Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động trong học Toán lớp Ba.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.92 KB, 41 trang )

UBND THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Một số biện pháp giúp học sinh phát huy tính
tích cực, chủ động trong học Toán lớp Ba.
Bộ môn: Môn Toán

Năm học 2018 - 2019


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp giúp học sinh phát huy tính tích
cực, chủ động trong học Toán lớp Ba.
2. Bộ môn (lĩnh vực) áp dụng sáng kiến: Môn Toán
3. Tác giả:
Họ và tên: Đỗ Thị Tho

Nam (nữ): Nữ

Ngày tháng/năm sinh: 16/12/1980
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Tiểu học
Chức vụ, đơn vị công tác: GV trường Tiểu học Võ Thị Sáu,TP Hải
Dương.
Điện thoại: 0386 473 346
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Võ Thị Sáu, 22 Đại lộ
Hồ Chí Minh, phường Trần Phú, TP Hải Dương. Điện thoại: 02203 849 789
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học Võ Thị Sáu- 22 Đại
lộ Hồ Chí Minh, phường Trần Phú, TP Hải Dương.
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Sự quan tâm, giúp đỡ của Ban Giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn đã


tạo điều kiện tốt nhất cho bản thân tôi khi áp dụng sáng kiến này.
Tinh thần, thái độ học tập tốt, ý thức tự giác của học sinh là một trong
những động lực giúp tôi thành công khi áp dụng sáng kiến.
Chương trình, nội dung, phương pháp dạy học môn Toán lớp 3.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2018 - 2019
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN

Đỗ Thị Tho
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT


TÓM TẮT NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA SÁNG KIẾN
Tên Sáng kiến: Một số biện pháp giúp học sinh phát huy tính tích cực,
chủ động trong học Toán lớp Ba.
Chuyên môn đào tạo của tác giả: Đại học sư phạm Tiểu học
Chuyên môn được phân công năm học 2018-2019: Chủ nhiệm+TTCM
1. Thời gian, đối tượng, điều kiện:
- Bắt đầu triển khai nghiên cứu: tháng 9 năm 2018
- Khảo sát (KS) đầu vào: tháng 9 năm 2018
+ Đối tượng KS: Học sinh lớp 3A và lớp 3D

+ Số lượng KS: 76 HS

+ Nội dung khảo sát: Bài kiểm tra 35 phút
- Khảo sát đầu ra: tháng 1 năm 2019
+ Đối tượng KS: Học sinh lớp 3A và lớp 3D


+ Số lượng KS: 76 HS

+ Nội dung khảo sát: Bài kiểm tra 35 phút
- Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu:
Năm học 2018 – 2019.
- Đối tượng áp dụng: Học sinh lớp 3.
- Điều kiện cần thiết để áp dụng:
Sự quan tâm, giúp đỡ của Ban Giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn.
Tinh thần, thái độ học tập tốt, ý thức tự giác của học.
Chương trình, nội dung, phương pháp dạy học môn Toán lớp 3.
2. Lí do nghiên cứu:
Môn Toán trong nhà trường Tiểu học có vai trò góp phần quan trọng tạo nên
những con người phát triển toàn diện.Toán học là môn khoa học tự nhiên có
tính lôgíc và tính chính xác cao, nó là chìa khóa mở ra sự phát triển của các bộ
môn khoa học khác.
Việc áp dụng phương pháp dạy học cũ còn hiện diện nhiều với cách dạy:
thầy giảng, trò nghe, ghi nhớ và tái hiện,... không phát huy được tính tích cực,
sáng tạo và trí thông minh của học sinh trong quá trình tiếp nhận kiến thức mới.
Việc tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm, trò chơi học tập,... chưa được sử
dụng đều trong mỗi tiết học. Vì vậy, tôi mạnh dạn đề xuất “ Một số biện pháp


giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động trong học Toán lớp Ba”.
3. Các tồn tại trước khi có SK, nguyên nhân:
- Học sinh học tập thụ động, ghi nhớ máy móc, chưa tập trung hứng thú
trong giờ học toán. Ngại tính toán, ngại tìm các cách giải khác nhau cho một
bài toán.
- Đa số giáo viên còn dạy theo phương pháp cũ: Thầy giảng trò ghi nhớ.
Khi giảng bài, giáo viên còn làm việc nhiều, chỉ chú ý sao cho học sinh giải
được các bài toán ở SGK, chưa thật sự chú ý đến việc phát triển nâng cao giúp

các em phát triển năng lực tư duy, phát huy tính tích cực trong học tập. Giờ học
không sôi nổi.
4. Các biện pháp đề ra:
1. Chuẩn bị trước khi lên lớp.
2. Hiểu ý đồ của SGK để cung cấp và khai thác kiến thức phù hợp, đúng
với mục tiêu của từng bài, tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh.
3. Phát huy tính tương tác trong học tập bằng cách yêu cầu tự học sinh
nêu câu hỏi, tạo ra sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh.
4. Phát triển tư duy toán học cho học sinh.
5. Đổi mới cách đánh giá.
6. Sử dụng một số "mẹo" tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Toán.
5. Hiệu quả mang lại: Học sinh tự tin, tích cực, chủ động hào hứng, sôi nổi
trong giờ họcToán. Kết quả KS: Điểm 9 – 10 đạt 76,3%; Điểm 7 – 8 đạt 23,7%.
6. Khuyến nghị:
- GV cần mạnh dạn tìm ra các cách khác nhau giúp học sinh nắm được bài
học một cách nhanh nhất, nhẹ nhàng nhất, hiệu quả và đầy đủ nhất.
- Nhà trường tổ chức các chuyên đề về dạy giải toán theo từng nội dung cụ
thể.
- Tổ chức CLB Toán học để khích lệ HS học toán tích cực,chủ động tốt hơn.
- Các cấp quản lí giới thiệu, cung cấp thêm những tài liệu, sách tham khảo
về dạy Toán để giáo viên tham khảo và học tập.


