Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

THỰC TRẠNG TÍN DỤNG CỦA NHNo PTNT TỈNH HOÀ BÌNH TRONG VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU CHƯƠNG TRÌNH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA TỈNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.44 KB, 32 trang )

THỰC TRẠNG TÍN DỤNG CỦA NHNo PTNT TỈNH HỒ BÌNH
TRONG VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU CHƯƠNG TRÌNH XỐ ĐĨI
GIẢM NGHÈO CỦA TỈNH
I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN - KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH HỒ BÌNH. NHỮNG LỢI THẾ VÀ
KHĨ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI:

1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Hồ Bình:

1.1. Đặc điểm tự nhiên:
Hồ Bình là một tỉnh miền núi mới được tái lập từ tháng 10 năm 1991 (tách ra
từ tỉnh Hà Sơn Bình cũ), là tỉnh cửa ngõ phía Tây Bắc của Tổ quốc. Hồ Bình nằm
gần Thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng sơng Hồng, có đường giao thơng bộ,
thuỷ thuận lợi. Ngồi ra cịn có đường liên tỉnh, liên vùng nối liền Hồ Bình với
Phú Thọ và các tỉnh Bắc Trung bộ.
Hồ Bình có diện tích tự nhiên 4.749 Km 2. Trong đó, đất sản
xuất nơng nghiệp 72.437 ha (nhưng diện tích lúa nước chỉ có 42.249 ha), đất lâm
nghiệp 303.680 ha (nhưng đất trống đồi trọc có tới 3.245 ha). Dân số gần75 vạn
người, mật độ dân số 158 người/ km2 (vùng cao 50 - 60 người/ km2, vùng thấp 200
người/ km2).
Địa hình của tỉnh rộng, phức tạp, trải dài trên 200 km, nằm trong vùng khí hậu
nhiệt đới nhưng có nhiều núi cao nên trong tỉnh có nhiều tiểu vùng khí hậu mang
tính chất á nhiệt đới và có vùng ảnh hưởng của gió Lào từ tháng 3 đến tháng 5, có
vùng sương muối, mưa đá, sương mù, gió lốc, lụt cục bộ... Nhưng nhìn chung, khí
hậu của tỉnh Hồ Bình là ơn hồ, phù hợp với sự phát triển của cây công nghiệp,
cây ăn quả, vật nuôi đại gia súc có giá trị kinh tế cao. Thiệt hại lớn nhất của tỉnh
Hồ Bình là rừng bị tàn phá nặng nề, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng như: Hạn
hán, bão, lũ, úng...
1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội:


Hồ Bình có Sơng đà chảy qua với chiều dài 15 l km, có Thuỷ điện 1.920


MW, ngồi việc cung cấp điện cho cả nước, hồ sơng Đà cịn là cơng trình trị thuỷ,
điều tiết nước giữa các mùa của vùng đồng bằng sơng Hồng. Nhưng theo sau đó là
những khó khăn mà tỉnh phải giải quyết: Số dân di chuyển khỏi vùng ngập lịng hồ
sơng Đà gần một vạn người, một lực lượng không nhỏ công nhân và các con em họ
sau khi xây dựng xong cơng trình hiện khơng có việc làm, diện tích ruộng lúa nước
bị ngập gần 300 ha, đồng bào dù đã di chuyển đến nơi ở mới, cuộc sống vẫn chưa
ổn định, một bộ phận ở lại ven hồ nên cuộc sống còn hết sức khó khăn. Trong khi
đó, tổng sản lượng lương thực của tỉnh chưa vượt qua ngưỡng cửa 25 vạn tấn/ năm.
Do ruộng nước ít lại bị thu hẹp, mặt khác trình độ thâm canh cịn thấp nên bình
qn lương thực đầu người chỉ đạt 250 - 300 kg.
Tỉnh Hồ Bình có trên 750 ngàn nhân khẩu (điều tra cuối năm 1998), trong đó
thành thị hơn 100 ngàn nhân khẩu, nơng thơn hơn 650 ngàn nhân khẩu. Có 7 dân
tộc anh em chung sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 69% (dân tộc Mường
60%,Thái 3,9%, Tày 2,5%, Giao l,6%, H’Mông và các dân tộc khác l%), dân tộc
Kinh chiếm 3 l%.
Nền kinh tế tự cấp, tự túc đến nay vẫn cịn phổ biến ở nơng thơn, việc sản
xuất hàng hố với cơ chế thị trường mới bắt đầu ở vùng thuận lợi. Trình độ dân trí
thấp, 9% dân số mù chữ, dân cư thuộc các xã, bản vùng cao, sâu có nguy cơ tái mù
chữ. Thực tế này đã hạn chế rất nhiều đến việc tiếp thu cái mới, nâng cao tay nghề,
áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh.
Do cuộc sống kham khổ, do thiếu biện pháp phịng ngừa hữu hiệu nên các
bệnh ở Hồ Bình vẫn còn rải rác tồn tại như sốt rét, bướu cổ... Từ thực trạng trên
đây làm cho gần 1/ 3 dân số Hồ Bình vẫn sống trong cảnh đói nghèo. Do dân
nghèo nên tỉnh nghèo, Ngân sách hàng năm vẫn do Trung ương trợ cấp tới 60% 70%. Đó là điều mà các cấp Uỷ Đảng, Chính quyền địa phương ở Hồ Bình ln
quan tâm, trăn trở để tìm lối thốt ra khỏi đói nghèo trong những năm tới.
2. Những lợi thế và khó khăn trong q trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh:


2.1. Những thuận lợi:
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam. Thời gian qua, với

sự giúp đỡ của Nhà nước, ủng hộ của đại bộ phận nhân dân trong tỉnh đang tiến
hành những đổi mới kinh tế - xã hội sâu sắc và toàn diện. Nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
bước đầu được hình thành, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước
được cải thiện, dân chủ trong xã hội được phát huy, an ninh chính trị được giữ
vững, lòng tin của nhân dân từng bước được cải thiện, trên 70% hộ gia đình có
mức sống trung bình trở lên.
Có thể nói, tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội của Hồ Bình là rất lớn. Hồ
Bình gần Thủ đô Hà Nội, rất thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế,
là nơi cung cấp các sản phẩm nông, lâm nghiệp, đặc sản... cho Thủ đô. Là nơi đầu
mối giao thông thuỷ bộ duy nhất thuận lợi, Hồ Bình sẽ trở thành một địa bàn, một
cơ sở quan trọng trong công cuộc xây dựng, khai thác và phát triển khu vực Tây
bắc. Mở rộng quan hệ kinh tế, văn hoá với nước bạn Lào, là cực tăng trưởng làm
cầu nối cho sự tăng trưởng kinh tế vùng Tây bắc. Hồ Bình có nguồn nước dồi dào,
là nơi có cơng trình thuỷ điện với nguồn điện năng lớn cung cấp cho cả nước, đó
chính là điều kiện rất quan trọng cho việc điện khí hố nông thôn và áp dụng khoa
học công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Hồ Bình có hệ động, thực vật phong phú với
nhiều loại cây con quý hiếm, có độ che phủ rừng là 30%, hiện tỉnh còn một số khu
rừng nguyên sinh. Do đất rừng tốt nên việc tái sinh rừng cũng nhanh, việc trồng
cây công nghiệp và cây nơng nghiệp cũng rất thích hợp. Hồ Bình có nhiều khống
sản q như quặng sắt, ăngtimon, bơxit, mỏ nước khống, đá vôi, đất sét với trữ
lượng lớn và chất lượng cao, thích hợp với sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng.
Hồ Bình có cảnh quan mơi trường và nền văn hố dân tộc đặc sắc có điều kiện để
phát triển các ngành dịch vụ, văn hoá, an dưỡng...
2.2. Những khó khăn trong q trình phát triển kinh tế - xã hội:


