Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

THỰC TRẠNG VỀ QUAN HỆ KINH TẾ, THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.71 KB, 31 trang )

THỰC TRẠNG VỀ QUAN HỆ KINH TẾ, THƯƠNG MẠI VIỆT NAM –
TRUNG QUỐC
Là hai nước láng giềng gần gũi về nhiều mặt, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam
và Trung Quốc trước hết là quan hệ thương mại, là một trong những nền tảng
quan trọng để xây dựng và thúc đẩy các mối quan hệ khác.
Trong lịch sử hai nước từng có mối quan hệ buôn bán chặt chẽ nhưng đã bị
gián đoạn trong một thời gian. Các quan hệ kinh tế hiện nay được khôi phục vào
cuối những năm 1980, và từ đó đã không ngừng phát triển cả chiều rộng lẫn
chiều sâu, theo hướng từng bước tăng cường tính phụ thuộc lẫn nhau, xuất phát
từ lợi ích kinh tế chung của cả hai nước.
Năm 1992 là bước ngoặt trong quan hệ buôn bán và hợp tác giữa hai nước
khi hiệp định Thương Mại được ký kết giữa hai chính phủ. Tiếp sau hiệp định
Thương Mại, một số Hiệp định quan trọng khác về hợp tác và thương mại giữa
hai nước cũng được ký như hiệp định về vận tải, Hiệp định thanh toán giữa hai
nước, hiệp định về việc đi lại của công dân hai nước…
2.1 THỰC TRẠNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI TRUNG QUỐC NĂM 2003
1
Trước hết, phân tích tình hình kinh tế Trung quốc thời gian qua, đặc biệt
là năm 2003 cho thấy sự tăng trưởng nhanh chóng trong thương mại, theo
thống kê quý I năm 2003 của Bộ thương mại, tốc độ tăng trưởng của kinh tế
Trung Quốc đạt 9,9%, tỷ lệ cao nhất từ năm 1997 trở lại đây, sang quý II do ảnh
hưởng của dịch SARS, nên tốc độ tămg trưởng chỉ đạt 6,7 %. Với nỗ lực chung
của cả nước, sang quý III, tốc độ tăng trưởng đạt 9,1% , so với quý II tăng 2,4
điểm. GDP Trung Quốc năm 2003 có khả năng vượt con số 11.000 tỷ NDT, có
thể đạt mức tăng trưởng 8,5%; quốc lực tổng hợp của Trung Quốc được nâng
lên một tầm cao mới. Điểm lại tình hình kinh tế Trung Quốc trong cả năm 2003
ta thấy:
1 Nguồn: Thống kê bộ thương mại – Phần về tình hình Trung Quốc
Về công nghiệp: Hiệu quả kinh tế công nghiệp năm 2003 tăng trưởng
nhanh. Từ tháng 1 đến tháng 10, thu nhập sản phẩm công nghiệp đạt 11.122,35
tỷ NDT, vượt con số của cả năm 2002, tăng trưởng 27,9% so cùng kỳ năm


