loại hình vận chuyển bằng xe thô sơ từng
bước được nâng lên. Số lượng thuyền du lịch trên sông có gần 125 chiếc, đủ năng lực
vận chuyển khách kể cả trong mùa cao điểm. Sân bay Phú Bài được cải tạo nâng cấp đủ
khả năng tiếp nhận các loại máy bay cỡ lớn và được công nhận là sân bay đạt tiêu
chuẩn quốc tế. Bước đầu khai thác có hiệu quả việc đón tàu du lịch cập cảng Chân Mây,
trong 5 tháng đầu năm 2007 đã tổ chức đón 8 tàu du lịch nước ngoài với hơn 8.000 lượt
khách.
2.1.3. Kết quả kinh doanh du lịch
Doanh thu du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế năm 1995 đạt 93.400 triệu đồng; năm
2000 đạt 190.000 triệu đồng trong đó nộp cho ngân sách của tỉnh là 12.000 triệu đồng;
năm 2005 đạt 543.000 triệu đồng, nộp ngân sách đạt 14.000 triệu đồng; tốc độ tăng
trưởng giai đoạn 1995 - 2005 đạt 19,25%/năm.
Năm 2006, doanh thu du lịch đạt 731.000 triệu đồng, năm 2007 con số này là
1.060.270 triệu đồng, vượt kế hoạch đặt ra. Năm 2008, doanh thu du lịch tăng 7,85%,
đạt 1.143.500 triệu đồng.

Doanh thu du lịch ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong GDP của tỉnh. Tốc độ tăng
trưởng của GDP du lịch luôn cao hơn rất nhiều so với GDP của tỉnh, vì vậy nên tỉ trọng
này ngày càng tăng. Năm 1996 là 11,6%, đến năm 2005 là 28,5% và năm 2008 tỉ lệ này
đạt 34,2%. Theo dự báo, tỉ lệ GDP du lịch trên tổng GDP toàn tỉnh đến năm 2010 tiếp
tục tăng, đạt 38,5%.
Theo số liệu điều tra, cơ cấu doanh thu của du lịch Thừa Thiên Huế hiện tại như
sau: Doanh thu lưu trú chiếm tỷ trọng từ 25 - 30% tổng doanh thu; Doanh thu ăn uống
chiếm tỷ lệ 15 - 20% tổng doanh thu; Dịch vụ vận chuyển chiếm khoảng 15 - 20% tổng
doanh thu; Doanh thu từ bán hàng hoá lưu niệm chiếm khoảng 10 - 15%; Vui chơi giải
trí chiếm 5 - 10% tổng doanh thu; Các dịch vụ khác chiếm 5% tổng doanh thu.
2.1.4. Đầu tư phát triển du lịch
2.1.4.1. Đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch
Trong thời gian qua hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch đã thu được một số kết
quả khả quan trên nhiều lĩnh vực như:
- Về giao thông, triển khai các dự án đầu tư hệ thống giao thông đến các khu du
lịch như đường phía Tây đầm Lập An; đường nối cảng Chân Mây đến cửa Tư Hiền và
đường xuống Bãi Cả; hệ thống đường khu du lịch Lăng Cô; đường đô thị đoạn QL 1A
qua Thành phố Huế; mở rộng cảng Chân Mây; đầu tư nâng cấp sân bay Phú Bài nhằm
xây dựng thành cảng hàng không quốc tế; nâng cấp Ga Huế thành ga trung tâm của
thành phố du lịch.
- Về cấp điện, triển khai các dự án cấp điện như: Dự án cấp điện cho khu du lịch
Lăng Cô - Cảnh Dương; Dự án lưới điện khu du lịch Bạch Mã; Dự án di dời đường dây
110 KVA qua khu du lịch Lăng Cô
- Về cấp nước, triển khai các dự án cấp nước gồm: dự án cấp nước cho Thành phố
Huế, Phú Bài, Thị trấn A Lưới; Dự án cấp nước sạch cho khu tam giác Lăng Cô - Bạch
Mã - Cảnh Dương và một số dự án cải tạo nâng cấp hệ thống cấp nước ở các huyện và
khu đô thị khác.