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến: Toán học là môn khoa học tự nhiên có
tính lôgíc và tính chính xác cao, là chìa khóa phát triển của các bộ môn khoa
học khác, góp phần quan trọng đào tạo nên con người phát triển toàn diện.
Thực tế, giáo dục đã có nhiều đổi mới, đặc biệt là đổi mới về phương pháp
dạy học. Song việc áp dụng phương pháp dạy học cũ còn hiện diện nhiều với
cách dạy: thầy giảng, trò nghe, ghi nhớ và tái hiện,... không phát huy được tính

tích cực, sáng tạo của học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức.
Vì vậy việc đổi mới tư duy để thay đổi lối mòn trong suy nghĩ mỗi giáo
viên là vô cùng cần thiết, giúp giáo viên tháo gỡ những vướng mắc khó khăn
trong việc lựa chọn những phương pháp dạy học, hình thức tổ chức giờ học
giúp học sinh tích cực, chủ động chiếm lĩnh kiến thức, tự tin trước tập thể và
sáng tạo trong tư duy.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:
- Điều kiện: Chương trình, nội dung, phương pháp dạy học môn Toán lớp 3.
- Thời gian áp dụng sáng kiến: Năm học 2018 - 2019
- Đối tượng: Học sinh lớp 3.
3. Trình bày nội dung: Sáng kiến đưa ra một số biện pháp để giúp học sinh
tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập và nắm bắt tri thức, giúp
các em yêu thích môn Toán hơn, có tinh thần hợp tác, độc lập và sáng tạo, có ý
chí vượt khó khăn, cẩn thận, kiên trì, tự tin.
3.1. Phương pháp chung: Tự phát hiện - Tự giải quyết - Tự chiếm lĩnh:
* Các bước cụ thể: - Làm nảy sinh nhu cầu nhận thức của học sinh.
- Tổ chức các hoạt động học tập (theo cá nhân, nhóm hay cả lớp).
- Hướng dẫn học sinh trình bày ý kiến trước nhóm, trước lớp.
- Hướng dẫn học sinh nhận xét, đánh giá, bổ sung.
- Giáo viên hệ thống, kết luận vấn đề, hướng dẫn học sinh trình bày.
- Tổ chức cho học sinh luyện tập, thực hành, rèn các kĩ năng.
3.2. Biện pháp thực hiện:


- Nghiên cứu kĩ nội dung chương trình và bài dạy để xác định đúng mục
đích yêu cầu của tiết dạy và có sự hệ thống xâu chuỗi kiến thức.
- Thiết kế, xây dựng giáo án để dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh.
- Tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh thông qua các khâu: Giúp học
sinh tự phát hiện vấn đề. Giúp học sinh tập khái quát được cách làm của dạng
toán để tự chiếm lĩnh kiến thức mới. Học sinh tự nêu ra ví dụ mới tương tự

dạng bài đã học. Qua bài tập giúp học sinh tổng hợp và khắc sâu kiến thức.
- Phát huy tính tương tác trong học tập bằng cách yêu cầu tự học sinh nêu
câu hỏi, tạo ra sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh.
- Phát triển tư duy toán học cho học sinh: Khai thác nội dung không xuôi
chiều. Lấy phản ví dụ để củng cố kiến thức.
- Đổi mới cách đánh giá: Giáo viên đánh giá học sinh; học sinh đánh giá lẫn
nhau; học sinh tự đánh giá mình.
- Sử dụng một số "mẹo" tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học Toán: Vào
đề khi giảng bài mới bằng các tình huống có vấn đề; Xen những câu đố vui liên
quan đến nội dung thích hợp; Kể những mẩu chuyện toán học hấp dẫn tránh
được những giờ học toán khô khan; Tổ chức trò chơi học tập dưới nhiều hình
thức phù hợp với đặc điểm từng tiết học giúp các em học mà được chơi, trong
lúc chơi cũng học.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến:
- Học sinh tập khái quát được dạng toán. Giúp học sinh tự phát hiện vấn đề và
giải quyết vấn đề một cách chủ động; tiếp thu và vận dụng kiến thức sáng tạo.
- Khuyến khích học sinh khi giải toán không vội bằng lòng với một cách
giải mà biết chọn phương pháp giải hay nhất, gọn nhất.
- Giúp tháo gỡ bế tắc lâu nay của giáo viên đứng lớp và góp phần rèn luyện
học sinh thành những con người năng động, tự tin và thấu đáo trong việc giải
quyết mọi vấn đề, trên mọi lĩnh vực.
- Từ kết quả đã đạt được trong quá trình nghiên cứu, tôi tin rằng sáng kiến
này có thể áp dụng trong giảng dạy môn Toán từ lớp 1 đến lớp 5 ở Tiểu học.


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Lý do chọn sáng kiến:
Môn Toán cùng với các môn học khác trong nhà trường Tiểu học có vai trò
góp phần quan trọng đào tạo nên những con người phát triển toàn diện.Toán
học là môn khoa học tự nhiên có tính lôgíc và tính chính xác cao, nó là chìa

khóa mở ra sự phát triển của các bộ môn khoa học khác.
Thực tế, ngành giáo dục đã có nhiều đổi mới cơ bản, đặc biệt là đổi mới về
phương pháp dạy học. Song việc áp dụng phương pháp dạy học cũ còn hiện
diện nhiều với cách dạy: thầy giảng, trò nghe, ghi nhớ và tái hiện,... không phát
huy được tính tích cực, sáng tạo và trí thông minh của học sinh trong quá trình
tiếp nhận kiến thức mới.
Bên cạnh đó việc dạy học trên cơ sở tổ chức và hướng dẫn các hoạt động
học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh được áp dụng nhưng không
thường xuyên dẫn đến hiệu quả mang lại chưa cao. Việc tổ chức cho học sinh
thảo luận nhóm, trò chơi học tập,... chưa được sử dụng đều trong mỗi tiết học
một cách thường xuyên. Chính vì vậy, tôi mạnh dạn đề xuất Một số biện pháp
giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động trong học Toán lớp Ba.
2. Mục đích nghiên cứu:
Dựa trên thực trạng dạy và học môn Toán ở lớp 3, tôi muốn đưa ra một số
biện pháp để giúp các em nắm chắc kiến thức, chủ động, sáng tạo trong quá
trình học tập và nắm bắt tri thức, giúp các em yêu thích môn Toán hơn. Từ đó
tạo cho các em có tác phong học tập và làm việc có suy nghĩ, có kế hoạch, có
kiểm tra, có tinh thần hợp tác, độc lập và sáng tạo, có ý chí vượt khó khăn, cẩn
thận, kiên trì, tự tin.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 3D - lớp đối chứng; Học sinh lớp 3A - lớp thực nghiệm.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong suốt quá trình nghiên cứu, tôi đã kết hợp sử dụng nhiều phương pháp
để nghiên cứu như sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc tài liệu;…
1


- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Trao đổi, tìm hiểu ý kiến từ đồng
nghiệp.

