KIỂM ĐỊNH TÍNH HIỆU QUẢ CỦA
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Giới thiệu:
Mục tiêu của chương này là kiểm định thị trường chứng khoán Việt Nam dựa vào lý
thuyết và mô hình thị trường hiệu quả đã được xem xét ở chương 1. Các mô hình được kiểm
định sẽ đánh giá mức độ hiệu quả của TTCK Việt Nam ở thể yếu và thể trung bình (mục 2.2).
Nhưng trước hết chuyên đề sẽ xem xét thị trường chứng khoán Việt Nam một cách tổng thể về
tình hình hoạt động, về diễn biến phát triển qua gần năm hoạt động (mục 2.1).
2.1. Khái quát thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam
2.1.1. Những vấn đề chung về thị trường chứng khoán
2.1.1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán
Hiện nay tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng khoán,
tuy nhiên quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của
TTCK hiện nay, đó là:
“Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi
các loại chứng khoán”.
Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó
cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát
hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại
chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Các giao dịch mua bán, trao
đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp (Primary Market) hay thị
trường thứ cấp (Secondary Market), tại Sở giao dịch (Stock Exchange) hay thị
trường chứng khoán phi tập trung (Over - The Counter Market), ở thị trường
giao ngay (Spot Market) hay thị trường có kỳ hạn (Future Market). Các quan hệ
mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy,
thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu
sang tư bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hoá thông
thường khác vì hàng hoá của thị trường chứng khoán là một loại hàng hoá đặc
biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử
dụng. Như vậy, có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường
thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của
chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị
trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu
thông hàng hoá.
Các loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán cũng rất đa dạng: cổ
phiếu, trái phiếu (trái phiếu công ty và trái phiếu Chính Phủ), các loại chứng
khoán phái sinh.
2.1.1.2. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán được tổ chức và hoạt động tuân theo các nguyên
tắc căn bản, nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thành đạt của thị
trường nếu tuân thủ những nguyên tắc này.
(1) Nguyên tắc trung gian
Thị trường chứng khoán không phải trực tiếp do những người mua hay
bán chứng khoán thực hiện, mà được thông qua các trung gian môi giới. Đây là
nguyên tắc trung gian căn bản cho việc tổ chức và hoạt động của thị trường
chứng khoán. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao
dịch là chứng khoán thực, và thị trường chứng khoán hoạt động được lành
mạnh, hợp pháp và ngày càng phát triển, bảo vệ được lợi ích của các nhà đầu tư.
Bởi lẽ, trong số các nhà đầu tư chứng khoán không phải ai cũng hiểu biết và
nhận thức được hết tính chất phức tạp của chứng khoán cũng như xu hướng biến
động trong tương lai của các loại chứng khoán. Chính vì vậy, nếu không có
những người môi giới chứng khoán có kỹ năng phân tích chứng khoán dựa trên
những căn cứ xác đáng một cách kỹ lưỡng, thì người đầu tư có thể bị lừa gạt.
Nguyên tắc trung gian trong giao dịch chứng khoán được thể hiện thông
qua các nhà môi giới và các thương gia chứng khoán.
+ Đối với những nhà môi giới trung gian họ được hưởng hoa hồng trên cơ
sở môi giới giao dịch cho các khách hàng. Các khách hàng có thể được sử dụng
hoàn toàn các dịch vụ từ nhà môi giới (môi giới trọn gói), trên cơ sở các nhà
môi giới cung cấp đầy đủ các dịch vụ có liên quan đến chứng khoán cho khách
hàng, như đại diện cho khách hàng để thương lượng mua bán chứng khoán, thay
mặt cho khách hàng giải quyết mọi vấn đề liên quan đến chứng khoán, nhận chi
trả cổ tức cho khách hàng, và có thể đáp ứng vốn cho khách hàng trong các
nghiệp vụ mua trước bán sau (giao dịch bảo chứng), hoặc liên quan đến vấn đề
tư vấn, lựa chọn đầu tư vào các loại chứng khoán. Ngoài ra, các trung gian môi
giới cũng có thể chỉ nhận môi giới một phần dịch vụ mà các nhà đầu tư yêu
cầu, như việc chỉ định làm trung gian cho mua bán một loại chứng khoán nào đó
mà thôi.