- Về hệ thống thoát nước và xử lý chất thải, tập trung vào các hệ thống thoát nước
và xử lý rác thải, vệ sinh môi trường ở các khu vực đô thị. Đến nay đã cơ bản hoàn
thành hệ thống thoát nước và xử lý nước thải ở Thành phố Huế và một số khu vực đô

thị đảm bảo vệ sinh môi trường.
Các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng nói trên đã góp phần thúc đẩy du lịch phát triển
thông qua việc tạo ra môi trường đầu tư với những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu
tư phát triển du lịch tại Thừa Thiên Huế.
2.1.4.2. Cơ sở vật chất kĩ thuật và sản phẩm du lịch
Về dịch vụ lưu trú:
Trong thời gian qua, ngành du lịch đã tham mưu cho UBND Tỉnh ban hành những
quy định về điều kiện và tiêu chuẩn để được xây dựng các cơ sở lưu trú, đồng thời tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho các dự án xây dựng các cơ sở lưu trú chất lượng cao, quy
mô trên 100 phòng được triển khai nhanh chóng.
Bên cạnh đó, hoạt động lưu trú phát triển mạnh cả về lượng và chất. Đến năm
2006 lần đầu tiên Thừa Thiên Huế có khách sạn đạt tiêu chuẩn 5 sao. Tính đến nay, toàn
tỉnh có 113 doanh nghiệp kinh doanh lưu trú quản lý 134 cơ sở lưu trú với 4534 phòng,
8652 giường.
Về dịch vụ lữ hành:
Đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh có 25 đơn vị kinh doanh lữ hành, trong đó có 14
đơn vị lữ hành quốc tế. Nhìn chung hoạt động lữ hành có nhiều tiến bộ, các đơn vị lữ
hành quốc tế ngoài việc tập trung khai thác các thị trường truyền thống là Tây Âu, Bắc
Mỹ, thời gian gần đây đã chuyển hướng khai thác mạnh thị trường các nước gần, khu
vực đông bắc Á, các nước ASEAN.
Đã tố chức điều tra nghiên cứu phát triển một số cụm điểm du lịch mới hay tổ
chức Hội thảo phát triển các tour tuyến du lịch cho các doanh nghiệp lữ hành trên địa
bàn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được tài nguyên du lịch nhằm xây
dựng các chương trình du lịch mới.
Về dịch vụ văn hoá và vui chơi giải trí:
Đầu tư tổ chức thành công các kì Festival đã góp phần lưu giữ và phát huy những
giá trị văn hoá đặc sắc, độc đáo của Di sản vật thể và phi vật thể Huế đưa vào phục vụ
du lịch vó hiệu quả. Bên cạnh đó, nhiều điểm vui chơi giải trí, các công trình phục vụ
nhu cầu nghỉ ngơi thư giãn cho nhân dân và cho du khách được xây dựng. Hệ thống các
nhà hàng trên địa bàn có sự tăng nhanh về lượng và chất; trong đó một số nhà hàng

được đầu tư lớn, đủ tiện nghi và điều kiện phục vụ, đáp ứng được nhu cầu của đối
tượng khách có thu nhập và chi tiêu cao.
2.1.5. Nguồn nhân lực du lịch
2.1.5.1. Dự báo nhu cầu lao động
Du lịch là một ngành đang trên đà phát triển mạnh ở Thừa Thiên Huế. Những
năm qua, nhu cầu lao động của ngành kinh tế này đã có những biến thiên tương đối tích
cực.Dưới đây là những con số về nguồn nhân lực du lịch giai đoạn 2000 – 2005 cũng
như phần dự báo cho năm 2010.
