Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THU NSNN VÀ VAI TRÒ CỦA KBNN TRONG VIỆC QUẢN LÝ THU NSNN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.22 KB, 19 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THU NSNN VÀ VAI TRÒ CỦA KBNN TRONG
VIỆC QUẢN LÝ THU NSNN
1.1. Lý luận chung về thu NSNN.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thu NSNN:
Ngân sách Nhà nước là hệ thống các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong
quá trình phân phối các nguồn tài chính của xã hội để tạo lập và sử dụng các quỹ
tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Thu NSNN là quá trình dùng các quyền lực có được của mình để phân
phối một bộ phận của cải xã hội dưới hình thức tiền tệ về tay mình, hình thành
lên quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước. Hay có thể nói thu NSNN nó bao gồm
các khoản thu từ Thuế, phí, lệ phí, các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà
nước, các khoản thu đóng góp của các tổ chức, cá nhân, các khoản viện trợ các
khoản khác theo quy định của pháp luật và các khoản do Nhà nước vay để bù
đắp bội chi ngân sách đều được dựa vào thu ngân sách.
Nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước là thuế. Theo quy định của
luật thuế có các loại thuế sau: Thuế lợi tức, thuế tài nguyên, thuế Nhà đất, thuế
môn bài, thuế sử đất, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất
nhập khẩu.. Để thuế là nguồn thu chủ yếu chiếm tỷ lệ khoảng 85% tổng thu
ngân sách Nhà nước thì Nhà nước, chính phủ ta phải có một chính sách về thuế
một cách toàn diện.
Về tỷ trọng, các khoản thu ngoài thuế hiện nay chiếm tỷ lệ khiêm tốn
trong thu ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, đây là nguồn thu quan trọng, nếu biết
phát huy, quản lý tốt và có các biện pháp để nuôi dưỡng, khai thác triệt các
nguồn thu thì nguồn thu đó là rất lớn chiếm một tỷ lệ không nhỏ cho ngân sách
Nhà nước.
Xét về nội dung ta thấy rằng thu NSNN một mặt chứa đựng các quan hệ
phân phối các hình thức giá trị nảy sinh trong quá trình Nhà nước sử dụng
quyền lực chính trị, tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia thành quỹ tiền
tệ tập trung của Nhà nước. Mặt khác thu ngân sách Nhà nước lại gắn chặt với
thực trạng kinh tế đó là tổng sản phẩm quốc nội - GDP.
Thu NSNN là chia nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước và các chủ


thể trong xã hội dựa trên quyền lực của Nhà nước. Nhằm giải quyết hài hòa về
lợi ích kinh tế. Sự phân chia đó là yếu tố khách quan nó xuất phát từ yêu cầu
thực hiện các chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước.
Sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nền kinh tế nước ta bắt đầu chuyển
từ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước thì công cuộc đổi mới lúc này ngày càng được diễn ra toàn diện và
sâu sắc nhất là những năm gần đây. Vai trò của NSNN trong thời kỳ này cũng có
những chuyển biến tích cực rõ rệt và đóng vai trò quan trọng của NSNN trong
nền kinh tế thị trường, nó có những đặc điểm sau:
+ Nhà nước công nhận sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế phải coi
việc tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là hoàn toàn mang tính chất khách
quan. Do đó quyền sở hữu hợp pháp về vốn và tài sản của các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế phải được đảm bảo bằng pháp luật của Nhà nước.
Điều này sẽ khuyến khích các doanh nghiệp phát huy tính năng động sáng tạo
của mình trong việc cạnh tranh giành thắng lợi về mình. Không có doanh
nghiệp độc lập, tự chủ thì không có kinh tế thị trường thực sự. Nhà nước cho
phép và khuyến khích các doanh nghiệp được tự do sản xuất và phân phối sản
phẩm, tự do liên doanh liên kết, thuê mướn công nhân. Tuy nhiên tất cả các hoạt
động này của doanh nghiệp phải tuân thủ khuôn khổ pháp luật và phải được
pháp luật thừa nhận.
+ Nhà nước từ bỏ can thiệp trực tiếp và kiểm soát vào các hoạt động kinh
tế, xã hội, Nhà nước giảm bớt vai trò làm kinh tế để thực hiện vai trò người
quản lý trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc không can thiệp sâu vào cơ chế thị
trường, có các chính sách đảm bảo cạnh tranh công bằng và giải quyết những
vấn đề còn tồn tại trong nền kinh tế mà cơ chế thị trường không giải quyết nổi.
Trong cơ chế mới “cơ chế thị trường” Nhà nước phải dùng các công cụ chính
sách để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế đây là đặc trưng cơ bản nhất của nền kinh
tế thị trường.
+ Sự phát triển đa dạng của thị trường và các yếu tố tích cực của nó được
Nhà nước tôn trọng và khuyến khích. Cùng với thị trường hàng hóa, cơ chế thị