ngoái. Lợi nhuận đạt 6.472,8 tỷ NDT, tăng 46 % so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó xí nghiệp quốc hữu và xí nghiệp quốc hữu khống chế cổ phần lợi
nhuận đạt 3.174,7 tỷ USD, tăng trưởng 54%. Số tiền thua lỗ của các xí nghiệp
làm ăn thua lỗ là 93,45 tỷ USD, giảm 2,8% so với cùng kì năm trước, trong đó,
xí nghiệp quốc hữu chiếm 53,95 tỷ NDT, giảm 3,4 % so với cùng kì năm
2002.Riêng 3 quý đầu năm , công nghiệp có quy mô trung bình trở lên có tốc độ
tăng trưởng cao nhất từ năm 1995 trở lại đây. Các thành phần kinh tế tăng
trưởng toàn diện. Trong đó xí nghiệp quốc hữu và xí nghiệp quốc hữu khống
chế cổ phần đạt mức độ tăng trưởng14,3%; xí nghiệp tập thể tăng trưởng 11,7%;
xí nghiệp cổ phần tăng trưởng 17,9 % xí nghiệp nước ngoài và Hồng kông, Ma
Cao, Đài Loan đạt mức 19,6 %; công nghiệp nặng tăng nhanh hơn công nghiệp
nhẹ (công nghiệp nặng đạt 18,4%, công nghiệp nhẹ đạt 13,9%). Mức tăng
trưởng lợi nhuận xí nghiệp tăng. Trong số 39 ngành lớn của công ngiệp có 38
ngành thu lãi cao hơn năm 2002. Các xí nghiệp thua lỗ là 71,9 tỷ NDT, giảm
5,3%.
Về nông nghiệp: Trong điều chỉnh kết cấu nông nghiệp giữ mức tăng
trưởng cân bằng, kết cấu cay trồng nông nghiệp được điều chỉnh thêm một
bước. Diện tích trồng cây lương thực và nguyên liệu đường giảm, diện tích
bông và rau xanh tăng. Mặc dù bị giảm diện tích gieo trồng và thiên tai, dự kiến
sản lượng lương thực, nguyên liệu dầu và nguyên liệu đường giảm, nhưng sản
lượng nghề cá, chăn nuôi, lâm nghiệp vẫn giữ mức tăng trưởng, sản lượng bông
vẫn tăng trưởng như cũ.
Về thương mại: Theo số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc, từ
tháng 1 đến tháng 10 năm 2003 tổng kim ngạc xuất nhập khẩu của Trung Quốc
đạt 682,33 tỷ USD, tăng 36,4% so với cùng kỳ năm 2002, trong đó xuất khẩu
đạt 348,60 tỷ USD, tăng 32,8% , nhập khẩu đạt 333,73 tỷ USD, tăng 40,4%;
xuất siêu14,87 tỷ USD, giảm 40% so với cùng kỳ năm trước. Trong ba quý đầu
năm, xuất khẩu sang 10 bạn hàng lớn tăng toàn diện chiếm 86,4% tổng lượng
kim ngạch xuất khẩu. Trong đó xuất khẩu sang EU đạt 50,08 tỷ USD, tăng
trưởng 46,2%; sang Mỹ đạt 65,93 tỷ USD tăng trưởng 31,4 %;sang Nhật tăng

trưởng 22,8% đạt 42,16 tỷ USD; sang Nga tăng trưởng 57,3%; sang Đài Loan
đạt 35%. Xuất khẩu sang Singapore tăng nhanh thêm một bước, xuất khẩu sang
Châu Phi đạt mức tăng trưởng 46,5 %, sang Châu Mỹ La Tinh tăng 20,9%.(
2
)
Đối với mặt hàng dầu mỏ là mặt hàng chiến lược quan trọng, Trung Quốc
đang xúc tiến việc chuẩn bị gia nhập OPEC. Tập đoàn hoá dầu Trung Quốc
đang hợp tác với xí nghiệp hoá đầu khác để đầu tư với số vốn khoảng 10 tỷ
NDT để xây dựng và quản lý 4 khu chứa dầu lớn có sức chứa khoảng năm triệu
tấn dầu, tại Hoàng Đảo. Tại Giang Tô và Đại Liên có các khu dự bị. Dự kiến
công trình nhày sẽ hoàn thành trước năm 2005. Theo tin của kinh tế nhật báo
ngày 27 tháng 11 năm 2003 cho thấy năm 2002 Trung Quốc đã phải nhập 69
triệu tấn dầu thô từ Nga, Trung Đông, Việt Nam và Trung Á
Về tài chính: Đến cuối tháng 9 năm 2003 lượng cung ứng tiền mở rộng
đạt 21.400 tỷ NDT, tăng trưởng 20,7 %, nhanh hơn cùng kỳ năm ngoái 4,2
điểm. Lượng tiền cung ứng theo nghĩa hẹp (M1) 7.900 tỷ NDT, tăng trưởng
18,5 %, cao hơn cùng kì năm ngoái 2,6 điểm, lượng tiền lưu thông là 1.800 tỷ
NDT, tăng trưởng 12,8 %. Lượng dư tiền gửi ngoại tệ và ngoại tệ của các cơ cấu
tài chính đạt 21.500 tỷ NDT, tăng 21,1%. Luỹ kế các khoản tiền gửi tăng 3.200
tỷNDT, tăng 880,70 tỷ NDT. Cơ cấu tiền tệ đầu tư nước ngoài đã trở thành một
bộ phận quan trọng trong hệ thống tiền tệ Trung Quốc, đã cống hién tích cực đối
với công cuộc phát triển kinh tế và cải cách mở cửa. Tính đến cuối tháng 10
năm 2003đã có 62 ngân hàng đầu tư nước ngoài của 19 nước và khu vực thành
lập 191 doanh nghiệp tại Trung Quốc, trong đó có 84 doanh nghiệp đã được
phép kinh doanh đồng nhân dân tệ.
22 Ngườn:Bộ Thương mại –Phần về tình hình Trung Quốc
Về đầu tư: Đầu tư tài sản cố định ba quý đầu năm đạt 3.435,1 tỷ NDT,
tăng 30,5 %, cao hơn cùng kỳ năm ngoái 8,7 điểm. Trong đó kinh tế quốc hữu
và các loại hình kinh tế khác đầu tư 2.651,3 tỷ NDT,tăng trưởng 31,4%; kinh tế
tập thể và cá thể đầu tư đạt 783,9 tỷ NDT, tăng trưởng 27,6 %.