Mặc dù có nhiều thuận lợi trong q trình phát triển kinh tế - xã hội, song quá
trình đi lên của tỉnh cũng khơng tránh khỏi một số khó khăn và hạn chế.
Điểm xuất phát của nền kinh tế thấp, GDP đầu người qua các năm thấp hơn

mức trung bình của cả nước, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm chỉ đạt từ 4-5%.
Cơ cấu kinh tế chuyển đổi chậm, một số ngành có khả năng thu hút lao động, giải
quyết việc làm thì chưa được đầu tư phát triển. Tỷ trọng nơng - lâm nghiệp trong
GDP cịn chiếm 52%, tỷ lệ huy động GDP vào đầu tư thấp (chiếm khoảng 3-4%
ngân sách). Ngân sách thu không đủ chi, mới đảm bảo được từ 35 - 40% nhu cầu
chi, còn lại nhờ vào ngân sách trung ương. Về xã hội, đời sống của một số bộ phận
dân cư các dân tộc cịn gặp nhiều khó khăn, số diện đói nghèo chiếm gần 20%,
hàng năm trong tỉnh có gần một vạn lao động thất nghiệp và nửa thất nghiệp, tệ
nạn xã hội ngày càng có phần gia tăng... Đây đang là vấn đề bức xúc về đời sống
xã hội cần được giải quyết trong thời gian tới của tỉnh. Một điều khơng kém đáng
lo ngại là trong tỉnh vẫn cịn một bộ phận không nhỏ cán bộ, nhân dân nặng tư
tưởng bảo thủ, quen tập quán canh tác giản đơn, ngại làm những công việc phức
tạp như ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến. Sản xuất cịn mang nặng tính tự
cung, tự cấp nhất là ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa... vẫn còn dáng dấp kinh tế tự
nhiên. Cơ sở vật chất, kỹ thuật còn yếu kém, một số nơi cịn tình trạng lười lao
động, nghiện hút... Tình hình đó cũng là trở ngại lớn cho sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh.
II. THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO CỦA TỈNH HỒ BÌNH - NGUN NHÂN - HẬU QUẢ
VÀ CÁC CHƯƠNG TRÌNH HỖ TRỢ CỦA TỈNH:

1. Thực trạng đói nghèo:

1.1. Sự phân hố giàu nghèo ở tỉnh Hồ Bình:
Là một vùng đất rộng, có nhiều đồi rừng, sơng, suối, nhiều tiểu vùng khí hậu
và nhiều dân tộc thiểu số. Nhưng Hồ Bình có nhiều điểm tương đồng về điều kiện
tự nhiên cũng như con người.


Sau những năm đổi mới, kinh tế Hồ Bình có nhiều khởi sắc. Song, nhìn tổng
thể đây vẫn là một vùng nghèo, điểm xuất phát thấp, tốc độ tăng trưởng chậm so

với cả nước. Thu nhập của dân cư so với mức trung bình của cả nước chỉ bằng
khoảng 70-80%, mức chi tiêu bằng 80%, tỷ lệ dùng điện 55%, tỷ lệ tích luỹ trong
dân cư thấp. Tuy vậy, trong dân cư đã xuất hiện xu hướng phân hoá giàu nghèo.
Theo số liệu của tổng cục thống kê, mức thu nhập bình qn người/ tháng của
Hồ Bình là 150 - 200 ngàn đồng, mức chênh lệch về thu nhập giữa hộ giàu và hộ
nghèo từ 650 - 700 ngàn đồng. Như vậy, có thể nói mức độ phân hố giàu nghèo
trong dân cư ở Hồ Bình cịn thấp so với các vùng khác. Tuy vậy, mức thu nhập ở
thành thị của Hồ Bình cũng chỉ bằng 60% mức trung bình của các thành thị khác
trong cả nước. Điều này chứng tỏ dân cư thành thị và nơng thơn ở Hồ Bình có thu
nhập thấp hơn mức trung bình của ca nước. Số hộ giàu ở Hồ Bình tập trung nhiều
và chiếm tỷ trọng lớn là ở trung tâm thị xã Hồ Bình và ở một số thị trấn lớn. Đó là
những hộ nghèo và trung bình trước đây mới giàu lên sau những năm đổi mới, họ
có vốn, có lao động, có kinh nghiệm sản xuất kinh doanh lại được cơ chế và các
chính sách kinh tế mới của Đảng và Nhà nước khuyến khích làm giàu chính đáng,
nên đã đầu tư phát triển ngành nghề, dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống. Những
năm gần đây, Hồ Bình cũng đã xuất hiện nhiều gương mặt làm ăn kinh tế giỏi,
song, tập trung chủ yếu ở các ngành nghề phi nơng nghiệp, hộ giàu lên từ nơng
nghiệp rất ít cả về số hộ và mức độ giàu.
Ở Hồ Bình, số hộ nghèo còn chiếm tỷ lệ cao so với cả nước. Số hộ nghèo tập
trung chủ yếu ở vùng nơng thơn, vùng đồng bào dân tộc ít người. Điều này cũng dễ
hiểu vì những vùng này đất đai sấu, chủ yếu là đồi núi trọc, núi đá vôi, đất sỏi đá...
Mùa hè nắng nóng và thiếu nước nghiêm trọng, mùa mưa thì lũ lớn vì sơng suối
nhiều, độ dốc cao, rừng đầu nguồn bị chặt phá nên tốc độ bạc màu, xói đất rất lớn.
Hơn nữa, Hồ Bình tập trung nhiều dân tộc ít người, quen sống du canh, du cư và
theo những phong tục, tập quán riêng của từng dân tộc. Do vậy, muốn ổn định cuộc


sống cho bộ phận này địi hỏi phải có thời gian và phương pháp hợp lý, khơng thể
nóng vội được.
Mặt khác, hộ nghèo ở Hồ Bình khơng những nghèo về vật chất mà cịn

nghèo cả về dân trí và đời sống tinh thần. Tỷ lệ hộ nơng thơn có máy thu hình là
35%, máy thu thanh là 70%, hộ dùng điện 55%, đều thấp hơn mức trung bình của
cả nước. Tỷ lệ mù chữ trong độ tuổi còn cao, một số vùng có nguy cơ tái mù chữ
lớn, số lao động đã qua đào tạo rất ít, thấp xa so với các tỉnh khác. Trình độ hiểu
biết, tiếp thu khoa học cơng nghệ cịn rất hạn chế...
Ngun nhân khiến cho nền kinh tế ở Hồ Bình cịn chậm phát triển là: Do
diều kiện tự nhiên không thuận lợi, cơ sở hạ tầng thấp kém. Mặt khác, còn do
những hạn chế và yếu kém trong khâu tổ chức chỉ đạo và điều hành của các ngành,
các cấp. Việc đổi mới hợp tác xã nơng nghiệp ở đây cịn chậm và lúng túng. Cán
bộ còn thiếu và yếu nhất là ở cơ sở, cịn nặng tư tưởng ỷ lại trơng chờ vào Nhà
nước... Do trình độ, năng lực cịn yếu kém nên việc tiếp thu và triển khai nghị
quyết Trung ương ở các cấp trên địa bàn tỉnh có nhiều khó khăn. Việc giao đất và
cấp giấy chúng nhận quyền sử dụng ruộng đất còn chậm so với cả nước.
1.2. Thực trạng đói nghèo:
Từ sau tái lập tỉnh (tháng 10 năm 1991) và từ khi thành lập Ban chỉ đạo xố đói
giảm nghèo năm 1994, đặc biệt sau 5 năm (1996 -2000) thực hiện nghị quyết số
02NQ/ TU của tỉnh uỷ Hoà Bình về phương hướng, mục tiêu, biện pháp xố đói
giảm nghèo. Tinh hình kinh tế xã hội tỉnh Hồ Bình đã có nhiều chuyển biến đáng
kể, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, nhiều
xóm bản, nhiều hộ gia đình được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ đã vươn lên xố
đói giảm nghèo, có kinh tế ổn định, thu nhập bình qn đầu người năm sau cao hơn
năm trước. Nhưng thực tế, so với mặt bằng của tồn quốc, tỉnh Hồ Bình vẫn là
một tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển, sản xuất cịn mang nặng tính tự cung, tự
cấp. Hồ Bình có 60 xã đang cịn trong tình trạng đói nghèo trong đó có 24 xã đặc
biệt khó khăn .Tỷ lệ đói nghèo cịn cao (gần 30%). Phần lớn hộ đói nghèo là những
hộ ở nông thôn, sản xuất thuần nông, trình độ dân trí thấp. Những hộ nghèo đói
chủ yếu là những hộ thiếu vốn và thiếu kiến thức, kinh nghiệm làm ăn. Vùng