trường khi phát triển đến một giai đoạn nhất định còn là tiền đề cho sự ra đời
của thị trường tài chính, thị trường sức lao động. Những đặc trưng cơ bản của
cơ chế thị trường cho thấy những bước phát triển mới, tiến bộ so với cơ chế bao
cấp. Bên cạnh đó, cơ chế thị trường còn bộc lộ nhiều mặt trái tác động tiêu cực
đến sự phát triển của nền kinh tế - xã hội.
- Về mặt xã hội: Trong cơ chế thị trường Nhà nước đảm bảo được sự
công bằng xã hội như các hình thức thuế, phí và lệ phí đảm bảo nhu cầu
chính đáng cho người lao động kích thích họ đầu tư vốn, đầu tư chất xám để
tăng năng suất hạ giá thành sản phẩm nâng cao tinh thần trách nhiệm với
người lao động.
- Về kinh tế: Sự phát triển của nhiều hình thức sở hữu, mở rộng quyền tự
chủ trong sản xuất kinh doanh sẽ dẫn đến cạnh tranh, tạo ra hàng hóa phong phú
đa dạng, đồng thời vì mục đích lợi nhuận mà nhiều nhà sản xuất cho ra những
sản phẩm không đảm bảo chất lượng trên thị trường hoặc tạo ra môi trường
cạnh tranh không bình đẳng.
Vì vậy muốn đạt được những mục đích về thị trường kinh tế và xã hội thì
cũng cần phải có sự can thiệp của Nhà nước. Nhà nước phải biết vận dụng các
công cụ tài chính, tiền tệ để tác động đến mọi mặt hoạt động của nền kinh tế xã
hội. Trong các công cụ đó thu NSNN được coi là công cụ quan trọng, chiếm
một vị trí không nhỏ góp phần làm ổn định nền tài chính, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Vì vậy, thu NSNN có vai trò rất quan trọng đó là:
Huy động các nguồn tài chính thông qua thu NSNN đảm bảo việc chi tiêu
của Nhà nước, như phục vụ cho bộ máy quản lý của Nhà nước và đảm bảo cho
việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội do Nhà nước đề ra. Xã hội muốn
phát triển đòi hỏi chi ngân sách mở cả về chiều rộng và chiều sâu do vậy thu
NSNN có hiệu quả sẽ góp phần cân đối thu chi đảm bảo cho xã hội phát triển.
Đây là vai trò không thể thiếu được của thu NSNN ở bất cứ một quốc gia nào.
Trong cơ chế thị trường thu NSNN không chỉ nhằm mục tiêu tạo nguồn tài
chính cho Nhà nước như trong cơ chế cũ mà nó có nhiệm vụ quan trọng trong
việc điều chỉnh các hoạt động kinh tế - xã hội. Thu NSNN góp phần làm lành

mạnh nền kinh tế - xã hội, thể hiện trên các mặt kinh tế thị trường xã hội. Ngoài
ra thu NSNN còn góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế xã hội. Trong đó thuế là
công cụ quan trọng nhất, đồng thời Nhà nước sử dụng các khoản thu NSNN để
điều hòa lưu thông tiền tệ, bình ổn giá cả giảm lạm phát. Thực hiện phân phối
thu nhập đảm bảo công bằng xã hội, Nhà nước hoạt động thu NSNN dưới hình
thức thuế gián thu, thuế trực thu để điều tiết thu nhập điều tiết tiêu dùng đảm
bảo thu nhập chính đáng của người lao động đồng thời thực hiện công bằng xã
hội. Mặt khác thu NSNN nhanh, đầy đủ, kịp thời vào NSNN cũng là nhằm để
thực hiện nhu cầu chi tiêu của xã hội với hiệu quả cao. Tóm lại thu có vai trò
quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Để quản lý các nguồn thu được tốt và
hiệu quả cao thì cần thiết phải phân loại các khoản thu NSNN.
1.1.2. Phân loại theo nội dung kinh tế:
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước nước ta bắt đầu chuyển từ cơ chế
kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường do đó sự phát triển tất yếu của
quy luật kinh tế khách quan, đó là kinh tế nhiều thành phần bởi thế việc phân
loại các nguồn thu NSNN có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong quá trình quản lý,
phân tích và đánh giá thực trạng thu NSNN, việc phân loại thu NSNN được
thực hiện theo các nguồn thu và theo luật NSNN ban hành năm 2002 như sau:
Bảng phân loại các nguồn thu theo nội dung kinh tế
Nội dung Nội dung
Ghi
chú
A Thu cân đối NSNN (I-VIII)
VII
I
Thu huy động ĐT theo khoản 3
I Thu nội địa không bao gồm thu dầu thô điều 8 luật NSNN
1 Thuế GTGT từ SXKD trong nước
B Thu vay cân đối ngân sách TW
2 Thuế thu nhập doanh nghiệp 1 Vay trong nước