Đơn vị tính: Nghìn người
Chỉ tiêu
Năm TTBQ
2000 - 2010
2000 2005 2010
Lao động trực tiếp
8.88 14.41 21.64 13.92%
Lao động gián tiếp
19.54 31.70 47.61 13.92%
Tổng cộng 28.42 46.11 69.25 13.92%
2.1.5.2. Thực trạng
Lao động trong du lịch Thừa Thiên Huế năm 1995 đạt 1.600 lao động, năm 2000
đạt 2.650 lao động, năm 2005 đạt 5.000 lao động, tốc độ tăng trưởng giai đoạn 1995 –
2005 đạt 12,07%/năm.
Năm 2005, so với cả nước và khu vực miền trung - tây nguyên, lao động du lịch
của Thừa Thiên Huế đạt 2,56% (cả nước) và 12,02% (khu vực Miền trung - tây
nguyên).
Năm 2007 số lượng lao động trong ngành du lịch Thừa Thiên Huế là 4.600 lao
động tăng 400 người (9,52%) so với năm 2005. Ước tính năm 2008 số lao động trong
ngành du lịch Thừa Thiên Huế là 5.100 người tăng 500 người (10,87%) so với năm
2007.
Về chất lượng, lao động ngành du lịch Thừa Thiên Huế có khoảng 70% là lao

động đã qua đào tạo với 30% đạt trình độ Đại học và cao đẳng, 20% được đào tạo bậc
trung cấp. Đội ngũ lễ tân và hướng dẫn viên du lịch hầu hết được đào tạo về chuyên
môn và ngoại ngữ. Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ lao động của Thừa Thiên Huế vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển du lịch hiện nay.
2.1.6. Tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh du lịch
Hệ thống kinh doanh du lịch Thừa Thiên Huế khá phát triển với số lượng lớn, đa
dạng về các hình thức sở hữu như quốc doanh, vốn đầu tư nước ngoài, tư nhân….; về
loại hình tổ chức như doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh, hộ gia đình kinh doanh phần; đa dạng về loại
hình dịch vụ như khách sạn, vận chuyển, nhà nghỉ, nhà khách, khu nghỉ dưỡng, khu du
lịch, khu vui chơi giải trí, lữ hành… cho thấy, môi trường kinh doanh du lịch khá hấp
dẫn. Năm 1996 toàn tỉnh mới có 61 doanh nghiệp du lịch, đến năm 2006, có 135 doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch. Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có hàng ngàn hộ kinh
doanh cá thể tập trung chủ yếu ở TP Huế và một số điểm du lịch khác trong tỉnh cho
thấy sức hấp dẫn của hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.1.7. Tiếp thị và xúc tiến, tuyên truyền quảng cáo
Công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến thị trường được ngành du lịch quan tâm
đúng mức, tuy vậy hoạt động này chủ yếu được thực hiện từ nội lực của các doanh
nghiệp. Việc quảng bá điểm đến thuộc trách nhiệm của Sở Du lịch, nhưng việc này
chưa được thực hiện tốt.
Một số ấn phẩm tuyên truyền quảng bá giới thiệu về tiềm năng và triển vọng phát
triển du lịch của địa phương đã được xây dựng; xúc tiến triển khai dự án xây dựng
trung tâm thông tin và cổng thông tin điện tử của ngành.
Việc tuyên truyền tại chỗ, tại các cửa khẩu quốc tế, nhất là tại sân bay Phú Bài
chưa duy trì thường xuyên, chủ yếu được triển khai theo từng đợt cao điểm như các kỳ
Festival, các sự kiện lớn nhằm tập trung cung cấp thông tin và hỗ trợ tư vấn về các dịch
vụ phục vụ nhu cầu tìm hiểu thông tin của khách.
Bằng kinh phí của Ban chỉ đạo phát triển du lịch, chuyên mục "Ống kính du lịch"
được duy trì thường xuyên trên HTVT nên cũng đã góp phần nâng cao nhận thức trong
nhân dân và có tác dụng tuyên truyền quảng bá tốt.

Trong khuôn khổ hợp tác du lịch với các địa phương lân cận, ngành du lịch cũng
đã phối hợp đón các đoàn Famtour gồm đại diện các hãng lữ hành, hãng hàng không và
các nhà báo quốc tế để tuyên truyền ra các thị trường quốc tế trọng điểm.