nghèo, hộ nghèo còn lớn chủ yếu tập trung ở những xã vùng xa, vùng cao và vùng

bị thiên tai, mất mùa. Những nơi này cơ sở hạ tầng còn thiếu và yếu, đường giao
thơng đi lại khó khăn nhất là mùa mưa. Tỷ lệ đói nghèo bình qn ở những vùng
này trên 30%, thậm chí có xã lên tới 40-50%. Vấn đề an tồn lương thực ln là
nỗi lo của nhân dân vùng này. Đại bộ phận hộ nghèo chưa có chí làm ăn lớn, một
số cơ sở địa phương chưa có định hướng cụ thể về giúp đỡ những hộ đói nghèo
như: Xác định ni trồng các loại cây, con có giá trị kinh tế chủ lực và lâu dài...
Có thể khái qt tình trạng đói, nghèo ở tỉnh Hồ Bình qua bảng số liệu sau
(theo tiêu chí phân loại của Bộ lao động thương binh và xã hội):


BIỂU SỐ 01:
THỰC TRẠNG ĐĨI NGHÈO TẠI TỈNH HỒ BÌNH

Số TT
1

2
3
4
5
6

7

8
9
10
11
12
13

14

Chỉ tiêu

ĐV
tính

Số hộ nghèo đói
hộ
Trong đó:
- Hộ nghèo đói khu vực thành thị
hộ
- Hộ nghèo đói khu vực nơng thơn
hộ
+ Hộ đói kinh niên
hộ
+ Hộ đồng bào dân tộc ĐBKK
hộ
Số người nghèo
người
Tỷ lệ hộ nghèo đói
%
Số hộ thốt nghèo
hộ
Số hộ tái nghèo
hộ
Tổng số xã, phường của tỉnh
xã, ph
Trong đó:
- Số xã ĐBKK


- Số xã nghèo

Tỷ lệ đói nghèo của các xã
- Số xã có từ 40% hộ nghèo trở lên

- Số xã có từ 30-40% hộ nghèo

- Số xã có từ 20-30% hộ nghèo

- Số xã có từ 10-20% hộ nghèo

- Số xã có dưới 10% hộ nghèo

Thực trạng cơ sở hạ tầng xã nghèo
Số xã chưa có đường dân sinh đến TT


- Xã ĐBKK

Số xã thiếu trường học, phòng học

Số xã chưa có trạm y tế

Số xã thiếu hệ thống thủy lợi nhỏ

- Xã ĐBKK

Số xã có tỷ lệ hộ dùng nước sạch <


50%
- Xã ĐBKK

Số xã chưa có nguồn điện đến T.T xã

- Xã ĐBKK

Số xã chưa có chợ xã hoặc trung tâm



Năm 1999

Năm 2000

28.608

23.226

392
28.126
0
1.971
145.900
17,86
4.614
0
215

243

22.983
0
1.971
145.900
14,5
5.382
3
214

24
36

24
36

17
53
78
41
25

17
51
72
79
26

6

5


6
0
0
128
24

5
0
0
120
24

154

149

24
70
7

24
52
7

112

110



- Xã ĐBKK



24

18

Nguồn số liệu: Báo cáo tổng kết 2 năm thực hiện chương trình XĐGN của Sở
Lao động - TB & XH Tỉnh Hồ Bình.
1.3. Ngun nhân và hậu quả của đói nghèo:
* Nguyên nhân đói nghèo :
Theo điều tra cho thấy, các nguyên nhân của đói nghèo có rất nhiều, song có
thể tổng hợp thành nhóm các nguyên nhân sau:
Nhóm 1: Nhóm ngun nhân do mơi trường tự nhiên: Khí hậu khắc nghiệt, địa
hình phức tạp, xa xơi, thiên tai, dịch bệnh, tai nạn...
Nhóm 2: Nhóm do bản thân người nghèo như: thiếu vốn, thiếu kiến thức,
đông con, neo đơn, khơng có việc làm, mắc tệ nạn xã hội...
Nhóm 3: Nhóm ngun nhân do cơ chế chính sách: Thiếu các chính sách của
Nhà nước để phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ, đào tạo...
Những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng đói nghèo có liên quan với nhau
và hầu hết những người nghèo bị tác động bởi những nguyên nhân này, trong đó
nguyên nhân do chính bản thân người nghèo chiếm tỷ lệ lớn hơn cả.
* Hậu quả của đói nghèo:
Thứ nhất - Về mặt kinh tế:
Chúng ta đều biết, gia đình là tế bào của Xã hội “Dân có giàu thì nước mới
mạnh”, một bộ phận nghèo đói trước hết bản thân họ phải cam chịu khổ cực, thiếu
ăn, thiếu mặc và khơng đóng góp được gì cho cộng đồng, cho xã hội để xây dựng
cơ sở hạ tầng phúc lợi công cộng, nhà nước phải lo cứu tế, trợ giúp trong khi đang
phải chắt chiu cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện dại hố và đầu tư cho Quốc

phịng, an ninh. Vì lẽ đó phải bằng mọi giải pháp đồng bộ, đủ mạnh để sớm giải
quyết một bộ phận đang trong cảnh đói nghèo, để cùng đồng tâm cộng lực xây


dựng thành công chủ nghĩa xã hội, thực hiện: Dân giàu, nước mạnh - Xã hội công
bằng, vân minh.
Thứ hai - Về mặt xã hội:
Bản thân người nghèo, đói là một nguồn gốc trực tiếp dẫn đến sức khoẻ kém,
do thiếu các nguồn lực (thời gian và tiền) để được ăn uống đầy đủ, cũng như những
hậu quả của gánh nặng công việc, nhất là đối với phụ nữ. Cảnh nghèo cũng có thể
trì hỗn việc chẩn đốn bệnh tật và chữa trị sớm khiến cho bệnh nặng thêm, biến
chứng hoặc thành mãn tính. Thêm vào đó, trình độ học vấn của người mẹ, người
chăm sóc do nghèo đói mà thất học, dẫn đến thiếu năng lực tiếp cận, hiểu biết sử
dụng thơng tin y tế và phịng ngừa những bệnh thơng thường.
Do nghèo đói, con em họ ăn khơng đủ no, mặc không đủ ấm, dẫn đến suy
dinh dưỡng, bệnh tật dễ thâm nhập, mất khả năng lao động dã khó khăn lại càng
khó khăn hơn.
Do nghèo đói, khơng có điều kiện cho con em ăn học, dẫn đến thiếu kiến thức
văn hoá, hạn chế việc tiếp cận khoa học, kỹ thuật. Vì vậy, khơng biết sản xuất kinh
doanh có hiệu quả.
Kể cả trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng, đó là nạn cho vay nặng lãi, bán lúa
non, cây quả non ở nông thôn, nạn cờ bạc, số đề, hụi họ, trộm cắp, nghiện hút và
các tệ nạn xã hội khác, đó cũng là do đói nghèo mà ra.
Hiện nay, hàng loạt vấn đề xã hội đang được đặt ra, hoặc do hậu quả nặng nề
của nhiều năm chiến tranh, của nền kinh tế kém phát triển hoặc mới nảy sinh trong
quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Bởi thế, không thể cùng một lúc giải
quyết mọi vấn đề, trong lúc lao động xã hội còn thấp, tỉnh nghèo, nguồn thu ngân
sách còn hạn hẹp, đồng thời lại cịn phải tích lũy cho cơng nghiệp hố, hiện đại
hố. Vì vậy, cần phải đánh giá, phân tích kỹ lưỡng từng giải pháp thích hợp để thực
hiện có hiệu quả mục tiêu chương trình XĐGN.