Trong đầu tư của loại hình kinh tế quốc hữu và các loại hình kinh tế khác,
đầu tư xây dựng cơ bản đạt 1.378,1 tỷ NDT, tăng trưởng 29,1 %; đầu tư cải tạo
đổi mới đạt 514,9 tỷ NDT, tăng trưởng 37,2%, đầu tư nhà đất đạt 649,5 tỷ NDT
tăng trưởng 32,9%. Mười tháng đầu năm Trung Quốc đã phê chuẩn ới 32.696 xí
nghiệp đàu tư nước ngoài, tăng 17,99 % so cùng kỳ, kim ngạch ký kết đạt
88.683 tỷ USD tăng 33,75%, vốn thực tế đưa vào sử dụng là 43.556 tỷ USD
tăng 5,81%. Tính đến cuối tháng 10 năm 2003 toàn Trung Quốc có 456.892 xí
nghiệp nước ngoài đầu tư với tổng số vốn ký kết đạt 916.743 tỷ USD, vốn thực
tế đưa vào sử dụng là 491,522 tỷ USD.
Từ năm 2002, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc bắt đầu hồi phục với tốc
độ cao, trở lại mặt bằng 8%, đồng thời xuất hiện xu thế tăng dần theo từng quý.
Như vậy, kinh tế Trung Quốc năm 2003 có điều kiện đẩy nhanh tốc độ phát
triển. Sở dĩ kinh tế Trung Quốc đạt mức tăng trưởng cao như vậy vì nhiều lý do,
trong đó có việc tăng trưởng đầu tư đạt 42%, tạo kỉ lục mới từ năm 1995 trở lại
đây, đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng của GDP; tiếp theo là lượng tiền đưa ra
thị trường cũng đạt một mức cao mới; phát triển kinh tế của nhiều địa phương
mạnh mẽ chưa từng thấy.
2.2 NHỮNG ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ, THƯƠNG MẠI TRUNG
QUỐC NĂM 2003
2.2.1 Về cải cách thể chế kinh tế
Năm 2003 được coi là năm bản lề đối với công cuộc cải cách của Trung
Quốc. “Nghị quyết về một số vấn đề hoàn thiện thể chế thị trường XHCN” được
coi là văn kiện có tính chất cương lĩnh đi sâu cải cách thể chế kinh tế, thúc đẩy
phát triển toàn diện kinh tế xã hội và con người. Đầu tháng 4/2003, “Uỷ ban
Giám quản tài sản quốc hữu” ra đời, điều lệ về giám quản tài sản quốc hữu được
công bố, chế độ bỏ vốn tài sản quốc hữu sẽ thống nhất giữa quản lý tài sản với
quản lý con người, quản lý công việc được cơ bản xác lập. Điều này đã giải
quyết được vấn đề mà lâu nay người bỏ vốn ra không được quản lý thực sự và
có quá nhiều đầu mối; tài sản quốc hữu luôn luôn tồn tại vấn đề hiệu quả thấp
và thất thoát. Cải cách thể chế quản lý hành chính có bước tiến triển mới. Uỷ