Về chương trình ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động lữ hành, khách
sạn, vận chuyển và các dịch vụ khác do được các doanh nghiệp nhận thức cao về tầm
quan trọng và hiệu quả thiết thực của CNTT trong lĩnh vực kinh doanh, nên nhiều đơn
vị đã đầu tư hàng trăm triệu đồng cho công tác này.
Tuy nhiên, hoạt động quảng bá tuyên truyền cho hình ảnh của du lịch Thừa Thiên
Huế chưa thực sự có tính chuyên nghiệp, chủ yếu tiến hành tập trung trong dịp festival
Huế; ngân sách cho các hoạt động quảng bá tuyên truyền còn thấp; các phương tiện
quảng bá tuyên truyền như Website, ấn phẩm quảng bá… chất lượng chưa cao, hoạt
động xúc tiến, tìm kiếm khai thác thị trường mới chưa được thực hiện chủ động, chưa
khai thác được các thị trường mới do đó hiệu quả tuyên truyền, quảng bá chưa cao cần
được đẩy mạnh hơn đặc biệt chú trọng một số thị trường quốc tế có vai trò quan trọng
đối với du lịch Thừa Thiên Huế như Pháp, Nhật Bản, Mỹ…
2.2. TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH
THÁI Ở THỪA THIÊN HUẾ
2.2.1. Sự cần thiết phải phát triển du lịch sinh thái ở Thừa Thiên Huế
2.2.1.1. DLST là một bộ phận của du lịch ở Thừa Thiên Huế
Đã từ lâu, Thừa Thiên Huế được biết đến như một điểm du lịch hấp dẫn của miền
Trung nói riêng và Việt Nam nói chung. Năm 1993, quần thể di tích triều Nguyễn được
UNESCO công nhận là Di sản văn hóa vật thể của thế giới. Đúng 10 năm sau, Nhã nhạc
cung đình Huế được ghi vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới do
UNESCO công nhận. Với hai di sản này, Thừa Thiên Huế thực sự trở thành một địa
danh du lịch được du khách khắp nơi trên cả nước và trên thế giới biết đến.
Dựa vào những số liệu về khách du lịch và doanh thu đã phân tích ở phần trước,
có thể thấy lượng khách đến Huế ngày càng tăng cả về số lượng lẫn chất lượng. Vậy
điều gì đã hấp dẫn du khách đến vậy? Đến với Thừa Thiên Huế, ngoài những di tích
văn hóa, lịch sử có từ hàng trăm thậm chí hàng ngàn năm, du khách còn có cơ hội ngắm
nhìn, tìm hiểu và khám phá một thế giới tự nhiên đa dạng, phong phú và đầy bí ẩn.

Rừng Quốc gia Bạch Mã với hệ sinh thái đa dạng bậc nhất Đông Nam Á hiện nay giúp
du khách thỏa sức thưởng ngoạn những tuyệt tác của thiên nhiên tạo ra, hay hòa mình
vào cuộc sống của tự nhiên, khám phá những điều kì thú của tự nhiên. Không chỉ dừng
lại ở Bạch Mã, du khách có thể xuôi xuống chân núi, biển Lăng Cô xanh ngắt tuyệt đẹp
luôn là sự lựa chọn sáng suốt, là điểm dừng chân đúng đắn sau những chuyến leo núi
vất vả. Và cả những con suối nước ngọt như Suối Voi, Nhị Hồ… đều đang thu hút được
nhiều khách du lịch. Đó là những điểm du lịch sinh thái đang phát triển mạnh ở Thừa
Thiên Huế.
2.2.1.2. Tiềm năng DLST ở Thừa Thiên Huế rất phong phú và đa dạng
Những địa danh như vườn Quốc gia Bạch Mã, Suối Voi, Nhị Hồ… là những điểm
du lịch sinh thái thu hút được nhiều khách du lịch trong nước và trên thế giới. Với
những đặc điểm sinh thái vốn có độc đáo của mình, những điểm DLST này đã và đang
tạo nên một hình ảnh du lịch ấn tượng cho du khách. Đây cũng là những điểm DLST
mang lại nhiều doanh thu nhất cho tỉnh hiện nay.