+ Đối với các thương gia chứng khoán, đó là những trung gian giao dịch
trên thị trường, nhưng không phải môi giới cho các khách hàng mà cho chính
bản thân họ, chính bằng nguồn vốn đầu tư của họ để hưởng mức chênh lệch giá
trong quá trình kinh doanh. Quá trình giao dịch cho bản thân các thương gia
chứng khoán với mục tiêu theo đuổi lợi nhuận nên thường gây ra các hiện tượng
đầu cơ, thao túng, làm sai lệch giá cả, gây ra biến động giá chứng khoán, thậm
chí làm sụp đổ cả thị trường chứng khoán. Tuy nhiên các thương gia chứng
khoán vừa là các nhà giao dịch tự doanh vừa là các nhà tạo lập thị trường. Khi
cung chứng khoán lớn hơn cầu, giá hạ, họ sẽ là người mua vào, ngược lại khi
cầu chứng khoán lớn hơn cung họ sẽ là người bán ra nhằm mục đích bảo đảm
thị trường được vận hành liên tục và không bị gián đoạn. Do vậy, trong cơ cấu
của thị trường chứng khoán không thể không có các thương gia chứng khoán
đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường.
Các trung gian thị trường, bao gồm các nhà môi giới và các thương gia
chứng khoán đều là những người có kiến thức sâu rộng về chứng khoán, đã
được kiểm tra, sát hạch trước khi được Uỷ ban chứng khoán cấp giấy phép hành
nghề kinh doanh chứng khoán. Bản thân họ, là những người có khả năng phân
tích tình hình tài chính và nhận định xu hướng của nền kinh tế. Dù là người môi
giới trung gian hưởng hoa hồng nhưng bản thân họ cũng phải chủ động trong
thương lượng mua bán các chứng khoán. Người môi giới phải thay thế thân chủ
của mình cam kết mua bán với giá có lợi nhất cho khách hàng, chính vì vậy bản
thân họ cũng phải có mối quan hệ rộng rãi đối với các nhà môi giới khác trên
tinh thần bình đẳng, trung thực, khách quan và có tư chất đạo đức nghề nghiệp.
Mọi cam kết, cho dù là lời nói đều phải có nghĩa vụ thi hành, không được tháo
lui khi thấy hiệu quả mang lại cho mình bị thua thiệt. Ngoài ra, bản thân nhà
môi giới cũng phải có khả năng tài chính nhất định, để đảm bảo sự tin tưởng
cho khách hàng và tiền ký quỹ cho sở giao dịch khi họ bắt đầu tham gia thị
trường.
(2) Nguyên tắc công khai, minh bạch
Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều phải tuân thủ theo
nguyên tắc công bằng, công khai và minh bạch. Các thông tin về chứng khoán
được giao dịch, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty có chứng
khoán niêm yết, cũng như số lượng, giá cả chứng khoán đều được thông báo
một cách công khai trên phương tiện thông tin đại chúng. Bản thân các công ty
có chứng khoán niêm yết phải có nghĩa vụ công bố thông tin định kỳ, tức thời
và theo yêu cầu một cách trung thực và đầy đủ cho các nhà đầu tư. Ngoài ra,
các tổ chức phát hành có nghĩa vụ nộp các báo cáo tài chính, báo cáo hoạt động
kinh doanh và các báo cáo khác có xác nhận của kiểm toán cho Sở giao dịch và
Uỷ ban chứng khoán. Trong trường hợp xảy ra sự cố, các tổ chức phát hành
phải báo đột xuất lên Sở giao dịch và Uỷ ban chứng khoán để tạm ngừng giao
dịch loại chứng khoán đó. Đối với các công ty cung ứng thông tin (dịch vụ
thông tin), cũng phải chịu trách nhiệm về những thông tin đã công bố, nếu thông
tin sai sự thật mà làm thiệt hại đến nhà đầu tư, thì công ty đó phải chịu trách
nhiệm bồi hoàn những thiệt hại do mình gây ra, và phải chịu trách nhiệm trước
Uỷ ban giám sát thị trường.
Các giao dịch trên thị trường đều sử dụng các thông tin được công bố
chính thức tại sở giao dịch hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Việc sử dụng các thông tin nội bộ hoặc các thông tin chưa được phép công bố
chính thức vào giao dịch chứng khoán là hành vi giao dịch nội gián. Đây là một
hoạt động bị cấm hoàn toàn.
(3) Nguyên tắc định giá mua bán chứng khoán
Trên cơ sở quan hệ cung cầu về mua bán chứng khoán và các thông tin
về chứng khoán cũng như kết quả phân tích các chứng khoán, nhà môi giới có
trách nhiệm xác định ra mức giá chứng khoán theo nguyên tắc định giá chứng
khoán. Giá chứng khoán được hình thành thông qua hệ thống đấu giá hoặc đấu
lệnh giữa các nhà môi giới. Khi giá cả chứng khoán được xác định thì các nhà
đầu tư có nghĩa vụ thực hiện theo mức giá đó. Chính vì vậy, mà người ta nói
rằng thị trường chứng khoán là một thị trường tự do và cởi mở nhất trong các
loại hình thị trường.