ban cải cách và phát triển, bộ Thương mại ra đời, không những gộp các chức
năng chồng chéo nhau lại, mà còn theo nguyên tắc “Quyết sách, chấp hành,
giám sát”, sắp xếp lại thứ tự mới đối với các bộ, làm cho các ngành của chính
phủ thực sự là trọng tài có quyền lực và công minh. Cải cách thể chế tiền tệ
vững bước tiến lên. Cùng với việc thành lập uỷ ban giám quản ngân hàng , thể
chế giám quản phân ngành tiền tệ tiếp tục được hoàn thiện. Ngày 11 tháng 6,
công ty trách nhiệm hữu hạn cổ phần bảo hiểm tài sản nhân dân Trung Quổc trở
thành công ty bảo hiểm tài chính tiền tệ vốn Trung Quốc đầu tiên hoàn thành
chế độ cổ phần hoá, đồng thời đã được niêm yết ở nước ngoài. Tại 8 tỉnh thành
như Triết Giang đã đi đầu thí điểm hợp tác xã tín dụng nông thôn, dần dần trở
thành cơ cấu tiền tệ mang tính chất khu vực xã hội, phục vụ cho nông dân, nông
nghiệp, nông thôn và phát triển kinh tế xã hội. Cải cách các ngành độc quyền đã
có bước đi mới, tổng cục hàng không dân dụng đã quyết định bỏ 23 cục hàng
không dân dụng tỉnh (khu, thành phố) vào cuối năm 2003, chuyển giao 93 sân
bay cho chính quyền địa phương sở tại quản lý. Trong năm 2003, công tác cải
cách thuế, lệ phí cũng được triển khai trong phạm vi cả nước. Đến nay, các tỉnh
thí điểm lên tới con số 20, liên quan tới 620 triệu dânở khu vực nông thôn,
chiếm 3/4 nông dân cả nước. TW đã chi 35 tỷ nhân dân tệ cho cải cách thuế và
lệ phí nông thôn. Nhìn chung đã giảm bớt gánh nặng cho nông dân tại các khu
vực thí đIểm được đánh giá đạt khoảng 30%. Để xúc tiến kinh tế vùng phát triển
hài hoà, nhà nước sẽ tích cực vận dụng chính sách thuế tài chính để ủng hộ miền
tây phát triển mạnh và chấn hưng ở cơ sở công nghiệp cũ tại vùng Đông Bắc.
2.2.2 Về mậu dịch đối ngoại trong năm có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Xuất nhập khẩu tăng trưởng với tốc độ nhanh, mức nhập khẩu hàng thág
đều tăng. Trừ một số tháng cá biệt, bình quân mức tăng xuất khẩu hàng
tháng đạt trên 30%.
- Mậu dịch thông thương tăng mạnh, đạt mức tăng trưởng 32,9%, nhập
khẩu tăng 48,6%. Mậu dịch gia công phát triển ổn định, xuất khẩu 168,5
tỷ USD, tăng trưởng 31,3%, nhập khẩu 114,93 tỷ USD, tăng trưởng
30,5% xuất khẩu hàng cơ đIện và hàng kỹ thuật cao tăng mạnh, nhập