2. Các chương trình hỗ trợ vốn phục vụ chương trình xố đói giảm nghèo của tỉnh:


BIỂU SỐ 02: TÌNH HÌNH CUNG ỨNG VỐN PHỤC VỤ CHƯƠNG TRÌNH XĐGN TỈNH
HỒ BÌNH GIAI ĐOẠN 1999 - 2000

Đơn vị: Triệu đồng.
Số
TT

Chỉ tiêu

A
1
2
3
4
5
6

Nguồn vốn từ ngân sách TW
Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng xã nghèo
Định canh định cư, di dân kinh tế mới
Hỗ trợ đồng bào dân tộc ĐBKK
Hướng dẫn người nghèo cách làm ăn & KN.KL
Nâng cao năng lực CB XĐGN và CB xã
Hỗ trợ khám chữa bệnh cho người nghèo

B
1

2
3
4

Hỗ trợ từ nguồn vốn tín dụng
Tín dụng cho hộ sản xuất từ NHNo
Hỗ trợ từ tín dụng NHNg
Từ vốn các tổ chức đồn thể
Từ QTD nhân dân

C
1
2

Hỗ trợ từ các dự án nước ngoài
Dự án hợp tác XĐGN Việt - Đức
Dự án chăn ni bị sinh sản của tổ chức ADRA

Tổng cộng

Năm
1999

Năm
2000

14.016
10.024
3.450
270

122
73
77

30.147
26.030
2.880
200
390
420
227

174.044
99.241
60.918
2.370
11.515

211.918
116.251
79.249
2.370
14.048

5.856
5.369
487

4.881
4.394

487

193.916

246.946

Nguồn số liệu: Báo cáo tổng kết 2 năm thực hiện chương trình XĐGN của Sở
Lao động - TB & XH Tỉnh Hồ Bình.
* Bài học kinh nghiệm:

So với thời kỳ trước đây, khi mà nông dân nghèo không thể vay vốn ở bất kỳ
tổ chức nào (ngoại trừ vay nặng lãi), thì hiện nay, trên địa bàn tỉnh đã có nhiều
kênh dẫn vốn đến với người nghèo, giúp người nghèo sản xuất kinh doanh, tăng
thu nhập. Đó là: Vốn Ngân sách, vốn Ngân hàng thương mại, vốn NHNg, vốn các
tổ chức tài chính khơng chính thức...


Thực tiễn cho thấy, các kênh tài trợ đều có kết quả nhất định trong việc tác
động gián tiếp và trực tiếp hỗ trợ người nghèo tổ chức sản xuất kinh doanh, tăng
thu nhập. Song, do cơ cấu thị trường tài chính trên, với mục đích người thụ hưởng
là hộ nghèo, nhưng có nhiều trường hợp vốn khơng đến trực tiếp hộ nghèo, thống
kê sản phẩm cuối cùng bị trùng lặp, khơng chính xác... Hoặc trong cùng một địa
bàn lại tồn tại nhiều hình thức tài trợ khác nhau với nhiều mức lãi suất khác nhau:
Có khi là cấp phát, có khi là cho vay, có khi là lãi suất ưu đãi và có khi là khơng lãi
suất... Trong khi lãi suất cho vay của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn là áp dụng theo lãi suất thị trường. Điều đó làm nảy sinh nhầm lẫn chính sách
khác nhau của Nhà nước trong nhân dân, có khi làm nảy sinh tiêu cực, tỵ nạnh, ỉ lại
hay người vay một lúc hai, ba nguồn, người không được vay lần nào, vay đó trả
đây... Kẻ ít người nhiều dễ gây thắc mắc, khiếu nại, tham ô, lợi dụng vốn ưu dãi để
làm ăn bất chính... Hơn thế nữa, các dự án thường trùng lắp nhau về thời gian giải

ngân, các hộ nghèo khơng có kinh nghiệm làm ăn, khơng có định hướng để sản
xuất, trình độ hiểu biết có hạn ... trong khi tỉnh lại chưa có một chính sách hợp lý,
đồng bộ để giải quyết các hạn chế đó. Vì thế, cùng lúc có khi là q nhiều nguồn,
gây ứ đọng vốn, nhưng có khi lại khơng có nguồn nào khiến cho hộ vay có nhu cầu
mà khơng có nguồn để vay hoặc có khi là có nguồn nhưng khơng biết vay để làm
gì. Điều đó làm nảy sinh yêu cầu cần phải thống nhất nguồn tài trợ cho chương
trình xố đói giảm nghèo về thời gian, lãi suất, phương thức, tổ chức tài trợ và tập
huấn, hướng dẫn cách làm ăn cho nông dân trước khi giải ngân.
III. THỰC TRẠNG TÍN DỤNG CỦA NHNo& PTNT TỈNH HỒ BÌNH VỚI CHƯƠNG
TRÌNH XỐ ĐĨI GIẢM NGHÈO CỦA TỈNH:

1. Tình hình huy động để cho vay hộ sản xuất thiếu vốn sản xuất kinh doanh:

1.1. Nguồn vốn:
Cuối năm 1991, cùng với việc tái lập tỉnh, NHNo & PTNT tỉnh Hồ Bình
được thành lập trên cơ sở của Ngân hàng Công thương thị xã và 9 Ngân hàng nông
nghiệp huyện. Với nguồn vốn ban đầu còn nhỏ bé và hoạt động trong cơ chế thị


trường cùng phương châm “Đi vay để cho vay”, NHNo & PTNT tỉnh Hồ Bình đã
thực hiện việc đa dạng hố các hình thức huy động vốn trong nước. Các hình thức
huy động khơng chỉ bó hẹp trong một vài hình thức huy động truyền thống, mà chủ
động đưa ra nhiều hình thức gửi tiền và đầu tư khác nhau như tiết kiệm có kỳ hạn,
khơng kỳ hạn, kỳ phiếu, trái phiếu, với nhiều kỳ hạn khác nhau: 3 tháng, 6 tháng, 9
tháng, 1 năm..., các mức lãi suất khác nhau và các hình thức trả lãi cũng khác
nhau... Nhờ đó mà NHNo & PTNT tỉnh Hồ Bình đã huy động được một khối
lượng vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế để đáp ứng
nhu cầu vốn cần thiết cho phần đông số dân cư đang khát vốn của tỉnh.
BIỂU SỐ 03 :
NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG TRÊN ĐỊA BÀN

THỜI KỲ 1999 - 2000

Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu

Năm 1999

Năm 2000

Tăng (+), giảm (-)