- Phương pháp điều tra, thống kê.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp thực nghiệm; kiểm chứng.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp thực hành.
- Phương pháp đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm,…
5. Cơ sở lí luận:
Tính tích cực học tập được thể hiện ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và
có nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Tính tích cực nhận thức
trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ đúng
tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu
tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc
lập là khởi nguồn của sáng tạo. Phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ
phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập. Tính tích cực học tập
biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ
sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu
ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ
động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung
chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản lòng
trước những tình huống học tập khó khăn; tích cực đào sâu suy nghĩ…
Tính tích cực học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như:
- Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn…
- Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác
nhau.
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
Dạy học lấy học sinh làm trung tâm còn có một số thuật ngữ tương đương
như: dạy học tập trung vào người học, dạy học căn cứ vào người học, dạy học
2



hướng vào người học,…Các thuật ngữ này có chung một nội hàm là nhấn mạnh
hoạt động học và vai trò của học sinh trong quá trình dạy học, khác với cách
tiếp cận truyền thống lâu nay là nhấn mạnh hoạt động dạy và vai trò của giáo
viên.
Lịch sử phát triển giáo dục cho thấy, trong nhà trường một thầy dạy cho
một lớp đông học trò, cùng lứa tuổi và trình độ tương đối đồng đều thì giáo
viên khó có điều kiện chăm lo cho từng học sinh nên đã hình thành kiểu dạy
"thông báo - đồng loạt". Giáo viên quan tâm trước hết đến việc hoàn thành
trách nhiệm của mình là truyền đạt cho hết nội dung quy định trong chương
trình và sách giáo khoa, cố gắng làm cho mọi học sinh hiểu và nhớ những điều
giáo viên giảng. Cách dạy này dẫn tới cách học tập thụ động, thiên về ghi nhớ,
ít chịu suy nghĩ, cho nên đã hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy và học, không
đáp ứng yêu cầu phát triển năng động của xã hội hiện đại. Để khắc phục tình
trạng này, các nhà sư phạm kêu gọi phải phát huy tính tích cực, chủ động của
học sinh, thực hiện "dạy học phân hóa" quan tâm đến nhu cầu, khả năng của
mỗi cá nhân
Trên thực tế, trong quá trình dạy học người học vừa là đối tượng của hoạt
động dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Thông qua hoạt động học, dưới
sự chỉ đạo của thầy, người học phải tích cực chủ động cải biến chính mình về
kiến thức, kĩ năng, thái độ, hoàn thiện nhân cách, không ai làm thay cho mình
được. Vì vậy, nếu người học không tự giác chủ động, không chịu học, không có
phương pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế. Như vậy, khi đã
coi trọng vị trí hoạt động và vai trò của người học thì đương nhiên phải phát
huy tính tích cực chủ động của người học.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học,
ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy.
Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng
giáo viên chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp giáo viên hăng hái áp dụng
phương pháp dạy học tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích

ứng, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì vậy, giáo viên phải kiên trì để dần
3


dần xây dựng cho các em học sinh phương pháp học tập chủ động một cách
vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp
tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động dạy của người
thầy với hoạt động học của trò thì mới có những tiết học thực sự thành công.
6. Cơ sở thực tiễn.
Trong những năm gần đây, hoà chung với sự nghiệp đổi mới của đất nước,
ngành giáo dục đang thực hiện những đổi mới toàn diện, đồng bộ để góp phần
chuẩn bị năng lực, học vấn và thích ứng chủ động cho thế hệ trẻ, cho người lao
động Việt Nam trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong
đó phải kể đến chương trình môn Toán. Đặc biệt, nội dung và phương pháp dạy
học Toán ở giai đoạn các lớp 1,2,3 có nhiều đổi mới. Trong đó, Toán 3 thực
hiện việc chuẩn bị chuyển từ giai đoạn dạy học Toán chủ yếu dựa vào trực quan
và các sự việc, hiện tượng riêng lẻ trong đời sống sang giai đoạn đòi hỏi phải
hệ thống hoá, trừu tượng hoá và khái quát hoá các kiến thức đã tích luỹ được
(giai đoạn lớp 4,5). Toán 3 tăng cường tập dượt cho học sinh khái quát hoá một
số nội dung đã học ở các lớp 1,2,3 ( bằng lời, bằng sơ đồ, bằng “ công thức”
dạng đơn giản và cụ thể).
Muốn học sinh lớp 3 học tốt được môn Toán thì mỗi người giáo viên không
phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong Sách giáo khoa,
trong các Sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách rập khuôn, máy móc
làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc
học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ
không cao. Yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới phương pháp
dạy học môn toán ở bậc Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động
sáng tạo của học sinh. Vì vậy người giáo viên phải gây được hứng thú học tập
cho các em bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập. Vậy

phải làm thế nào để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học toán 3? Làm thế
nào để Toán 3 đem lại chất lượng giáo dục toán học ở tầm cao hơn trước cho
mọi đối tượng học sinh? Những câu hỏi đó đang cần các nhà giáo dục như mỗi
chúng ta giải đáp.
4


7. Thực trạng
ĐỀ KHẢO SÁT (Thời gian : 35 phút)
A. Khoanh tròn vào chữ cái đặt trước câu trả lời đúng: (mỗi câu 0,5 điểm)
Câu 1: Số bé nhất trong các số: 303, 301, 299, 400 là:
A. 303

B. 301

C. 299

D. 400

Câu 2: Trong phép chia cho 5 số dư lớn nhất là:
A. 4

B. 5

C. 6

D. 1

Câu 3: Chu vi hình tam giác ABC có độ dài cạnh AB = 23 cm; BC = 32cm ;
AC = 4 dm là:

A. 49dm

B. 49cm

C. 85dm

D. 85cm

Câu 4: Tích của 15 và 3 là :
A. 18

B. 12

C. 5

D. 45

Câu 5: Năm nay mẹ 36 tuổi. Tuổi con bằng

1
tuổi mẹ. Hỏi con bao nhiêu tuổi?
6

A. 30

C. 6 tuổi

B. 6

D. 4 tuổi


Câu 6: Hình vẽ bên có:
…………………. hình tam giác
…………………. hình tứ giác
B. Làm các bài tập sau.
Bài 1: Đặt tính rồi tính: (2 điểm)
352 + 176

734 - 215

34 x 2

69 : 6

Bài 2: Tìm y: (2 điểm)
a) y : 6 = 5 x 2

b) y : 5 = 12 (dư 1)

Bài 3: (2 điểm) Em cắt được 7 bông hoa. Chị cắt được số hoa gấp 4 lần số hoa
của em. Hỏi chị cắt được bao nhiêu bông hoa?
Bài 4: Tính nhanh: ( 1 điểm)
11 + 137 + 72 + 63 + 202 + 128 + 189 - 2

5


Lớp

Kết quả

Điểm 9 - 10
Điểm 7 - 8
Điểm 5 - 6
Sĩ số
SL
%
SL
%
SL
%
3A
38
12
31,6
22
57,9
4
10,5
3D
38
13
34,2
20
52,6
5
13,2
Kết quả khảo sát cho thấy tỉ lệ bài làm của học sinh ở cả hai lớp đạt điểm 9,

10 còn thấp; tỉ lệ số học sinh đạt điểm 7, 8 và điểm 5, 6 còn nhiều, các em tính
toán còn nhầm, kĩ năng trình bày bài chưa khao học, lời giải chưa chặt chẽ.