Bên cạnh những điểm du lịch vốn có, DLST ở Thừa Thiên Huế còn được hứa hẹn
với nhiều điểm du lịch hấp dẫn trải đều trên tất cả các huyện lỵ của tỉnh với nhiều đặc
điểm và hình thức khác nhau. Có thể điểm qua một số tour, tuyến du lịch đã được hình
thành, đưa vào dự án như: hệ thống nhà vườn cổ, du thuyền trên sông Hương, đầm phá
Tam Giang – Cầu Hai… Hay những địa điểm mà chưa được một nhà đầu tư nào để mắt
đến như Khu sinh thái Rú Trá ở Hương Phong huyện Hương Trà, hay Tràm Chim, thác
A Đon ở Phong Điền… Tất cả tạo nên tiềm năng cho DLST ở Thừa Thiên Huế.
2.2.1.3. Thực trạng phát triển DLST ở Thừa Thiên Huế còn kém và chưa tương
xứng với tiềm năng
Nếu như hỏi một du khách không phải là người bản địa về những địa điểm DLST
ở Huế, cái tên được nhắc đến đầu tiên chỉ có thể là Vườn Quốc gia Bạch Mã, và rải rác
một số cái tên như Suối Voi, Nhị Hồ. Những địa danh khác như Phú Mộng, Kim Long
hay A Đon, núi Túy Vân… hoàn toàn không nằm trong trí nhớ của du khách.
Thực tế, dựa vào cơ cấu doanh thu từ DLST, ta có thể thấy, Vườn Quốc gia Bạch
Mã chiếm hơn 80% doanh thu, 16% là của cụm du lịch Suối Voi, Nhị Hồ; chỉ còn lại
một phần rất nhỏ 4% là từ các địa điểm du lịch còn lại. Như vậy, trong doanh thu ít ỏi

của DLST ở đây, nổi rõ nhất là các địa điểm đã được nhiều khách du lịch biết đến. Còn
với những điểm du lịch tiềm năng, doanh thu rất nhỏ lẻ, manh mún nếu như không
muốn nói là gần bằng không.
Bởi vậy, phát triển DLST ở Thừa Thiên Huế là hết sức cần thiết, giúp tỉnh phát
triển được tiềm năng du lịch của mình, mang lại những lợi ích không nhỏ về các mặt
kinh tế, xã hội và môi trường.
2.2.2. Các điều kiện tiềm năng phát triển DLST ở Thừa Thiên Huế
2.1.1.1. Bối cảnh chung
Thuộc khu vực miền Trung, Thừa Thiên Huế mang những đặc trưng địa hình và
khí hậu của khu vực này. Địa hình ở đây khá dốc với dãy núi Trường Sơn ở phía Tây,
xuôi dần về phía Đông là những dải đồng bằng nhỏ hẹp và khu vực đầm phá Tam Giang
khá rộng lớn. Khí hậu nóng ẩm vào mùa hè và mưa nhiều vào mùa đông. Với những
điều kiện tự nhiên như vậy nên hệ sinh thái ở đây rất đa dạng, mang tính chất của nhiều
địa hình khác nhau của vùng khí hậu xích đạo.
Thừa Thiên Huế được biết đến với nhiều danh lam thắng cảnh độc đáo, mang
nhiều giá trị lịch sử và văn hóa sâu sắc. Đó là quần thể Di tích triều Nguyễn, Nhã Nhạc
cung đình, hệ thống chùa chiền đình miếu, những di tích lịch sử mang gía trị tinh thần
to lớn và cả những tài nguyên DLST. Có lẽ chính vì vậy nên du lịch là một ngành mũi
nhọn của tỉnh, góp phần rất lớn vào giá trị sản xuất hàng năm của tỉnh. Du lịch đang là
một trong những mối quan tâm hàng đầu của các cấp chính quyền cũng như các doanh
nghiệp tư nhân. Trong tương lai, du lịch nói chung và DLST nói riêng ở Thừa Thiên
Huế sẽ phát triển vững mạnh.