- Thuế thu nhập doanh nghiệp - Vay tín phiếu, trái phiếu
3 Thuế tài nguyên - Vay công trái xây dựng tố quốc
4 Thuế sử dụng đất nông nghiệp - Vay khác
5 Thuế môn bài 2 Vay nước ngoài khác
6 Thuế trước bạ C
Thu để lại ĐV chi QL qua NSNN
7 Phí và lệ phí khác
D Thu chuyển giao giữa các cấp NS
8 Tiền thuê mặt nước, mặt đất 1 Thu bổ sung từ NS cấp trên
9 Các khoản thu về nhà đất - Thu bổ sung cân đối
- Thuế nhà đất - Bổ sung có mục tiêu
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất BS có MT bằng nguồn vốn trong nước
- Tiền bán nhà và thuê nhà thuộc sở hữu NN 2 Thu NS cấp dưới nộp lên
10 Thu khác
E Các khoản tạm thu và vay khác
- Thu khác từ các cá nhân SXKD, HH, D vụ 1 Vay nước ngoài về cho vay lại
- Thu khác của NS 2 Thu nợ gốc , lãi cho vay NVNN về cho vay lại
II Thu dầu thô 3 Các khoản khác
III Thu hoạt động xuất nhập khẩu Trong đó: Vay Ngân hàng Nhà nước
IV Thu huy động quỹ dự trữ Tài chính Vay quỹ dự trữ tài chính
V Thu kế dư ngân sách năm trước Vay các quỹ khác
VI Thu chuyển nguồn năm trước Vay KBNN
VII
Thu viện trợ không hoàn lại Vay ngân hàng cấp trên
- Qua việc phân loại từ bảng trên ta thấy đã có sự thay đổi về quan niệm
sở hữu trong cơ chế thu NSNN, phân loại theo quan niệm đối tượng và lĩnh vực
thu nộp từ đó phân theo nội dung kinh tế. Trong luật NSNN năm 2002 với chính
sách khuyến khích sự phát triển của tất cả các thành phần kinh tế, sẽ không có
sự phân biệt đối xử giữa kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh. Hệ thống
chính sách được áp dụng cho tất cả các ngành nghề. Các hình thức kinh doanh

thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội không có sự phân biệt quốc doanh tập
thể hay cá thể. Việc phân loại như vậy sẽ đáp ứng được yêu cầu quản lý vĩ mô
của Nhà nước trong hoạt động điều chỉnh nền kinh tế quốc dân. Thông qua phân
loại như vậy Nhà nước mới có thể đánh giá được tính hiệu quả của nến kinh tế
cũng như xu hướng phát triển để có thể điều chỉnh chế độ chính sách cho phù
hợp .
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu NSNN trên địa bàn Kho bạc Nhà
nước Phong thổ đã phối hợp tốt với cơ quan thuế, hải quan và các cơ quan thu
khác tăng cường việc thu NSNN qua KBNN, tập trung đầy đủ kịp thời, điều tiết
chính xác các khoản thu cho các cấp ngân sách theo luật định. Tham gia thu thuế
trực tiếp tại cửa khẩu quốc tế, và các trung tâm tập trung dân cư tạo điều kiện
thuận lợi cho các đối tượng nộp thuế trực tiếp qua KBNN đạt khoảng 20% tổng
số thu ngân sách trên địa bàn, chiếm 80% số thu ngân sách bằng tiền mặt.
Phối hợp với cơ quan tài chính đôn đốc các đơn vị có thu phí, lệ phí nộp
kịp thời vào KBNN , hạn chế hiện tượng tọa chi từ số thu tại các đơn vị thực hiện
theo dự toán được duyệt, phối hợp thu thuế với các đơn vị thi công xây lắp qua
thanh toán vốn đầu tư tại KBNN, phối hợp với cơ quan tài chính xác định ghi thu,
ghi chi vào ngân sách các khoản thu huy động từ các xã , thị trấn.
Tuy nhiên trong công tác quản lý thu ngân sách nhà nước hiện tại vẫn còn
có những khó khăn , một số đơn vị có thu phí, lệ phí được phép để lại một phần
để chi tiêu sử dụng nên việc phản ánh số thu vào NSNN còn chưa được kịp thời,
việc hoàn tất thủ tục ghi thu, ghi chi ngân sách từ số thu huy động ở các xã còn
chậm, do khó khăn về biên chế nên các điểm thu trực tiếp qua KBNN còn hạn
chế, số điểm thu thuế trực tiếp qua KBNN tỷ lệ còn thấp.
1.2. Vai trò của Kho bạc Nhà nước trong công tác thu NSNN:
1.2.1. Sự ra đời và phát triển của hệ thống KBNN Việt Nam:
Sự ra đời và phát triển hệ thống KBNN gắn liền với quá trình xây dựng và
phát triển đất nước. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng - Nhà nước, chức năng,
nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Kho bạc Nhà nước cũng dần dần được thay đổi cho
phù hợp với nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ.