Nguyên nhân của thực trạng trên là:
- Học sinh học tập thụ động, ghi nhớ máy móc, chưa tập trung hứng thú
trong giờ học toán. Ngại tính toán, ngại tìm các cách giải khác nhau cho một
bài toán.
- Đa số giáo viên còn dạy theo phương pháp cũ: Thầy giảng trò ghi nhớ.
Bài dạy mới chỉ dừng ở mức độ truyền đạt đủ nội dung kiến thức đơn giản của
bài chứ chưa chú ý đến việc khắc sâu kiến thức của bài dạy cho học sinh. Giáo
viên chưa vận dụng linh hoạt đổi mới phương pháp. Phương pháp dạy học của
giáo viên chưa phát huy được tính tích cực độc lập và sáng tạo của học sinh.
Khi giảng bài giáo viên còn làm việc nhiều, học sinh lại thụ động tiếp thu kiến
thức. Giáo viên chỉ chú ý sao cho học sinh giải được các bài toán ở SGK chứ
chưa chú ý đến việc phát triển nâng cao để giúp học sinh nắm vững dạng toán
đồng thời giúp các em phát triển năng lực tư duy, phát huy tính tích cực trong
học tập. Như vậy giờ học không sôi nổi, hiệu quả không cao.
Trước thực tế này thì việc giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động
trong học Toán lớp Ba là điều cần thiết.
8. Khái quát nội dung và phương pháp dạy học phát huy tính tích
cực của học sinh trong chương trình Toán 3:
Dạy học Toán theo chương trình lớp 3 mới, học sinh được tiếp nhận
những kiến thức kĩ năng cơ bản về đếm, đọc, viết, so sánh, sắp thứ tự các số tự
nhiên và 4 phép tính về số tự nhiên (trong phạm vi 100 000); đo lường; về nhận
biết các hình đơn giản, tính chu vi và diện tích hình vuông, hình chữ nhật và
giải quyết các tình huống có trong vấn đề học tập, trong cuộc sống thông qua
6


giải toán có lời văn,... Điều đặc biệt khi học theo chương trình mới là học sinh
được chuẩn bị về phương pháp tự học Toán dựa vào các hoạt động tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh. Học sinh được tập dượt tự phát hiện, tự giải quyết
vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức mới, kết hợp học cá nhân với hợp tác trong

nhóm, trong lớp, thực hiện học gắn với thực hành, vận dụng một cách linh hoạt
dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên. Để đạt được điều đó, người giáo viên
cần phối hợp một cách khéo léo và hợp lí các phương pháp dạy học khác nhau.
Đó là:
- Đàm thoại khi giảng bài.
- Đặt ra những câu hỏi gợi mở, gợi ý nhằm khuyến khích học sinh suy
nghĩ tích cực học tập.
- Thực hành ( trong lớp hoặc ngoài lớp)
- Thảo luận ( theo cặp, nhóm, lớp)
- Tổ chức hoạt động để học sinh tự tìm tòi, khám phá, tự phản ánh việc
học và tự đánh giá kết quả học tập của mình.
Trong xu thế dạy học hiện nay, giáo viên không còn là người truyền thụ
tri thức một chiều, học sinh thụ động tiếp thu và làm theo. Người giáo viên cần
căn cứ vào vốn sống, khả năng hiểu biết của học sinh để thiết kế các hoạt động
nhằm giúp học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề dưới sự trợ giúp của các
bạn trong nhóm, trong lớp hay của giáo viên. Giáo viên trở thành người thiết kế
người tổ chức hướng dẫn các hoạt động,…còn học sinh là người thi công,
người trực tiếp hoạt động để tìm tòi kiến thức.
Trong giảng dạy giáo viên cần biết lựa chọn các phương pháp dạy học
sao cho phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình. Xuất phát từ các ví dụ
hay các bài toán mẫu trong sách giáo khoa, giáo viên cần tổ chức cho học sinh
thảo luận để tìm ra cách giải quyết vấn đề mà bài toán đưa ra.
Trên cơ sở đó, giáo viên giúp các em biết tổng hợp để rút ra những nhận
xét, những quy tắc hay những kết luận cần thiết. Khi giảng dạy các kiến thức
mới, dạng toán mới, giáo viên cần chú ý các bước sau đây:
7


*Phương pháp chung: Tự phát hiện - Tự giải quyết - Tự chiếm lĩnh:
* Các bước cụ thể:

Bước 1: Làm nảy sinh nhu cầu nhận thức của học sinh (Làm xuất hiện
vấn đề và tạo cho học sinh có nhu cầu tìm hiểu vấn đề đó)
Bước 2: Tổ chức các hoạt động học tập (theo cá nhân, theo nhóm hay cả
lớp)
Bước 3: Hướng dẫn học sinh trình bày ý kiến trước nhóm, trước lớp.
Bước 4: Hướng dẫn học sinh nhận xét, đánh giá, bổ sung.
Bước 5: Giáo viên hệ thống, kết luận vấn đề, hướng dẫn học sinh trình
bày (giáo viên chốt lại các vấn đề quan trọng)
Bước 6: Tổ chức cho học sinh luyện tập, thực hành, rèn các kĩ năng.
* Lưu ý: Để triển khai các bước trên một cách hiệu quả, cần có sự trợ giúp của
các phương tiện và đồ dùng dạy học, do đó trong quá trình tổ chức các hoạt
động học tập của học sinh, giáo viên cần sử dụng các đồ dùng dạy học sao cho
phù hợp và mang tính hiệu quả cao. Phương pháp dạy học ở tiểu học phải phát
huy được tính tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, phù hợp với
đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh và điều kiện của lớp học. Giáo
viên cần chủ động lựa chọn, vận dụng phối kết hợp các phương pháp dạy học
tạo không khí học tập sôi nổi, tích cực để thu hút được mọi đối tượng học sinh
tham gia vào quá trình học tập. Tóm lại, để phát huy tính tích cực, chủ động
của học sinh qua việc dạy học toán lớp 3, tôi xin trình bày một số biện pháp cụ
thể dưới đây.
9. Biện pháp thực hiện:
9.1. Chuẩn bị trước khi lên lớp:
9.1.1. Nghiên cứu kĩ nội dung chương trình và bài dạy để xác định đúng
mục đích yêu cầu của tiết dạy:
- Cần nghiên cứu kĩ nội dung chương trình để có sự hệ thống xâu chuỗi kiến
thức. Xác lập được mối quan hệ giữa kiến thức mới và cũ để lựa chọn nội dung
dạy học cho phù hợp.
8