Số tiền

%

Số tiền

%

1. Tổng nguồn vốn huy động

240.010

100

354.533

a. Loại không kỳ hạn

105.494


44

b. Loại có kỳ hạn < 12 tháng

118.897

c. Loại có kỳ hạn > 12 tháng

15.619

2. Lãi suất bình quân tháng (%)

0,59

100

Số tiền
+ 114.523

%
+ 47,7

232.803

65

+ 127.309

+120,7


50

121.490

34

+

6

240

1

0,57

2.593

+2,2

- 15.379

-98
-0,02

Nguồn số liệu : Báo cáo tổng kết thường niên của NHNo & PTNT Tỉnh Hồ
Bình.
Từ năm 1991 đến nay, nguồn vốn huy động của NHNo & PTNT tỉnh Hồ
Bình vẫn khơng ngừng tăng trưởng vững chắc với tốc độ tăng bình quân hàng năm

là 10-12%. Đặc biệt trong 2 năm 1999 - 2000 nguồn vốn huy động của NHNo &
PTNT tỉnh Hồ Bình tăng mạnh: Từ 240.010 triệu đồng năm 1999 lên 354.533
triệu đồng năm 2000, với mức tăng là 114.523 triệu đồng và tốc độ tăng là 47,7%.
Trong đó :


- Nguồn vốn huy động không kỳ hạn năm 2000 là 232.803 triệu đồng, tăng so
với năm 1999 là 127.309 triệu đồng, đạt tốc độ tăng 120,7%.
- Nguồn vốn có kỳ hạn dưới 12 tháng năm 2000 là 121.490 triệu đồng, tăng so
với năm 1999 là 2.593.000 triệu đồng, đạt tốc độ tăng 2,2%.
- Nguồn vốn có kỳ hạn trên 12 tháng năm 2000 là 240 triệu đồng, giảm so với
năm 1999 là 15.379 triệu đồng, giảm 98%.
Với nguồn vốn tăng trưởng như trên NHNo & PTNT tỉnh Hồ Bình đã có
điều kiện để đẩy mạnh cho vay, đặc biệt là cho vay hộ sản xuất, từ đó góp phần
tích cực vào chương trình xố đói giảm nghèo của tỉnh.
Xét về cơ cấu nguồn vốn ta thấy rằng :
Qua 2 năm nguồn vốn huy động tăng trưởng chủ yếu tập trungvào nguồn vốn
khơng kỳ hạn do đó mà nguồn vốn không kỳ hạn chiếm tỷ trọng chủ yếu từ 44%
năm 1999 lên 65% tổng nguồn vốn huy động năm 2000.
Nguồn vốn có kỳ hạn dưới 12 tháng chiếm tỷ trọng từ 50% năm 1999 giảm
xuống 34% tổng nguồn vốn huy động năm 2000.
Nguồn vốn có kỳ hạn trên 12 tháng chiếm tỷ trọng từ 6% năm 1999 xuống
1% tổng nguồn vốn huy động năm 2000.
Với cơ cấu nguồn vốn như trên, NHNo & PTNT tỉnh Hồ Bình có điều kiện
để giảm thấp chi phí đầu vào nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu đầu tư giữa
cho vay ngắn hạn và cho vay trung, dài hạn. Đặc biệt là cơ cấu đầu tư đối với cho
vay hộ sản xuất.
l.2. Cho vay hộ sản xuất từ nguồn vốn huy động của Ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn tỉnh Hồ Bình:
Thực hiện chủ trương cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông, lâm,

ngư, diêm nghiệp và kinh tế nông thôn theo quyết định 67/ QĐ-TTg ngày 30/ 3/
1999 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát


triển nông nghiệp và nông thôn mà các văn bản trước đó là nghị quyết 10 của
BCT năm 1998, nghị định 14/ CT ngày 2/ 3/1993 về chính sách cho hộ sản xuất
vay vốn để phát triển nông - lâm - ngư - diêm nghiệp và kinh tế nông thôn. Với
nguồn vốn huy động được, NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình đã mở rộng cho vay
các thành phần kinh tế trên địa bàn. Đối với kinh tế nông nghiệp, đã đầu tư vốn
cho hộ sản xuất 100% số xã trong tỉnh, với số lượt hộ vay hàng năm trên 15
ngàn hộ. Vốn đầu tư chủ yếu phục vụ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cho
vay hộ sản xuất mua cây, con giống, phân bón, thuốc phịng trừ sâu bệnh, tăng
diện tích kết hợp thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật ni. Mở rộng diện
tích cây trồng các loại như cam, quýt, mơ, mai, cây lấy củ... trồng rừng, đặc biệt
là cho vay vốn để phát triển vùng nguyên liệu cho chế biến như mía đường, chè,
vùng kinh tế hàng hoá như dưa chuột, dưa hấu. Phát triển chăn ni trâu bị đàn,
lợn, gia cầm và ni cá lồng, cá ao... Cho vay mở mang ngành nghề, phát triển
thủ công nghiệp nhỏ, phương tiện vận tải, dịch vụ thương mại trong khu vực
nông thôn, thị trấn, thị xã, tạo cơng ăn việc làm, nhiều mơ hình kinh tế VACR
được hình thành và phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, bộ mặt nông
thôn của tỉnh đã được thay da đổi thịt, góp phần thực hiện chủ trương xố đói
giảm nghèo ở nơng thơn.
BIỂU SỐ 04 :
TÌNH HÌNH CHO VAY HỘ SẢN XUẤT THỜI KỲ 1999 - 2000

Đơn vị: Triệu đồng
Tăng (+), giảm (-)
Số tiền
%


Năm 1999
Số tiền
%

Năm 2000
Số tiền
%

205.666

100

224.238

100

+18.572

+9

104.610

100

120.654

100

+ 16.044


+15,3

- Dư nợ cho vay giảm lãi theo CS

7.803

7,5

40.633

33,7

+ 32.830

+420

Quá hạn

2.877

2,75

1.437

1,2

- 1.440

-50


85.361

82

99.542

82,5

+ 14.181

+16,6

Chỉ tiêu
1. TỔNG DƯ NỢ

Trong đó :
* Dự nợ cho vay hộ sản xuất

Phân theo loại cho vay :
- Dư nợ cho vay ngắn hạn


6.233

7,3

39.196

39,0


+ 32.963

+528,8

19.249

18

21.103

17,5

+ 1.854

+9,6

+ Dư nợ cho vay giảm lãi theo CS

1.570

8,2

4.238

20,0

+ 2.668

+169,9


2. Lãi suất dư nợ cho vay b.quân

1,09

+ Dư nợ cho vay giảm lãi theo CS
- Dư nợ cho vay trung hạn

0,9

Nguồn số liệu: Báo cáo thường niên của NHNo & PTNT tỉnh
Hồ Bình.
Tổng dư nợ năm 2000 là 224.238 triệu đồng, tăng so với năm 1999 là
18.572 triệu đồng, đạt tốc độ tăng 9%, tăng chủ yếu vào cho vay hộ sản xuất. Cụ
thể:
Dư nợ cho vay hộ sản xuất năm 2000 là 120.654 triệu đồng, chiếm tỷ trọng
53,8% trong tổng dư nợ, tăng so với năm 1999 là 16.044 triệu đồng và đạt tốc
độ tăng 15,3%. Đặc biệt dư nợ cho vay các xã thuộc khu vực II, III (theo phân
loại của Uỷ ban Dân tộc và miền núi đó là những khu vực khó khăn và đặc biệt
khó khăn - được giảm lãi theo chính sách) có tốc độ tăng trưởng nhanh. Dư nợ
cho vay năm 2000 là 40.633 triệu đồng, tăng so với năm 1999 là 32.830 triệu
đồng (bằng 420%), chiếm tỷ trọng trong tổng dư nợ từ 7,5% năm 1999 lên
33,7% năm 2000.
Từ cơ cấu nguồn vốn như đã phân tích ở trên đã ảnh hưởng trực tiếp đến cơ
cấu đầu tư của NHNo & PTNT tỉnh Hồ Bình, đặc biệt là cơ cấu đầu tư cho vay
hộ sản xuất.
Nợ ngắn hạn cho vay hộ sản xuất năm 2000 là 99.542 triệu đồng, chiếm tỷ
trọng 82,5% trong tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất, tăng so với năm 1999 là
14.181 triệu đồng và bằng 16,6%, trong đó dư nợ cho vay giảm lãi theo chính
sách là 39.196 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 39% tổng dư nợ ngắn hạn hộ sản xuất,
tăng so với năm 1999 là 32.963 triệu đồng, bằng 528,8%.