Với vị trí là một cố đô của Việt Nam, Thừa Thiên Huế còn được biết đến như là
nơi quy tụ giao thoa của nhiều nét văn hóa truyền thống và hiện đại. Mười ba triểu vua
nhà Nguyễn đã lưu lại cho nơi đây những thuần phong mỹ tục của chốn kinh thành xưa.
Chính vì vậy Huế chính là nơi nuôi dưỡng biết bao nhân tài thơ văn cũng như nghệ sĩ
cho đất nước. Có thể kể đến Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Tố Hữu, Huy Cận, Nguyễn
Khoa Điềm, Nguyễn Chí Thanh hay nhạc sĩ Trịnh Công Sơn… Đây cũng là vùng đất có
nhiều lễ hội văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc cũng như bản sắc của một
cố đô.

Nằm trên trục đường giao thông chính Bắc – Nam, có quốc lộ 1A và đường Sắt
chạy qua, giao thông ở Thừa Thiên Huế khá thuận lợi cho phát triển du lịch. Bên cạnh
đó, sân bay Quốc tế Phú Bài cũng góp phần không nhỏ trong việc rút ngắn khoảng cách
giữa các tỉnh trong nước cũng như các địa điểm trên thế giới cho khách du lịch. Ngoài
ra tỉnh cũng đã được lắp đặt đầy đủ các hạng mục thông tin liên lạc có thể đáp ứng nhu
cầu về phát triển du lịch. Về cơ sở vật chất phát triển du lịch, toàn tỉnh đã có 271 khách
sạn, nhà nghỉ với tổng số hơn 11.000 phòng, có thể đáp ứng khá tốt nhu cầu nghỉ ngơi
của khách du lịch.
2.2.2.2. Vị trí địa lý
Tỉnh Thừa Thiên Huế nằm ở vị trí trung độ của cả nước, cực nam của khu vực Bắc
miền Trung. Phía Bắc giáp Quảng Trị, phía Nam giáp Đà Nẵng, phía Tây giáp nước bạn
Lào và phía Đông giáp biển, tỉnh nằm trên trục đường Bắc Nam của cả nước, có Quốc
lộ 1A cũng như đường tàu thống nhất chạy qua. Tỉnh có diện tích hơn 5.000 km2 với 8
huyện và một thành phố trực thuộc tỉnh.
2.2.2.3. Tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái
Thừa Thiên Huế là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi với nhiều cảnh quan thiên
nhiên và danh thắng nổi tiếng, từ lâu đã thu hút được nhiều du khách trong và ngoài
nước đến tham quan. Trong số đó có thể kế đến vườn Quốc gia Bạch Mã, biển Lăng Cô,
Suối Voi, thác Nhị Hồ. Ngoài ra, hệ thống hàng trăm nhà vườn cổ xưa, hay những hoạt
động du thuyền ngắm cảnh trên sông Hương cũng có sự thu hút đặc biệt đối với du
khách
Tài nguyên tự nhiên và môi trường sinh thái ở Thừa Thiên Huế có những đặc
trưng rất riêng, nó ảnh hưởng khá lớn đến phát triển DLST:
- Hầu hết các tài nguyên tự nhiên của Thừa Thiên Huế không chỉ có giá trị cho
tham quan du lịch thuần túy mà còn có giá trị lớn về khoa học cho các nghiên cứu
chuyên đề. Điển hình trong số đó là Vườn Quốc gia Bạch Mã, hệ sinh thái đầm phá
Tam Giang – Cầu Hai.
- Các tài nguyên sinh thái luôn gắn quyện với các giá trị văn hóa, lịch sử của tỉnh
nói chung cũng như của cộng đồng dân cư bản địa nói riêng.
- Một số tài nguyên nằm xen lẫn trong khu sinh sống của người dân tộc thiểu số,

gắn với cuộc sống hàng ngày của họ. Nên phải đảm bảo phát triển DLST mà không ảnh
hưởng đến cuộc sống của những người dân này.

×