- Nắm vững mục tiêu của bài học, nghiên cứu kĩ nội dung của bài dạy để lựa
chọn phương pháp và hình thức dạy học cho phù hợp, hiệu quả.
9.1.2. Thiết kế, xây dựng giáo án để dạy phù hợp với từng đối tượng học
sinh:
Trong tiết dạy, giáo viên luôn chú ý đến từng đối tượng học sinh. Ngay từ
bước soạn giáo án, giáo viên đã phải chú ý đến lượng kiến thức, kĩ năng phù
hợp với các đối tượng học sinh trong lớp. Giáo án cần thiết kế dạy ở một lớp cụ
thể, ở một thời điểm cụ thể, phải dự kiến các câu hỏi, các tình huống và có yêu
cầu ở từng mức độ khác nhau cho học sinh trong từng bài tập.Trước tiên, giáo
viên phải xác định rõ mục tiêu của từng bài tập, hiểu ý đồ trong sách giáo khoa
để lựa chọn nội dung buộc 100% học sinh trong lớp phải thực hành để đảm bảo
đạt được yêu cầu cơ bản về kiến thức, kĩ năng của bài học theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng và chương trình hướng dẫn giảm tải mới ban hành. Không tự ý
cắt xén những nội dung bài tập cơ bản theo yêu cầu của sách giáo khoa. Các em
học sinh học nhanh, tốt phải đảm bảo hoàn thành được tất cả các bài tập theo
yêu cầu của tiết học. Sau đó giáo viên mới đưa ra những yêu cầu mang tính
chất khai thác sâu hoặc mở rộng kiến thức để các em được bộc lộ năng lực học
tập cá nhân của mình. Song cần bám sát những yêu cầu mục tiêu của tiết học.
Ví dụ: Bài "Ôn tập các bảng nhân":
Ở bài tập 2: Tính giá trị của biểu thức (tiết dạy minh hoạ): Sau khi khai thác
mẫu một cách hết sức tự nhiên, giáo viên yêu cầu học sinh như sau: “ Nhiệm vụ
của các em là sẽ làm phần a,b,c vào vở. Khi đã làm xong 3 phần trong bài trong
sách các em sẽ tự nghĩ ra các dãy tính tương tự và thực hành tính ”.
Với yêu cầu như vậy, giáo viên dự kiến các mức độ tuỳ theo khả năng của
học sinh để có kế hoạch nhận xét sửa chữa cho các em:
- Mức độ 1( HS chậm) cố gắng hoàn thành 3 phần a,b,c – SGK.
- Mức độ 2 ( HS tương đối nhanh): tự nghĩ thêm được một dãy tính.
- Mức độ 3 ( HS có năng khiếu): tự nghĩ thêm nhiều dãy tính.

9



9.2. Hiểu ý đồ của SGK để cung cấp và khai thác kiến thức phù hợp,
đúng với mục tiêu của từng bài, tích cực hoá hoạt động học tập của học
sinh thông qua các khâu:
9.2.1. Giúp học sinh tự phát hiện vấn đề:
Giáo viên giúp học sinh bằng gợi ý, bằng hướng dẫn để học sinh nhớ lại
kiến thức (hoặc để học sinh khác giúp bạn nhớ lại), không nên vội làm thay học
sinh. Chẳng hạn, trong tiết toán dạy minh hoạ : “ Ôn tập các bảng nhân”. Sau
khi học sinh hỏi đáp theo nhóm để hoàn thành bài tập 1a, giáo viên hỏi:
- Em có nhận xét gì về các phép tính trong từng cột ? ⇒ Học sinh tự phát
hiện và nêu: đều là các phép tính trong các bảng nhân 2, bảng nhân 3, bảng
nhân 4, bảng nhân 5 đã học.
- Giáo viên yêu cầu: Bạn nào nêu được bảng nhân 2: Học sinh nêu trước
lớp. ⇒ Học sinh khác nhận xét.
- Giáo viên yêu cầu học sinh cùng quan sát các tích của bảng nhân 2 và hỏi:
Em có nhận xét gì về các tích của bảng nhân 2? Học sinh phát hiện và nêu: các
tích là những số chẵn cách đều 2, ...
- Bảng nhân 5 rất dễ nhớ. Trò chơi dân gian nào ứng dụng bảng nhân 5?
( Trò chơi “ Bịt mắt trốn tìm”). Người đi tìm phải bịt mắt và nói như thế nào?
( 5; 10 ; 15,...)
Vậy bằng cách dẫn dắt khéo léo, giáo viên đã giúp học sinh tự phát hiện ra
vấn đề, học sinh sẽ hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức khi chính mình tìm tòi, khám
phá, xây dựng lên kiến thức đó. Đối với bảng nhân 2 hoặc nhân 5 nói trên đã
giúp học sinh nhớ kiến thức một cách hết sức tự nhiên qua “các mẹo” nhỏ rất
dễ nhớ.
9.2.2. Có hệ thống câu hỏi gợi mở giúp học sinh tự tìm tòi, nắm bắt và
củng cố kiến thức:
Ví dụ: Bài tập 4 ( tiết dạy minh hoạ): Ngoài việc củng cố cách tính chu
vi hình tam giác, giáo viên còn phải củng cố kiến thức về cách nhân nhẩm số

tròn trăm với một số (vừa hình thành ở bài tập 2). Vì vậy, sau khi học sinh trình
10


bày cách giải thông thường là:
Bài giải

A

Chu vi hình tam giác ABC là:

100 cm

100 cm

100 + 100 + 100 = 300 ( cm)
Đáp số: 300 cm

B

100cm

C

Giáo viên có thể đặt câu hỏi gợi mở để khai thác hết ý đồ của sách
giáo khoa:
- Ai có cách giải giống bạn?
- Vậy muốn tính chu vi hình tam giác ta làm thế nào?
- Ai có cách giải khác? ( 100 × 3 = 300 (cm))
- Tại sao bạn lại lấy 100 × 3? ( vì tam giác ABC có 3 cạnh bằng nhau)