Nợ trung hạn cho vay hộ sản xuất năm 2000 là 21.103 triệu đồng, chỉ
chiếm tỷ trọng 17,5% tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất, tăng so với năm 1999 là
1.854 triệu đồng và bằng 9,6%, trong đó dư nợ cho vay giảm lãi theo chính sách


là 4.238 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 20% trong tổng dư nợ trung hạn hộ sản xuất,
tăng so với năm 1999 là 2.668 triệu đồng, bằng 169,9%.
Vốn Ngân hàng đã giúp các hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao mạnh
dạn vay vốn, góp phần khắc phục khó khăn trong sản xuất nhằm thốt khỏi tình
trạng sản xuất tự cung tự cấp, dần dần tiếp cận với cơ chế thị trường.
Cơ chế cho vay khơng ngừng được hồn thiện phù hợp với điều kiện, trình độ
của nơng dân nói chung và nơng dân nghèo nói riêng để họ dễ dàng tiếp cận với
đồng vốn của Ngân hàng.
1.3. Những tồn tại và ngun nhân trong cơng tác tín dụng đối với hộ sản xuất
ở tỉnh Hồ Bình:
* Về nguồn vốn:
- Tuy nguồn vốn huy động tăng qua các năm, nhưng nguồn vốn thường tăng
khơng ổn định và có chi phí bình qn đầu vào cao. Điều đó làm ảnh hưởng khơng
nhỏ đến khả năng đầu tư của Ngân hàng vì: Là Ngân hàng thương mại, NHNo &
PTNT tỉnh Hồ Bình phải tính tốn mức lãi suất cho vay (đầu ra) sao cho đủ bù
đắp lãi suất đầu vào, chi phí nghiệp vụ Ngân hàng và đảm bảo có lãi. Vì vậy, lãi
suất cho vay đối với hộ nơng dân nói chung, hộ nơng dân nghèo nói riêng là q
cao so với suất lợi nhuận mà người nông dân thu được. Ngược lại, nếu NHNo &
PTNT tỉnh Hồ Bình cho vay với mức lãi suất vừa phải (hộ nơng dân có thể chịu
đựng được) thì chênh lệch đầu ra đầu vào thấp, khơng đủ bù đắp chi phí nghiệp vụ.
Đây là điều trân trở lớn nhất không chỉ của riêng NHNo & PTNT tỉnh Hồ Bình và
của hộ nơng dân nghèo mà của cả các cấp bộ, ngành, của Chính phủ và đó cũng là
một trong những nguyên nhân trực tiếp chưa mở rộng được tín dụng đối với hộ
nơng dân nghèo, nhất là ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao và vùng tập
trung dân tộc ít người... gây ra tình trạng ứ đọng vốn ở NHNo & PTNT tỉnh Hồ

Bình.
- Nguồn vốn cho vay hộ nơng dân của NHNo & PTNT tỉnh Hồ Bình chủ yếu
là nguồn vốn huy động ngắn hạn, từ đó hạn chế việc đầu tư trung, dài hạn cho hộ


nông dân nghèo (dư nợ cho vay trung hạn hộ sản xuất tính đến 31/12/2000 là
21.103 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 17,5% tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất).
- Chưa khai thác hết tiềm năng vốn trong trong dân cũng như của các tổ
chức kinh tế, chưa có các biện pháp hữu hiệu để khơi tăng nguồn vốn, các thể
thức huy dộng còn nghèo nàn, đòn bẩy lãi suất chưa phát huy được hiệu quả,
còn cứng nhắc trong khâu điều chỉnh lãi suất...
- Chưa có chiến lược huy động vốn lâu dài, mới chỉ tập trung vào nhu cầu
trước mắt.
Nguyên nhân của những tồn tại đó là: Chưa xây dựng được chính sách huy
động phù hợp với đặc điểm riêng có ở địa bàn nơng thơn miền núi, chưa có biện
pháp động viên, khuyến khích nhân dân tham gia gửi tiền tiết kiệm, mở tài khoản
tại Ngân hàng, chậm đổi mới phương thức thanh toán qua Ngân hàng, cán bộ vẫn
quen lề lối làm ăn thời bao cấp, cứng nhắc, bảo thủ... và quan trọng hơn là chưa
nhận thức được tầm quan trọng của chiến lược huy động vốn ngày nay. Hơn nữa
Nhà nước cũng chưa xây dựng được cơ chế huy động vốn từ các doanh nghiệp dể
đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn thông qua hệ thống NHNo & PTNT.
* Về cho vay:
Có thể nói, cho vay trực tiếp hộ sản xuất không những là mốc quan trọng
trong quá trình đổi mới Ngân hàng, mà cịn được đánh giá như một cuộc cách
mạng trong nơng nghiệp, có ý nghĩa rất lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế nơng
nghiệp nơng thơn. Tuy vậy, tín dụng đối với hộ sản xuất ở Hồ Bình cịn một số
hạn chế.
Một là - Khơng mở rộng được tín dụng:
Tồn tại lớn nhất và quan trọng nhất trong hoạt động cho vay của NHNo &
PTNT tỉnh Hồ Bình là tốc độ tăng trưởng dư nợ chậm, gần như chững lại ở một

vài năm gần đây trong khi nhu cầu vốn cho hộ sản xuất còn rất lớn. Nguyên nhân
của tồn tại này là:


+ Chính quyền các cấp chưa xây dựng được chiến lược phát triển kinh tế cho
địa phương mình, chưa phát huy và khai thác được những lợi thế của tỉnh, để từ đó
có huớng đầu tư đúng đắn và hiệu quả, mặc dù ở nông thôn nông dân rất cần vốn
để phát triển sản xuất, nâng cao mức sống, còn vốn Ngân hàng thì đang tồn đọng,
khơng cho vay được. Giải quyết vấn đề này địi hỏi chính quyền các cấp, các nhà
quản lý cũng như ngành Ngân hàng phải chủ động tìm ra con đường đi cho dân,
hướng đầu tư vào vào những loại cây con gì , ngành nghề gì để đem lại hiệu quả
kinh tế cao và lâu bền nhất.
Thực tế cho thấy, nông dân được vay vốn của Ngân hàng và các nguồn khác
của Nhà nước đã khó, nhưng khi đã vay được thì việc sử dụng vốn vay cũng khơng
dễ dàng gì. Do đó, nhiều nơng dân khơng dám vay vốn vì nếu được vay rồi khơng
biết sử dụng vào sản xuất cái gì để có lãi. Tình trạng đó do nhiều ngun nhân:
Trình độ dân trí thấp, khơng đủ khả năng đối phó, năng động với sự thay đổi
thường xuyên hoặc bất thường của cơ chế thị trường; Thiếu khả năng, kinh nghiệm
tổ chức sản xuất, tính tốn lỗ lãi, quản lý chi tiêu gia đình...; Vì sự chỉ đạo của cấp
trên khơng sát với thực tế mang tính chủ quan duy y chí thiếu thực tiễn, thiếu khoa
học. Và có lẽ quan trọng hơn cả là nguyên nhân do nông dân thiếu hiểu biết về
khoa học kỹ thuật, thiếu kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp lại thiếu hướng dẫn, hỗ
trợ của các ngành chức năng... nên nơng dân đã gặp nhiều khó khăn trong việc vay
vốn, sử dụng vốn, phát huy nội lực của tiền vốn và các tiềm năng.
+ Vấn đề tiêu thụ sản phẩm: Thực tế trong mấy năm qua nhờ chuyển đổi cơ
cấu cây trồng vật ni, Hồ Bình cũng đã hình thành nên một số vùng chuyên canh
như mía đường, chè, dưa hấu, mận, mơ, mai... Song, cùng với nó lại bắt đầu xuất
hiện một khó khăn mới đó là vấn đề tiêu thụ sản phẩm hàng hố cho dân. Đây là
vấn đề bức bách đòi hỏi cần có sự quan tâm của các cấp lãnh đạo địa phương, vì
khơng giải quyết trọn vẹn vấn đề này sẽ dẫn đến tình trạng buộc dân phải chuyển