khẩu mặt hàng có tính chất nguyên liệu tăng nhanh. Từ đầu năm đến nay,
hai mặt hàng trên là hai mặt hàng chủ yếu làm cho xuất khẩu của Trung
Quốc tăng nhanh, kim ngạch xuất khẩu về cơ đIện đạt 160,62 tỷ USD,
tăng 46%, chiếm 58,8% tổng lượng xuất khẩu ; nhập khẩu sản phẩm kỹ
thuật cao đạt 84,61 tỷ USD, tăng trưởng 46,2%, chiếm 31,1% tổng lượng
nhập khẩu.
- Xuất khẩu sang các bạn hàng mậu dịch chủ yếu tăng trưởng toàn diện,
xuất khẩu sang các thị trường mới cũng tăng nhanh.
- Tăng trưởng nhập khẩu cao hơn xuất khẩu, xuất siêu giảm mạnh.
- Chủ thể kinh doanh ngoại thương ngày càng đa dạng hoá, xí nghiệp tư
doanh tập thể ngày càng trở thành lực lượng quan trọng trong thúc đẩy
xuất nhập khẩu tăng trưởng. Xí nghiệp nước ngoài đầu tư vẫn là chủ thể
kéo theo sự tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc.
- Chất lượng và hiệu quả xuất nhập khẩu ngày một nâng cao, tác dụng của
xuất nhập khẩu trong kinh tế quốc dân ngày một tăng cường.
Như vậy, sau khi gia nhập WTO, xuất khẩu của Trung Quốc không những
không giảm mà vẫn tiếp tục tăng. Việc xuất khẩu gia tăng có nhiều nhân tố.
Ngoài sức cạnh tranh của các xí nghiệp được nâng lên và chính sách khuyến
khích xuất khẩu của nhà nước, sự điều chỉnh cơ chế thoái thuế xuất khẩu để
giảm gánh nặng về tài chính cho nhà nước đã khiến các địa phương và xí nghiệp
tranh thủ thời gian xuất khẩu trước khi chính sách mới áp dụng.
2.2.3 Về kinh tế đối ngoại
Trung Quốc tiếp tục mở rộng thị trường xuất nhập khẩu sang tất cả các khu
vực trên thế giới. Hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc đã trở thành một trong
những nguồn quan trọng mang lại nhiều ngoại tệ cho đất nước, nhưng cũng làm
cho nhiều nước lo ngại, trong đó có Mỹ. Chỉ riêng năm 2003, Mỹ đã tiến hành 7
vụ diều tra chống bán phá giá đối với các mặt hàng của Trung Quốc, với kim
ngạch lên tới 1,6 tỷ USD. Tuy vậy, dư luận báo chí Trung Quốc cho rằng từ
những năm 90 trở lại đây, cọ sát về thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ không
ngừng xảy ra. Thời gian gần đây, Mỹ gây sức ép với sản phẩm xuất khẩu của

Trung Quốc, chủ yếu là tạo môi trường có lợi cho cuộc bầu cử năm 2004. Vì
vậy việc thâm thủng mậu dịch trong buôn bán với Trung Quốc đã trở thành vật
hy sinh. Trung Quốc cho rằng, chỉ cần kinh tế Mỹ phục hồi, bầu cử qua đi, thì
cọ sát mậu dịch cũng sẽ giảm xuống. Sau khi Trung Quốc đã kí mua của Mỹ
một khoản tiền lên tới 6 tỷ USD, Mỹ vẫn tiến hành điều tra chống bán phá giá
hàng dệt may của Trung Quốc, nhưng Trung Quốc cũng không có phản ứng quá
đáng, chỉ lùi thời gian của đoàn đàm phán về mua nông sản của Mỹ vào một
thời gian khác.
2.2.4 Về đồng NDT
Trong năm 2003, một số nước như Mỹ, Nhật lên tiếng đòi Trung Quốc phải
thả nổi đồng NDT. Trước sức ép và dư luận quốc tế, lãnh đạo và những người
đứng đầu các ngành hữu quan đã nhiều lần nói rõ lập trường kiên định giữ ổn
định đồng NDT. Ngày 2/9/2003, người phát ngôn bộ ngoại giao Trung Quốc
Khổng Tuyền tuyên bố: “Trung Quốc sẽ tiếp tục giữ ổn định tỷ giá đồng NDT,
vì nó không những có lợi cho sự phát triển kinh tế của Trung Quốc mà cón có
lợi cho sự phát triển kinh tế của Châu Á, thậm chí của cả thế giới.
2.2.5 Về sức cạnh tranh Quốc tế của Trung Quốc.
Sức cạnh tranh quốc tế của Trung Quốc ngày một nâng cao, sức cạnh tranh
thực lực của kinh tế Trung Quốc liên tục tăng ổn định trong ba năm liền. Sức
cạnh tranh của Trung Quốc năm 2003 có thể xếp hàng thứ 12 trên trường quốc
tế, thực lực ưu thế cạnh tranh của Trung Quốc chủ yếu được thể hiện qua sự
tăng trưởng tổng lượng kinh tế và tăng trưởng bình quân thu nhập đều mang ưu
thế cạnh tranh rất mạnh, hiện nay Trung Quốc thu hút đầu tư nước ngoài khoảng
395,19 tỷ USD, đứng thứ tư thế giới.
Sau khi gia nhập WTO, sức cạnh tranh của Trung Quốc đã được tăng lên
toàn diện. Năm 2003, sức cạnh tranh quốc tế của Trung Quốc đã tăng lên 2 bậc,
3 năm liên tục tăng lên ổn định. Từ năm 2000 trở lại đây, chênh lệch về hạng
mục thường xuyên của Trung Quốc luôn đứng ở vị trí thứ 10, thứ bậc về sức
cạnh tranh tuy có lên xuống, nhưng vị trí trong phạm vi thế giới là không đổi.
Thành tựu xây dựng tin học hoá đã trở thành động lực mới phát triển kinh