- So sánh 2 cách giải, cách giải nào hay hơn?
* Giáo viên chốt: Ở cách thứ nhất, các em đã vận dụng thành thạo cách
tính chu vi của tam giác. Ở cách thứ hai, các em đã vận dụng linh hoạt cách
chuyển phép công các số hạng giống nhau thành phép nhân. Các em đã vận
dụng nhân nhẩm số tròn trăm với một số vào giải toán rất tốt.
9.2.3. Giúp học sinh tập khái quát được cách làm của dạng toán (theo
mức độ phù hợp), để tự chiếm lĩnh kiến thức mới.
Khi dạy tiết 78 – Toán 3: Tính giá trị của biểu thức: Qua 2 ví dụ trong
sách giáo khoa, giáo viên đặt câu hỏi để học sinh tự rút ra kết luận:
+ Khi tính giá trị của các biểu thức chỉ có các phép tính cộng, trừ ta thực
hiện các phép tính theo thứ tự nào?
+ Hỏi tương tự đối với các biểu thức chỉ có các phép tính nhân, chia ⇒
Học sinh tự rút ra kết luận như Sách giáo khoa trang 79.
9.2.4. Học sinh tự nêu ra ví dụ mới tương tự dạng bài đã học:
Chẳng hạn sau khi học sinh khái quát được cách tính giá trị biểu thức
trong 2 trường hợp: Chỉ có phép cộng và trừ (hoặc chỉ có phép nhân và
chia). Giáo viên yêu cầu học sinh tự nêu ví dụ về biểu thức dạng này rồi tính
11


giá trị của biểu thức đó. (Học sinh có thể thảo luận nhóm đôi để hỗ trợ và
đánh giá lẫn nhau ).
9.2.5 . Qua bài tập giúp học sinh tổng hợp và khắc sâu kiến thức:
Trong tiết dạy minh hoạ, bài tập 1a, sau khi học sinh hoàn thành các phép
tính trong từng cột; giáo viên yêu cầu học sinh:
- Nhìn vào cột 1, nêu các phép tính còn thiếu ở bảng nhân 3.
- Nhìn vào cột 3, đôi bạn hỏi đáp về các phép tính còn thiếu trong bảng
nhân 4.
Qua việc yêu cầu học sinh bổ sung các phép tính còn thiếu trong bảng
nhân 3, nhân 4, giáo viên đã giúp các em củng cố lại các bảng nhân đó một

cách có hiệu quả.
Bên cạnh đó chúng ta thấy: Thông thường, việc giáo viên hay làm là lấy
cái sai của học sinh để sửa, nhưng với những lớp tốt, phần đó học sinh không
sai và lại rất cần được khắc sâu kiến thức. Vậy người giáo viên nên làm thế
nào? Chẳng hạn, ở bài tập 3 (tiết dạy minh hoạ), để khắc sâu ý nghĩa của phép
nhân, giáo viên hỏi : Tại sao lại lấy 4 × 8 ? (Vì 4 được lấy lên 8 lần). Giáo viên
không nhất thiết phải đưa ra tình huống sai (8 × 4).
9.3. Phát huy tính tương tác trong học tập bằng cách yêu cầu tự học
sinh nêu câu hỏi, tạo ra sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học
sinh:
Tăng cường cho học sinh trao đổi ý kiến trong nhóm nhỏ. Khuyến khích
học sinh thảo luận, nhận xét, đánh giá về cách giải của bạn, tự rút kinh nghiệm
để hoàn chỉnh bài giải của mình.
Ví dụ 1: Trong tiết Toán: Ôn tập các bảng nhân: Giáo viên yêu cầu học
sinh tự hỏi đáp theo nhóm đôi để phân tích bài toán 3:
- Bài toán cho biết gì?
- Bài toán hỏi gì?
- Bạn tóm tắt bài toán này bằng lời hay bằng sơ đồ?
Ví dụ 2: Hay với bài tập “ Viết tiếp 2 số thích hợp vào chỗ chấm”:
12


14; 21; 28;....;......
Học sinh chỉ cần điền được: 14; 21; 28; 35; 42 còn phần nhận xét và nêu
quy luật của dãy số thường không thể hiện được trong vở. Khi đó, giáo viên
nên cho học sinh trao đổi nhóm đôi về cách làm của mình. Chẳng hạn, có học
sinh chỉ ghi nhớ các tích trong bảng nhân 7 (7; 14; 21; 28; 35; 42; 49; 56; 63;
70 ) rồi viết tiếp 2 số còn thiếu vào chỗ chấm nhưng học sinh khác có thể lại
nêu nhận xét: “Trong dãy số 14; 21; 28; ...;” kể từ số thứ 2, mỗi số đều bằng
số đứng liền trước nó cộng với 7". Cách thứ hai có tính ứng dụng rộng rãi

hơn, khái quát hơn (có thể áp dụng cho các dãy số tương tự). Các em sẽ hoan
nghênh cách 2 nhiều hơn và từ đó tự đánh giá được trình độ của mình so với
bạn để tự rèn luyện, điều chỉnh. Thông qua trao đổi sẽ đọng lại ở học sinh
phương pháp học tập chủ động, sáng tạo và tạo cho các em hứng thú học Toán.
Bên cạnh đó, giáo viên cần khuyến khích học sinh tự đặt câu hỏi với giáo
viên. Chẳng hạn, khi dạy bài: "Phép chia hết, phép chia có dư", giáo viên đã
giúp học sinh nhận ra đặc điểm: "Số dư bé hơn số chia". Khi đó, giáo viên
khuyến khích học sinh tự nêu câu hỏi để hỏi cô. Giáo viên có thể định hướng
cho học sinh như sau: Các em hãy mạnh dạn dưa ra câu hỏi để hỏi cô về mối
quan hệ giữa số dư, số chia và thương.
Học sinh có thể đưa ra câu hỏi như sau:
- Nếu số dư bằng số chia thì sao ạ?
- Nếu số dư lớn hơn số chia thì sao ạ?
- Thưa cô có khi nào thương bằng số dư không ?
Sau khi giải thích những thắc mắc của học sinh, giáo viên chốt: Kết quả của
mỗi phép chia phải xác định và chỉ có một, không thể là các giá trị khác nhau.
9.4. Phát triển tư duy toán học cho học sinh
9.4.1. Khai thác thêm khía cạnh của nội dung cơ bản nhằm khắc sâu
kiến thức, lật đi lật lại vấn đề ( nhưng đảm bảo mức phù hợp với trình độ tiếp
thu của học sinh). Tập cho học sinh thói quen tìm nhiều phương án để giải