hướng cây trồng khác hoặc quay về với sản xuất tự cung tự cấp hoặc bỏ hoang
ruộng đất đi làm nghề khác... Thực tế trong hai năm qua (1997-1998) nhiều hộ


kinh tế ở một số địa phương trong tỉnh phất lên nhanh chóng nhờ chuyển đổi cơ
cấu kinh tế nhưng cũng nhiều hộ lại lụi bại đi từ chuyển đổi. Nguyên nhân chủ yếu
là các hộ không nắm được đầu ra của sản phẩm hàng hố do mình sản suất (chủ
yếu là sản phẩm hàng hố nơng nghiệp khơng chế biến được) như một số hộ trồng
dưa hấu, mơ, mai... thiếu các phương thức thu mua và chế biến nông sản cho dân.
+ Thiếu biện pháp tổ chức thực hiện các chương trình kinh tế như việc xây
dựng các mơ hình kinh tế hộ phù hợp với cơ chế mới, khuyến khích kinh tế hộ phát
triển theo mơ hình kinh tế VACR, mơ hình trang trại nơng - lâm kết hợp, đổi mới
hợp tác xã theo tinh thần nghị quyết Đại hội VIII của Đảng còn chậm. Điều này
cũng ảnh hưởng đến khả năng và quy mô đầu tư của Ngân hàng.
+ Việc giao đất, giao rừng còn chậm khiến cho dân chưa dám mạnh dạn đầu
tư vì sợ chế độ thay đổi.
+ Cơ sở hạ tầng nông thôn thấp kém, hiện tại cịn 11 xã chưa có đường ơ tô
đến trung tâm xã, chợ nông thôn nhiều nơi chưa có, nhiều xã chưa có hệ thống
điện. Vì thế, dân khơng có điều kiện dể trao đổi hàng hố và sử dụng điện làm thuỷ
lợi, dịch vụ, chế biến...
+ Sản xuất của hộ nơng dân ở tỉnh Hồ Bình vẫn cịn mang nặng tính tự
cung tự cấp, trình độ và kỹ năng sản xuất lạc hậu, năng suất lao động thấp, hộ vay
vốn khơng có tài sản thế chấp mà chủ yếu áp dụng hình thức tín chấp. Trong khi
đó, Nhà nước chưa xác định được một hành lang pháp lý rõ ràng để ràng buộc
người vay với Ngân hàng trong việc cung ứng tín dụng bằng biện pháp tín chấp,
khơng có bảo đảm. Từ đó làm tăng độ rủi ro trong cho vay hộ khơng có tài sản
thế chấp. Mặt khác, sản xuất nông nghiệp là một ngành sản xuất có mức rủi ro
lớn, khả năng thu hồi vốn thấp, quá trình sản xuất phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên. Trong điều kiện thời tiết không thuận lợi, dịch bệnh phát sinh, giá cả
khơng ổn định... thì khả năng trả nợ của hộ nông dân vay vốn không đảm bảo.

Điều đó làm ảnh hưởng đến thu nhập của Ngân hàng, giảm vốn tích luỹ, vịng
quay vốn chậm, hạn chế khả năng tái đầu tư.


+ Chi phí cho hộ nơng dân vay lớn: Do món vay nhỏ, lẻ; địa bàn rộng lớn;
điều kiện giao thơng khó khăn trở ngại và như vậy khơng những làm tăng chi phí
Ngân hàng mà cịn hạn chế việc thẩm định và kiểm tra sử dụng vốn vay của cán
bộ tín dụng, từ đó dễ dẫn đến rủi ro trong đầu tư.
+ Tồn tại cùng lúc nhiều phương thức đầu tư cho nông thôn với nhiều mức lãi
suất thấp hơn lãi suất cho vay hộ sản xuất của Ngân hàng nơng nghiệp. Từ đó mà
có sự so sánh về lãi suất.
+ Chưa đa dạng hóa được các hình thức chuyển tải vốn đến nông dân, chủ yếu
là cho vay trực tiếp đến hộ, cán bộ tín dụng phải thực hiện một khối lượng công
việc và quản lý một số lượng khách hàng lớn. Hiện nay, số cán bộ được bố trí làm
cơng tác tín dụng của tồn tỉnh là 139 người, chiếm 41% tổng số cán bộ viên chức
trong đơn vị (chưa đáp ứng được yêu cầu của NHNo Việt Nam). Bình qn một
cán bộ tín dụng cho vay hộ sản xuất quản lý 680 hộ vay, với mức dư nợ xấp xỉ 2 tỷ
đồng, đặc biệt có nhiều cán bộ phải quản lý từ 1.200 - 1.700 hộ vay, với mức dư nợ
trên 2,5 tỷ đồng. Với lực lượng cán bộ tín dụng được bố trí như hiện nay gặp rất
nhiều khó khăn trong việc mở rộng tín dụng.
Hai là - Chất lượng tín dụng chưa cao:
Nợ quá hạn tuy có giảm qua các năm, nhưng vẫn cịn cao so với định hướng
của NHNo Việt Nam. Trong đó nợ q hạn khơng có khả năng thu hồi chiếm 57%
tổng số nợ quá hạn, mặc dù Ngân hàng vẫn đang nắm trong tay tài sản thế chấp của
họ nhưng khó có thể phát mại để thu hồi nợ. Nguyên nhân của tình trạng này là:
Thứ nhất: Việc chấp hành các điều luật và thể lệ tín dụng ngắn hạn, trung - dài
hạn chưa nghiêm, còn vi phạm nguyên tắc, điều kiện, đối tượng cho vay... Cụ thể
như cho vay trong trường hợp vốn tự có tham gia quá nhỏ, thực hiện thủ tục thế
chấp tài sản sơ sài, cho vay không đúng đối tượng, chất lượng thẩm định dự án
kém...