tế . Năm 2003, trong khi xuất hiện tình trạng thụt lùi về sức cạnh tranh hạ tầng
kỹ thuật với trung tâm là tin học hoá lại tăng lên 6 bậc. So với năm 2002, tỷ lệ
sử dụng máy tính của Trung Quốc tăng 0,7 điểm, tiếp tục giữ vững ở vị trí thứ 5
rên thế giới. Tỷ lệ đầu tư cho tin học trong GDP tăng 0,4 điểm, nâng lên đứng
hàng thứ hai trên thế giới.
Ưu thế cạnh tranh xây dựng pháp chế tiếp tục được giữ vững. Công tác lập
pháp thị trường ngày càng được kiện toàn, quan niệm pháp chế dần dần đi vào
cuộc sống.
Ưu thế cạnh tranh chỉnh thể quản lý công cộng và văn hoá của quần chúng
tăng. Định vị của chính phủ dần dần rõ nét.
2.3 CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM
Trong thời gian qua, trao đổi ngoại thương với hai nước Trung Quốc và Nhật
Bản luôn đóng vai trò quan trọng và ciếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu của Việt Nam. Thị trường Trung Quốc từ vị trí thứ 6 năm 1997
đã vươn lên thành bạn hàng có kim ngạch xuất nhập khẩu đứng thứ hai ở Việt
Nam năm 2003
Biểu 2.1
Sơ đồ cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam
11 tháng đầu năm 2003
Đơn vị (%)
Nguồn: Bộ thương mại

Như vậy ta có thể thấy đối tác nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam trong
năm 2003 là Mỹ với kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ 11 tháng đầu
năm 2003 là 3.646,787 triệu USD, chiếm 20,07% tổng kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam, tiếp theo là Nhật Bản rồi đến Trung Quốc với kim ngạch nhập khẩu
là 1.458,818 triệu USD , chiếm 8,03% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam.
Biểu 2.2
Sơ đồ cơ cấu thị trường nhập khẩu Việt Nam
11 tháng đầu năm 2003