13


quyết vấn đề, không thoả mãn với kết quả đạt được (Biện pháp này được sử
dụng nhiều trong những tiết luyện tập, thực hành và các tiết Toán*).
Ví dụ 1: Khi học tiết 51: Giải bài toán bằng 2 phép tính ( tiếp theo) vào
tiết Toán tăng ( Luyện tập về phần này); giáo viên có thể đưa ra tình huống có
vấn đề như sau:
“ Nhà Tân có 17 con gà trống. Số gà mái gấp 3 lần số gà trống. Hỏi

nhà Tân có tất cả bao nhiêu con gà?”.
*Toàn giải bài toán như sau:
Tóm tắt:
17 con

Gà trống:

? con

Gà mái:
Bài giải
Số con gà mái là:
17 × 3 = 51 ( con)
Số con gà nhà Tân là:
17 + 51 = 68 ( con)
Đáp số : 68 con gà
*Dũng cũng tóm tắt như trên và giải bài toán như sau:
Bài giải
Số gà nhà Tân gấp số gà trống số lần là:
1 + 3 = 4 ( lần)
Số gà nhà Tân là:
17 × 4 = 68 ( con)
Đáp số: 68 con gà
Em thấy bạn nào giải đúng?

14


Cả lớp suy nghĩ trước vấn đề mà giáo viên đưa ra. Tất cả các em đều
phát hiện ngay được ở cách giải thích thứ nhất (bạn Toàn) là cách giải mà các

em vừa được học (bài toán trang 51 – SGK toán 3). Qua đó, giáo viên giúp học
sinh yếu củng cố lại dạng toán này.
Đối với học sinh học tốt các em tiếp tục suy nghĩ về cách giải thứ 2 để
phát hiện ra bạn Dũng cũng có cách giải đúng.
Trên cơ sở đó giáo viên yêu cầu học sinh:
- So sánh 2 cách giải.
- Tại sao ở cách giải thứ 2 ta lại tính được số gà nhà Tâm gấp mấy lần số
gà trống? (Dựa vào tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng)
Với cách làm như vậy, giáo viên buộc học sinh phải động não, vừa khắc
sâu được kiến thức cơ bản cho học sinh chậm, vừa hướng dẫn học sinh có năng
khiếu “khai thác” những kiến thức “ẩn” trong đó. Việc làm này, không gây
“quá tải” cho học sinh chậm, giáo viên không phải cho thêm bài mà vẫn quan
tâm tới đối tượng học sinh có năng khiếu trong lớp. Bên cạnh đó, giáo viên còn
giúp học sinh lớp 3 làm quen với phương pháp giải toán dùng sơ đồ đoạn
thẳng, tạo điều kiện cho học sinh phát triển khả năng phân tích, tổng hợp làm
tiền đề vững chắc cho giai đoạn học tốt Toán lớp 4, 5.
Ví dụ 2: Để khai thác thêm tác dụng của dấu ngoặc đơn, trong tiết Toán*
luyện tập về phần này, giáo viên nên cho học sinh nhận xét cách tính các biểu thức
bằng cách thay đổi vị trí của dấu ngoặc, rồi so sánh với kết quả đã tìm được:
( 77 + 35) + 28 × 2
77 + 35 + ( 28 × 2)

Học sinh chậm chỉ cần làm được yêu cầu này.

( 77 + 35 + 28) × 2
Từ đó cho học sinh học tốt làm các bài tập dạng:
+ Thêm dấu ngoặc đơn vào biểu thức 3 + 8 × 4 – 2 để được biểu thức
mới có giá trị bằng 22.
+ Hãy đặt dấu ngoặc đơn vào biểu thức 4 × 6 + 36 : 3 để được biểu thức
mới có giá trị bằng:


a) 56

b) 72
15


+ Với 5 chữ số 2, hãy lập các số, dùng dấu ngoặc đơn, dấu các phép tính
cần điền vào giữa chúng để được một biểu thức có giá trị bằng 888.
Như vậy ngoài việc giúp học sinh cả lớp nắm được kiến thức kĩ năng cơ
bản của bài học (học sinh cả lớp được ôn lại và thực hành tính giá trị biểu thức
có dấu ngoặc đơn phần đầu), giáo viên còn giúp cho các em bộc lộ được năng
lực cá nhân. Học sinh có khả năng tiếp thu chưa nhanh thì không bị gây áp lực
quá tải, còn những học sinh tiếp thu nhanh thì có cơ hội được phát triển khả
năng học tập của mình, tạo không khí học tập sôi nổi, tích cực hiệu quả và nhẹ
nhàng. Giáo viên có điều kiện phụ đạo học sinh chậm và bồi dưỡng học sinh có
năng lực học tập ngay trong những buổi học chính khoá.
9.4.2. Khai thác nội dung không xuôi chiều:
Việc khai thác nội dung không xuôi chiều có tác dụng rất lớn trong việc
phát triển tư duy toán cho học sinh. Trở lại tiết dạy minh hoạ ở bài tập 2, sau
khi đã thực hành nhân nhẩm số tròn trăm với một số rất tốt, giáo viên tiếp tục
khai thác bài toán như sau:
- Bạn nào có thể cho cô biết 300 nhân mấy bằng 900? :
300 × .... = 900
- 600 là kết quả của 3 nhân với số tròn trăm nào?
600 = 3 × ....
*Lưu ý: Phải tuỳ thuộc vào trình độ học sinh của từng lớp, không quá sa
đà vào phần này, nếu phần kiến thức cơ bản của các em chưa vững.
9.4.3. Lấy phản ví dụ để củng cố kiến thức: Với học sinh lớp 3, tư duy
tổng hợp của các em còn hạn chế, các em chỉ nhìn sự vật hiện tượng ở vẻ bề

ngoài, vẻ na ná giống là đã vội vàng kết luận. Chính vì vậy các em hay mắc lỗi
sai như nhau và rất khó sửa. Để củng cố kiến thức, đôi khi người giáo viên cần
lấy những phản ví dụ. Chẳng hạn, để hình thành chắc chắn biểu tượng đường
kính của hình tròn, sau bài học “ Hình tròn, tâm, đường kính, bán kính”, giáo
viên yêu cầu học sinh thi điền đúng, sai trong bài tập nhỏ sau:

