Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Phương pháp gây đa bội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.68 KB, 9 trang )


Phương pháp
gây đa bội


Năm 1895 lần đầu tiên Hugo De Vries
tìm ra một dạng đa bội trong tự nhiên ở
cây Oenothera lamarckiana. Cây này có
kích thước khổng lồ và sinh trưởng rất
nhanh. Nhưng mãi đến 1907, sau công
trình nghiên cứu về tế bào học của Lute
người ta mới biết nó là một cây tứ bội.
Bằng phương pháp gây mô tái sinh,
Winkler (1916) là người đầu tiên đã thu
được những dạng đa bội ở một số loài cà
như Solanum nigrum và S. lycopersicum.
Phương pháp này khá đơn giản: khi cây
con được 6; 7 lá thật thì khía 1/2 ngọn
cây rồi ghép trở lại chổ cũ, hoặc cắt ngọn
chính và những cành bên. Sau 10-14
ngày, từ vết ghép hoặc chổ bị thương tổn
sẽ hình thành nên những cành mới.
Trong số những cành như vậy, có thể có
một số là đa bội. Nguyên nhân gây ra
hiện tượng đa bội ở phương pháp này có
thể là do sự hình thành các cành đa bội từ
những mô đã bị phân hoá sau khi xử lý
hoặc do sự kết hợp nhân giữa các tế bào
của các mô sát thương. Với phương pháp
dùng tia Rơnghen để xử lý, lần đầu tiên
vào năm 1930 Goodspeed và Demol đã


thu được những dạng đa bội ở thuốc lá và
một số cây khác. Bằng phương pháp lai
cũng có khả năng thu được những dạng
cây đa bội. Có ý nghĩa lớn nhất là công
trình của Carpesenco (1927) khi lai giữa
củ cải Raphanus sativus với bắp cải
Brassica oleracea, con lai thu được bất
thụ, nhưng dạng dị tứ bội của nó lại hữu
thụ cao.
Song, việc tạo dạng đa bội bằng những
tác nhân hoá học vẫn là phương pháp
được nhiều người chú ý và có hiệu quả
nhất. Ngay từ 1896 Gheraximop đã dùng
clorofooc, ete, cloralhydrat tác động đến
tảo Spyrogyra. Tuy nhiên, chỉ sau những
công trình thực nghiệm của Blakeslee và
Avery (1937) về việc sử dụng chất
colchicine thì vấn đề đa bội thể thực
nghiệm mới có những bước tiến khổng
lồ. Cùng với Blakeslee và Avery, những
công trình rất có giá trị tiếp theo của
Levan, Dustin, Kostov, Navasin,
Gheraximop, Lương Đình Của v.v. đã
mở ra một kỷ nguyên mới trong phương
pháp gây đa bội thể thực nghiệm.
Khi sử dụng colchicine người ta rút ra
những kết luận sau: (i) Colchicine ở dạng
dung dịch có khả năng khuếch tán mạnh
vào các mô thực vật; (ii) Hiện tượng đa
bội hoá chỉ xảy ra do tác dụng của

colchicine đến những mô đang phân chia
mạnh; (iii) Khả năng cho cây đa bội tăng
lên trong những điều kiện gieo trồng tốt;
(iv) Thời gian xử lý thích hợp tuỳ thuộc
vào thời gian phân bào khác nhau của các
loài cây; (v) Nồng độ colchicine được sử
dụng tuỳ từng loài cây.
Phương pháp xử lý và thời gian xử lý
Colchicine là một alkaloid có ở nhiều
loài thực vật, nhưng chủ yếu là ở loài
Colchicum autumnale (tập trung ở vùng
Địa trung hải). Bộ phận của đối tượng
được xử lý có thể là hạt, mầm cây, chồi,
nách, rễ, hoa... Colchicine rất dễ tan
trong nước, ở dạng dung dịch nó khuếch
tán rất mạnh vào các mô. Trong phạm vi
nồng độ từ 0,01% - 1% colchicine đều
gây hiệu quả. Nhưng nồng độ thông dụng
nhất cho mọi cây trồng là 0,2%. Khi xử
lý colchicine ở nồng độ cao, thời gian
ngắn cho hiệu quả hơn khi xử lý nồng độ
thấp, thời gian dài. Thời gian xử lý có thể
thay đổi từ vài giờ cho đến vài ngày hoặc
hơn. Tuy nhiên, nếu thời gian xử lý quá
ngắn thì hiệu quả rất thấp. Theo
Dermen, nếu thêm vào dung dịch
colchicine một vài giọt glycerin thì hiệu
quả có thể tăng.
 Kỹ thuật xử lý :

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×