Việc đấu giá trên sàn giao dịch có thể được tiến hành dưới ba
hình thức:
Một là đấu giá trực tiếp, có nghĩa là các nhà môi giới trực tiếp gặp nhau
để thương lượng giá cả thông qua một chuyên viên kinh doanh chứng khoán của
Sở giao dịch chứng khoán. Đây là cách đấu giá cổ điển có từ ngày đầu hình
thành các Sở giao dịch chứng khoán của các nước tư bản phát triển.
Hai là đấu giá gián tiếp, có nghĩa là các nhà môi giới không cần gặp nhau
mà chỉ cần phát lệnh với giá cao nhất có thể mua và giá thấp nhất có thể bán cho
mỗi loại chứng khoán trong ngày. Các lệnh này được đưa vào máy vi tính đã
được nối mạng với các thành viên của sở giao dịch. Mọi việc đàm phán thương
lượng chỉ là sự khớp giá giữa các công ty môi giới với nhau. Các hình thức đấu
giá này đang được áp dụng ở hầu hết các sở giao dịch của các nước phát triển và
tại các thị trường chứng khoán mới nổi.
Ba là đấu giá tự động, là hình thức đấu giá qua hệ thống nối mạng giữa
máy chủ của sở giao dịch và máy của các công ty thành viên. Máy chủ của sở
giao dịch là nơi đấu giá trung tâm, nó tự điều chỉnh các lệnh mua bán sao cho
cung cầu phù hợp nhau. Giá mua bán được quyết định tại máy chủ này. Hầu hết
các sở giao dịch của các thị trường chứng khoán mới nổi đều áp dụng phương
thức đấu giá tự động này.
2.1.1.3. Thông tin trong phân tích chứng khoán
Hệ thống thông tin trong thị trường chứng khoán nói chung trong phân
tích chứng khoán nói riêng là những chỉ tiêu, tư liệu phản ánh bức tranh của thị
trường chứng khoán và tình hình kinh tế chính trị, xã hội liên quan tại những
thời điểm hoặc thời kỳ khác nhau.
Hệ thống thông tin thị trường chứng khoán rất đa dạng và phong phú,
được phân tổ theo nhiều nhóm tiêu chí khác nhau:
- Phân tổ theo loại chứng khoán: Thông tin về cổ phiếu, trái phiếu, chứng
chỉ quỹ đầu tư, công cụ phái sinh…
- Phân tổ theo phạm vi bao quát: Thông tin đơn lẻ từng chứng khoán,
nhóm chứng khoán, thông tin ngành, nhóm ngành, thông tin của từng
quốc gia hay nhiều quốc gia.
- Phân tổ theo thời gian: Thông tin quá khứ, hiện tại, tương lai; thông tin
theo thời gian cập nhật từng phút, giây; thông tin tổng hợp theo ngày,
tháng, quý, năm.
- Phân tổ theo nguồn thông tin: Thông tin trong nước và quốc tế; thông
tin của các tổ chức tham gia thị trường; thông tin từ nhà cung cấp dịch
vụ tư vấn; thông tin từ báo chí.
Thông tin thường có được từ các nguồn thông tin cơ bản sau:
(1) Thông tin về tổ chức niêm yết
Tổ chức niêm yết phải thực hiện công bố thông tin theo quy chế giao dịch
và công bố thông tin theo pháp luật hiện hành. Các thông tin cần công bố công
khai bao gồm:
- Bản cáo bạch: Là tài liệu công ty niêm yết chuẩn bị xin phép phát hành
chứng khoán trong dịp phát hành; đối với công ty đã phát hành và đã
xin đăng ký niêm yết sau đó thì cũng phải chuẩn bị tài liệu giới thiệu
tóm tắt về công ty, như báo cáo kết quả kinh doanh trong 2 năm gần
nhất (đối với Việt Nam), báo cáo tổng kết tài sản, báo cáo thu nhập và
thu chi tiền mặt; ban giám đốc, hội đồng quản trị và có chi tiết từng
người, các cổ đông của công ty…
- Thông tin định kỳ: Công ty niêm yết buộc phải công bố công khai các
thông tin định kỳ theo quý, nửa năm và năm bao gồm:
+ Bảng cân đối kế toán
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
+ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
+ Thuyết minh báo cáo tài chính.
- Thông tin bất thường: Mỗi khi xuất hiện thông tin đột xuất và nếu công
bố ra sẽ ảnh hưởng đến giá chứng khoán của công ty đó thì công ty
niêm yết phải công bố ngay lập tức trong vòng 24 giờ. Hình thức công
bố thông tin này yêu cầu công ty niêm yết ngay khi điều kiện cho phép,
nhưng không muộn quá giờ kể từ khi sự kiện xảy ra, ví dụ: Ký được
hợp đồng lớn, tài sản của công ty bị phong tỏa…
- Thông tin theo yêu cầu: Đây là các thông tin mà các đơn vị quản lý
chức năng có thẩm quyền như: Uỷ ban chứng khoán nhà nước, sở giao
dịch chứng khoán, cơ quan thống kê, cơ quan công an, pháp luật… yêu
cầu cung cấp .Thông thường các thông tin này không công bố công
khai.