16


M

O

N

B

A

P

O

O

Q

a) MN là đường kính của b) AB là đường kính của c) PQ là đường kính của
hình tròn tâm O
Đáp án: a: sai;


hình tròn tâm O
b: sai;

hình tròn tâm O
c: đúng

Với bài tập trên, giáo viên đã đưa ra hai phản ví dụ (a, b). Cuối cùng giáo
viên đưa ra phương án c là đáp án đúng. Bằng cách làm đó, giáo viên đã giúp
học sinh không mắc những lỗi mà các em rất hay nhầm, đồng thời khắc sâu
kiến thức về đường kính hình tròn cho học sinh.
9.5. Đổi mới cách đánh giá:
Ngoài cách đánh giá thông thường là giáo viên đánh giá học sinh, cần tổ
chức để:
9.5.1. Học sinh tự đánh giá lẫn nhau.
Dưới sự kiểm soát của giáo viên, ở bài tập 3 (tiết dạy minh hoạ), giáo
viên cho học sinh đổi chéo bài để đánh giá lẫn nhau.
9.5.2. Học sinh tự đánh giá mình:
Ở bài tập 3, sau khi cô đưa ra đáp án đúng, giáo viên yêu cầu: Bây giờ cô
muốn các bạn tự đánh giá. Nếu em đánh giá bài của em thì đạt được ở mức
nào? (Hoàn thành tốt; Hoàn thành; Cần cố gắng)
Trong quá trình đánh giá, giáo viên phải luôn chú ý rèn kĩ năng trình bày
cho học sinh. Đây là một việc làm không thể thiếu và rất cần thiết đối với học
sinh Tiểu học. Tiết dạy minh hoạ đã thể hiện rất rõ điều này:
- Giáo viên cho học sinh đọc phần bài giải của mình ( bài 3). Khi học sinh
nêu những lời giải khác nhau, giáo viên đã hỏi:"Lời giải nào hay hơn?". Từ đó
giáo viên yêu cầu học sinh không những có lời giải đúng mà còn phải hay.
- Cũng với phương châm như vậy, khi học sinh tự đánh giá bài của mình
17



đạt Hoàn thành tốt, giáo viên hỏi: "Tiêu chuẩn của bài đạt Hoàn thành tốt như
thế nào?". (Giải đúng, trình bày sạch đẹp).
Với những việc làm tuy nhỏ nhưng giáo viên đã góp phần tích cực rèn kĩ
năng trình bày đúng, đẹp, khoa học cho học sinh.
9.6. Sử dụng một số "mẹo" tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học
Toán ở lớp 3.
Việc tạo hứng thú để học sinh thích học Toán, gợi sự tò mò, ham hiểu
biết, muốn nắm được cái mới mà giờ học toán đem lại cũng rất cần thiết. Ở đây
tôi xin trình bày 4 “ mẹo” nhỏ có thể sử dụng trong giờ dạy toán.
9.6.1. Vào đề khi giảng bài mới:
Vấn đề giáo viên đưa ra phải hấp dẫn, thường là các tình huống có vấn
đề để kích thích trí tò mò, tính ham hiểu biết, ưa hoạt động của học sinh, để các
em hào hứng tham gia vào hoạt động học tập.
Ví dụ: Khi dạy tiết 105: “ Tháng - Năm” giáo viên có thể dẫn dắt học
sinh như sau:
- Mỗi năm chúng ta được mấy lần tổ chức kỉ niệm ngày sinh (sinh nhật)
của mình? ( Một lần)
Sau đó giáo viên hỏi học sinh về số lần sinh nhật mà em đã trải qua
(7 - 8 lần)
Các em ạ, thế mà chú Nam đã 32 tuổi nhưng chú chỉ qua 8 lần sinh nhật
như một số bạn trong lớp mình thôi. Tại sao vậy? Các em có muốn biết ngày
sinh kì diệu của chú Nam không? Để biết được điều kì lạ đó, các em sẽ cùng
tìm hiểu bài học “ Tháng – Năm”...
9.6.2. Xen những câu đố vui liên quan đến nội dung: Trong quá trình
tiến hành giờ lên lớp ở những nội dung thích hợp, giáo viên có thể xen những
câu đố vui, chẳng hạn:
Câu đố 1: Khi dạy bài “ Thực hành xem đồng hồ ” – Toán 3 trang 123,
giáo viên có thể xen câu đố vui sau: “ Trong một ngày, các kim đồng hồ có
mấy lần trùng nhau hoàn toàn? ”

18


(Đáp án bất ngờ: Độ dài của chúng khác nhau nên không thể trùng
nhau hoàn toàn )
Câu đố 2: Khi dạy bài : “Tiền Việt Nam” - Giáo viên có thể đố học
sinh: “Lan đi mua đồ, cô bé chỉ mang theo 2 loại tiền, 5 nghìn và 10 nghìn,
nhưng đã mua đồ hết 75 nghìn, cô bé đã đưa hết số tiền mang đi rồi vui vẻ
mang đồ về nhà.
Tại sao vậy? Cô bé đã “vượt qua giá trị của đồ vật chăng?” .
( Đáp án: Không, cô bé đã mang đi hai loại tiền và tổng cộng hai loại
tiền đó là 75 nghìn đồng).
Câu đố 3: Trước mặt hai con trâu có một con trâu. Phía sau hai con trâu
cũng có một con trâu. Ở giữa hai trâu cũng có một con trâu. Hỏi tất cả có bao
nhiêu con trâu?
( Đáp án: 3 con)
Câu đố 4: Năm người che một cái ô: “ Một hôm, năm người chen chúc
trong một cái ô đi qua đường, nhưng không ai bị ướt. Tại sao vậy? ”
( Đáp án bất ngờ: Vì trời không mưa)
Nội dung các câu đố vui dạng như câu 3, 4, giáo viên có thể xen vào đó
khi tiết học đang căng thẳng để thay đổi không khí lớp học. Chỉ cần 1 đến 2
phút các em đã được thư giãn và phấn khởi tự giác tiếp thu những kiến thức
tiếp theo. Giờ học trở nên nhẹ nhàng, bổ ích và lý thú biết bao!
9.6.3. Kể những mẩu chuyện toán học hấp dẫn:
Từ những mẩu chuyện nhỏ sẽ làm tăng thêm hứng thú cho học sinh tránh
được những giờ học toán khô khan, đồng thời gây được không khí phấn khởi
trong việc tiếp thu kiến thức mới, khó.
Ví dụ: Trong tiết Toán *: “ Luyện tập về tính giá trị biểu thức”; trước
khi yêu cầu học sinh làm bài tập sau:
Tính tổng sau đây bằng cách hợp lý nhất:

1 + 2 + 3 + 4 + 5 + 6 + 7 + 8 + 9 + 10.
Giáo viên kể câu chuyện vui về nhà toán học Gau- xơ khi còn là một cậu
bé, chỉ trong ít phút đã tính được tổng của các số tự nhiên liên tiếp từ 1 đến 100
19


×