Thứ hai: Chưa phản ánh đúng thực chất của các khoản nợ do việc xác định
thời hạn cho vay, gia hạn nợ, chuyển nợ quá hạn... Tình trạng cho vay mới trả nợ
cũ còn diễn ra phổ biến ở nhiều Ngân hàng cơ sở.
Thứ ba: Việc chấp hành quy trì n tín dụng chưa tốt, chất lượng thẩm định các
dự án cịn thấp. Việc kiểm tra, kiểm sốt các khoản tiền vay của khách hàng chủ
yếu giao cho cán bộ tín dụng trực tiếp theo dõi, kiểm tra, thu hồi nợ, chưa có sự
phối kết hợp chặt chẽ giữa các bộ phận trong bản thân từng đơn vị để thẩm định,
giám sát khách hàng vay. Mặt khác, trong điều kiện địa bàn hoạt động rộng, mỗi
cán bộ tín dụng quản lý khối lượng khách hàng lớn nên việc thẩm định cịn sơ sài
và cũng khơng thể nắm sát sao tình hình biến động trong quá trình sử dụng tiền vay
của khách hàng. Những điều đó cùng với sự bất cập về trình độ cán bộ đã làm tăng
thêm khả năng rủi ro do không thu hồi được nợ.
Thứ tư: Vai trị chủ động kiểm tra, kiểm sốt, tự phát hiện của các Ngân hàng
cơ sở làm chưa thường xuyên, chưa sâu sát và chưa nghiêm túc kể cả mặt nội dung
và phương pháp cũng như các biện pháp xử lý. Chất lượng kiểm tra nhất là phúc
tra, sửa chữa sau thanh tra chưa cao, xử lý chưa kiên quyết và chưa dứt điểm.
Ngoài một số nguyên nhân cơ bản trên, cịn một số ngun nhân khác như
mơi trường kinh tế không ổn định, thiên tai dịch bệnh... ảnh hưởng không nhỏ đến
hoạt động tín dụng của Ngân hàng nơng nghiệp tỉnh Hồ Bình. Trong khi đó thì
việc thực hiện các chính sách như khoanh nợ, dãn nợ, xố nợ cho dân của các cấp
Bộ ngành có liên quan cịn chậm và rầy rà làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
của Ngân hàng. Nhà nước cũng chưa có chính sách bảo hiểm rủi ro cho các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nơng nghiệp và chính sách bảo hiểm cây trồng vật
nuôi cho nông dân...
Ba là - Thiếu sự phối kết hợp với các cơ quan pháp luật, chính quyền địa
phương để xử lý các món nợ khách hàng lừa đảo, bỏ trốn hoặc cố tình chây ỳ, làm
ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Đồng thời cũng chưa phối hợp được với địa



phương trong việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây
trồng vật nuôi để từ đó có hướng đầu tư cụ thể.
Bốn là - Chưa tận dụng hết các nguồn vốn huy động được, đặc biệt là nguồn từ
các dự án cho vay theo chỉ định của Chính phủ, hoặc các dự án do Trung ương
nhận uỷ thác giao cho trong khi các đối tượng của dự án lại dang rất cần vốn để sản
xuất. Điều đó chứng tỏ Ngân hàng chưa có định hướng phát triển lâu dài dẫn đến
tín dụng chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Cơ cấu đầu tư chưa phù hợp,
cho vay trung hạn còn chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng dư nợ.
Những khó khăn trở ngại trên đây đã hạn chế việc mở rộng cho vay đối với hộ
sản xuất ở tỉnh Hồ Bình đặc biệt là đói với hộ nghèo. Nếu khơng có cơ chế tổ
chức và quy chế tín dụng thích hợp thì hoạt dộng tín dụng Ngân hàng đối với hộ
sản xuất nói chung và hộ nghèo nói riêng khơng thể duy trì và phát triển được, từ
đó mà mục tiêu của chương trình XĐGN của Nhà nước cũng khó có thể thực hiện.
2. Cho vay theo dự án xố đói giảm nghèo của Chính phủ Cộng Hồ liên bang Đức
tài trợ:

Trong 4 năm 1997 - 2000 Tỉnh Hồ Bình được nhận khoản vốn tài trợ của
CHLB Đức (Thông qua Bộ lao động -Thương binh và xã hội) với số vốn là 6.128
triệu đồng. Với mục tiêu của dự án là:
- Khoản tài trợ này được sử dụng để cho vay các khoản vay tín dụng nhằm
đảm bảo cho các hộ kinh tế gia đình nghèo ở nơng thơn tại các vùng có dự án đầu
tư sản xuất. Với việc hỗ trợ tín dụng cho các đối tượng trên nhằm tạo điều kiện
cho các hộ nghèo có điều kiện tăng các khoản đầu tư tốt hơn cho sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ để tạo việc làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống, XĐGN. Tức
là tạo cho các hộ nghèo “cú huých” ban đầu để người nghèo tự vươn lên vượt qua
đói nghèo.
- Thơng qua dự án tín dụng XĐGN này, các cấp địa phương xây dựng hệ
thống tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác XĐGN, xây dựng được các mô hình hộ,
xã XĐGN có hiệu quả, từ đó rút ra mơ hình thành cơng trên phạm vi rộng hơn.



- Thông qua việc chỉ đạo dự án, giúp cơ quan Trung ương thiết lập được cơ
chế quản lý các dự án chương trình mục tiêu Quốc gia xố đói giảm nghèo nói
chung. Đồng thời tạo tiền đề cho việc mở rộng quan hệ Quốc tế trong lĩnh vực
XĐGN, góp phần tạo nguồn lực để đẩy nhanh tiến độ xoá đói giảm nghèo, tạo mơi
trường bền vững XĐGN và giảm tỷ lệ đói nghèo ở các vùng thực hiện dự án.
Đối tượng hưởng thụ của dự án là hộ đói nghèo theo tiêu chuẩn của Bộ Lao
động - Thương binh và xã hội quy định. Với nguyên tắc hộ vay không phải thế
chấp tài sản mà thực hiện thông qua Ban XĐGN xã và tổ dự án, mức vay không
quá 2,5 triệu đồng, thời hạn vay không quá 36 tháng.
Dự án mới được thực hiện trong thời gian ngắn (3 năm) nên chưa có đủ cơ sở
để đánh giá một cách đầy đủ sự phát triển về kinh tế - xã hội của địa phương và
tăng thu nhập của hộ vay vốn. Tuy nhiên, cũng có một số đánh giá ban dầu như
sau:


BIỂU SỐ 05 :
KẾT QUẢ CHO VAY DỰ ÁN VIỆT - ĐỨC (KFW)

Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Tổng dự nợ:

Năm 1999
Số hộ
Số tiền
1.940
5.369


Năm 2000
Số hộ
Số tiền
2.841
4.394

- Chăn ni

1.785

4.991

2.625

3.754

+ Trâu, bị

1.065

4.033

1.597

3.164

720

958


1.058

590

- Trồng trọt

95

175

105

220

- Dịch vụ

25

85

46

100

- Khác

35

118


65

320

+ Lợn

- Lãi suất (%)

0,85

0,85

Nguồn số liệu: Báo cáo thực hiện chương trình dự án hợp tác Việt - Đức của
Sở LĐTB và XH Tỉnh Hồ Bình.
Với số tiền tài trợ trên, cùng với các nguồn vốn khác như vốn của NHNg, vốn
cho vay hộ sản xuất của NHNo & PTNT tỉnh, vốn của một số tổ chức quốc tế khác
đã đáp ứng được phần nào cho các hộ đói nghèo phát triển chăn ni, trồng trọt,
lao động sản xuất, nâng cao đời sống. Nhiều hộ gia đình đã sử dụng đồng vốn
trong việc sản xuất có hiệu quả. Bằng nhiều nguồn vốn cho vay hộ nghèo (trong đó
có nguồn vốn của chương trình hợp tác Việt - Đức), tuy là dự án mới thực hiện
nhưng cũng đã góp phần vào tiến trình xố đói giam nghèo của vùng nơng thơn
miền núi. Tỉnh Hồ Bình trong những năm qua bình quân mỗi năm giảm được
4,6% số hộ nghèo, tương đương trên 4.000 hộ. Cũng từ nguồn vốn này, đã giúp các
hộ đói nghèo nhận thức được tự vươn lên có sự trợ giúp của Nhà nước và cộng
đồng xã hội, không trông chờ ỷ lại sự cứu trợ của cấp trên. Đồng thời, cũng từ
những nguồn vốn này, đã đẩy lùi và chấm dứt tệ nạn cho vay nặng lãi ở các địa
phương trong tỉnh.
Tuy nhiên quá trình thực hiện cũng nổi lên một số hạn chế sau:



×