(2) Thông tin về tổ chức kinh doanh
Ngoài các loại thông tin trong bảng quyết toán quý, nửa năm, năm, đơn vị
kinh doanh chứng khoán như công ty chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán cần
có báo cáo về: Số tài khoản được mở; các giao dịch lô lớn (block trader), tình
hình mua bán ký quỹ chứng khoán… Nếu do nhu cầu quản lý thì cơ quan quản
lý như trung tâm giao dịch chứng khoán, ủy ban chứng khoán nhà nước có thể
yêu cầu các đơn vị này báo cáo chi tiết hơn ở một số ngày giao dịch, hoặc tình
hình giao dịch, số dư tài khoản chứng khoán của một số khách hàng.
(3) Thông tin về quản lý
Thông tin này thường được các cơ quan quản lý thị trường cung cấp, nội
dung bao gồm các thông tin về cơ quan quản lý, cấu trúc tổ chức, chức năng
nhiệm vụ và phối hợp công tác, các văn bản pháp quy.
(4) Thông tin thị trường
Thông tin thị trường do sở giao dịch chứng khoán cung cấp bao gồm
thông tin về các loại chứng khoán, thông tin về giao dịch chứng khoán, thông
tin về quản lý giao dịch và quy chế, nguyên tắc giao dịch chứng khoán. Thông
tin này thường xuyên được cập nhật và công bố trên tờ thông tin chứng khoán,
các phương tiện thông tin đại chúng. Dưới đây là một số thông tin thị trường
quan trọng.
- Chỉ số giá cổ phiếu:
Chỉ số giá cổ phiếu là thông tin thể hiện giá chứng khoán bình quân hiện
tại so với giá bình quân thời kỳ gốc đã chọn.
Chỉ số giá cổ phiếu thường được coi là phong vũ biểu thể hiện tình hình
thị trường chứng khoán. Đây là thông tin rất quan trọng đối với hoạt động của
thị trường, đối với nhà đầu tư và đánh giá kinh tế. Tất cả các thị trường chứng
khoán đều xây dựng hệ thống chỉ số giá cổ phiếu cho riêng mình.
- Thông tin thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu được phân tổ theo đơn vị phát hành và theo thời
gian đáo hạn ví dụ đáo hạn: ít hơn 6 tháng, từ 6 tháng đến 1 năm, từ 1 năm đến
3 năm, từ 3 năm đến 5 năm, hơn 5 năm. Thông tin cũng được tính cho từng loại
trái phiếu.
Chỉ số giá trái phiếu là chỉ số so sánh mức giá trái phiếu tại thời điểm so
sánh với mức giá thời điểm gốc đã chọn. Thực chất chỉ số này phản ánh sự biến
động của mức lãi suất (nếu là một loại trái phiếu).
Chỉ số giá trái phiếu bao gồm trong nó cả lãi suất, tăng giá trái phiếu và
lãi suất do tái đầu tư sản xuất.
- Thông tin về tỷ lệ cổ phiếu được giao dịch: Là tỷ lệ giữa khối lượng cổ
phiếu được giao dịch trong kỳ và số lượng cổ phiếu niêm yết bình
quân trong kỳ, trong đó số lượng cổ phiếu niêm yết bình quân trong kỳ
bằng tổng số lượng cổ phiếu niêm yết bình quân ((số đầu kỳ +số cuối
kỳ)/2).
- Thông tin về tỷ lệ giá trị giao dịch so với giá trị vốn hóa thị trường: Là tỷ
lệ giữa giá trị giao dịch với mức vốn hóa thị trường. Trong đó mức vốn
hóa thị trường được tính bằng tổng cổ phiếu niêm yết nhân với thị giá
hiện hành.
- Thông tin về độ sâu của thị trường: Là chỉ tiêu phản ánh khối lượng giao
dịch lẽ ra có thể xảy ra thêm nếu giá thay đổi 1 bậc so với giá đã thực
hiện, thì số phiếu giao dịch sẽ tăng thêm 45%. Thị trường càng sâu thì
chi phí giao dịch càng giảm.
- Thông tin về độ rộng của thị trường: Là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ phần
trăm số lượng giao dịch lẽ ra có thêm nếu giá cả thay đổi trong vòng 1
bậc. Thị trường càng rộng thì tính ổn định càng cao.
- Thông tin về tỷ lệ lệnh được khớp: Là chỉ tiêu phản ánh quan hệ giữa số
lệnh được khớp và số lệnh đăng ký bình quân, trong đó số lệnh đăng ký