Trong thời kỳ chống pháp Kho bạc Nhà nước đã được hình thành với tên gọi
là ngân khố Đông Dương trực thuộc phủ toàn quyền Đông Dương. Sau cách mạng
tháng tám thành công năm 1945, tổng nha ngân khố quốc gia trực thuộc Bộ Tài
chính với nhiệm vụ quản lý quỹ ngân sách NSNN là in tiền, quản lý tiền và các loại
tài sản quý hiếm của Nhà nước như vàng, bạc, kim khí quý, đá quý... Từ năm 1951
nhiệm vụ của ngân khố quốc gia được chuyển sang hệ thống Ngân hàng quốc gia
Việt Nam (nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) được thành lập với nhiệm vụ chủ
yếu quản lý quỹ NSNN, in tiền, quản lý vàng bạc kim khí quý, đá quý... lúc này
Ngân hàng Nhà nước thực hiện quản lý quỹ ngân sách và kinh doanh tiền tệ, đồng
thời thực hiện thêm nhiệm vụ là tập trung các nguồn thu của NSNN, tổ chức cấp
phát chi trả các khoản chi theo Luật phân phối của cơ quan Tài chính Nhà nước.Việc
phân phối cấp phát mang nặng tính bao cấp chủ yếu là để thanh toán cho các chỉ
tiêu hiện vật đã được cân đối. Do cơ quan Tài chính không trực tiếp quản lý quỹ
NSNN, không nắm được thường xuyên chính xác tình hình thu chi và tồn quỹ
NSNN nên không thể chủ động trong khâu cấp phát chi trả, thường xuyên xảy ra các
khoản chi cần thiết của NSNN đã được bố trí trong kế hoạch như chi lương, trợ
cấp xã hội, chi quốc phòng, an ninh...phải dừng lại, lúc này Chính phủ lại phải
phát hành thêm tiền cho nhu cầu chi tiêu của NSNN. Do yêu cầu đổi mới cơ
chế quản lý tài chính, tiền tệ, tín dụng đòi hỏi phải tách bạch phân định rõ vốn
của NSNN và vốn kinh doanh của Ngân hàng. Mặt khác, các chính sách tài
chính, đặc biệt là sự ra đời các luật thuế mới vừa chế độ quản lý tài chính của
các đơn vị, đòi hỏi phải thành lập hệ thống thu Nhà nước và phải có một hệ
thống quản lý thống nhất quỹ NSNN cho phù hợp nhằm nâng cao chất lượng
quản lý điều hành NSNN, nâng cao hiệu lực, trách nhiệm quyền hạn của hệ
thống tài chính quốc gia.
Trong số các phương tiện tài chính Kho bạc Nhà nước có một vị trí đặc
biệt quan trọng, vai trò của Kho bạc Nhà nước trong việc thực hiện chính sách
tài chính quốc gia . Do đó để đáp ứng tình hình và yêu cầu mới của công tác tài
chính, tiền tệ, tín dụng hệ thống Kho bạc Nhà nước Việt Nam được thành lập
theo Quyết định số 07/HĐBT ngày 01/04/1990 của Hội đồng Bộ trưởng nay là

Chính Phủ về việc chuyển giao công tác quản lý quỹ NSNN từ Ngân hàng Nhà
nước sang Bộ tài Chính và thành lập Kho bạc Nhà nước trực thuộc bộ Tài Chính
để thực hiện nhiệm vụ quản lý quỹ ngân sách Nhà nước.
Hệ thống Kho bạc Nhà nước được thành lập và chính thức đi vào
hoạt động trong phạm vi cả nước. Hoạt động Kho bạc Nhà nước trong thời
gian qua đã khẳng định việc chuyển giao nhiệm vụ quản lý và việc thành

×