Đơn vị (%)
Nguồn : Bộ thương mại
Đối tác xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc với kim ngạch
2.775,042 triệu USD chiếm 12,2% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam,
tiếp theo là Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc,…Như vậy chứng tỏ một
điều rằng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc thì kim
ngạch nhập khẩu của Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn hơn.
Trong năm 2003, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa ASEAN và Việt Nam
là 8.070,378 triệu USD, chiếm 19,72% , giữa EU và Việt Nam là 5.595,416
triệu USD, chiếm 13,68%, tiếp sau các khối đó là Trung Quốc với tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu 4.233,850 triệu USD, chiếm 10,35% tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu của Việt Nam.
2.3 Thực trạng xuất nhập khẩu hàng hoá giữa hai nước Việt Nam và Trung
Quốc.
Xuất nhập khẩu hàng hoá giữa Việt Nam và Trung Quốc nhìn chung tăng
mạnh trong vòng 10 năm qua, chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng qua số liệu
trong bảng dưới đây:
Biểu 2.3 Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với Trung
Quốc thời kì 1991-2003 và dự báo cho năm 2004, 2005
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm Tổng kim ngạch Xuất khẩu Nhập khẩu
Trị giá Nhịp độ
tăng (%)
Trị giá nhịp độ
tăng (%)
Trị giá Nhịp
độ tăng
(%)
1991 37,7 - 19,3 - 18,4 -
1992 127,4 237,9 95,6 395,3 31,8 72,8

1993 221,3 73,7 135,8 42,0 85,5 168,6
1994 439,9 98,7 295,7 117,7 144,2 68,6
1995 691,6 57,2 361,9 22,3 329,7 128,6
1996 669,2 - 3,3 340,2 - 6,0 329,0 -0,3
1997 878,5 31,2 474,1 39,3 404,4 22,9
1998 989,4 12,6 478,9 1,0 510,5 26,2
1999 1.542,3 55,8 858,9 79,3 683,4 3,8
2000 2.957,2 91,7 1.534,0 78,6 1423,2 108,2
2001 3.047,9 3,0 1.418,0 - 7,6 1.629,9 14,5
2002 3.654,28 19,9 1.495,50 5,5 2.158,79 32,5
2003 4540,0 10,12 1.588 25,12 2.153 27
2004(dự
kiến)
4700 2100 2400
2005(dự
kiến)
5000 2400 2600
Nguồn: Trung tâm tin học và thống kê- Tổng cục hải quan
Việt Nam và Bộ Thưng Mại
Từ trao đổi hàng hoá theo hình thức tiểu ngạch là chủ yếu, đến nay quan hệ
buôn bán qua đường chính ngạch đã được đảm bảo bằng cam kết chính thức
giữa hai chính phủ và đang đóng vai trò ngày càng quan trọng.
Nhìn bảng trên chúng ta thấy sự phát triển nhanh chóng trong quan hệ song
phương giữa hai nước không ngừng tăng với tốc độ nhanh, đặc biệt là trong
những năm gần đây, tổng kim ngạch giữa hai nước từ con số 37,7 triệu USD
năm 1991 tăng lên 3,26 tỷ USD năm 2002, và năm 2003 đạt trên 4,5 tỷ USD,
phấn đấu đạt 5 tỷ vào năm 2005.
Tính chung thời kỳ 1996 -2003, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
Trung Quốc đạt hơn 5.104 triệu USD (tăng 5,6 lần so với thời kỳ 1991-1995,
với nhịp độ tăng bình quân hàng năm là 43,55%). Hơn 100 nhóm hàng và mặt

hàng khác nhaucủa Việt Nam đã được xuất khẩu sang Trung Quốc, trong đó
nhóm hàng nguyên nhiên liệu ( gồm dầu thô, than đá, cao su…) chiếm gần 45%
tổng kim ngạch, nhóm nông sản chiếm 14%, nhóm thuỷ sản chiếm 11% và
nhóm tiêu dùng chiếm 30%.
Nhận xét:
Nhìn chung, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc thời
kỳ 1996 -2003 đã có những thay đổi đáng kể so với thời kì 1991 -1995. Tỷ
trọng hàng háo đã qua chế biến và hàng công nghiệp tiêu dùng tăng cao (mặc dù
giá trị đạt được vẫn ở mức thấp), nhiều mặt hàng của Việt Nam đã khẳng định
được thị phần và sức cạnh tranh của mình trên thị trường Trung Quốc như: Hải
sản, giày dép, dệt may,. một số sản phẩm công nghệ.
Biểu 2.5:
Xuất khẩu thuỷ sản sang Trung Quốc thời kỳ 1996-2003
Mặt Đ.vị 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003

×