Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÁC NGHIỆP VỤ CHỦ YẾU CỦA NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.08 KB, 30 trang )

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÁC NGHIỆP VỤ CHỦ YẾU CỦA NGÂN
HÀNG

I. KHÁI QUÁT VỀ NHTM
1. Khái niệm, chức năng và các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM.
1.1 Khái niệm
NHTM được hiểu theo nhiều cách khác nhau ở các nước trên thế giới, nhưng nhìn
chung, họ đều xem đó một tổ chức chuyên nghề kinh doanh tiền tệ và cung cấp các dịch
vụ có liên quan đến tiền tệ cho thị trường. Nội dung này đã nói lên bản chất của hoạt động
ngân hàng.
Ở Việt nam, khái niệm về NHTM đã được quy định rõ trong Luật ngân hàng và các
tổ chức tín dụng, ban hành tháng 12/1997: ” NHTM là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực
tiền tệ, tín dụng và hoạt động chủ yếu và thường xuyên của nó là nhận tiền gửi của khách
hàng với trách nhiệp hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ
chiết khấu, cung ứng dịch vụ thanh toán và thực hiện các hoạt động khác có liên quan “.
1.2 Chức năng
1.2.1. Trung gian tín dụng.
Đây là chức năng quan trọng nhất, phản ánh nét rõ nhất bản chất của NHTM kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ. NHTM một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh
tế. Mặt khác, nó dùng chính số tiền đã huy động được cho vay đối với các thành phần kinh
tế trong xã hội hay nói cách khác, ngân hàng là một tổ chức đóng vai trò cầu nối giữa các
đôn vị thừa vốn với các đơn vị thiếu vốn chi tiêu. Thông qua sự điều chuyển này. NHTM
có vai trò thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế, tăng trưởng việc làm, cải thiện mức sống của
dân cư, ổn định thu chi của Chính phủ. Đồng thời, chức năng này còn góp phần quan trọng
trong việc điều hoà nền kinh tế, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát. Từ đó
cho thấy rằng đây chính là chức năng cơ bản nhất của NHTM.
1.2.2. Trung gian thanh toán
Hệ thống NHTM ra đời và phát triển đã làm thay đổi căn bản công tác thanh toán
không chỉ trong phạm vi một nước mà là cả trên phạm vi toàn thế giới, nó đã tạo ra một hệ
thống thanh toán không dùng tiền mặt khá hoàn hảo.
Trong khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã thu hút được hầu hết


các doanh nghiệp, các cá nhân mở tài khoản tại hệ thống ngân hàng. Ngân hàng đã trở
thành thủ quỹ cho vô số khách hàng, thực hiện thu chi theo lệnh của chủ tài khoản. Ngày
nay, ở các nước có hệ thống ngân hàng phát triển, hầu hết giao dịch thanh toán được thực
hiện thông qua ngân hàng băng cách trích tiền của người mua trên taì khoản của họ tại
ngân hàng và nhập vào tài khoản của ngưới bán. Đó là cơ sở và nội dung của chức năng
thanh toán.
Cùng với chức năng trung gian tín dụng, chức năng trung gian thanh toán làm cho hệ
thống NHTM có khả năng tạo tiền.
1.2.3. Chức năng tạo tiền
Chức năng này là hệ quả của hai chức năng trên. Quá trình tạo tiền thực chất là quá
trình kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động tín dụng và hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt của các hệ thống NHTM. Nhờ có sự kết hợp đó, từ một khoản tiền gửi ban đầu, hệ
thống NHTM có thể tạo ra một lượng bút tệ lớn hơn rất nhiều, mặc dù mỗi ngân hàng chỉ
cho vay trong phạm vi tiền gửi mà mình có.
Để thực hiện được chức năng này, các NHTM phải hoạt động thành một hệ thống có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau và với khách hàng trong hoạt động tín dụng và trong thanh
toán qua ngân hàng
1.3. Các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM
Dịch vụ ngân hàng đã tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường. Nhu cầu thị trường laị
thường xuyên thay đổi theo hướng ngày càng cao về chất lượng, đa dạng phong phú về
chủng loại. Đáp ứng sự thay đổi đó, các nghiệp vụ ngân hàng cũng được cải tiến và tăng
lên tương ứng về số lượng và chất lượng. Về cơ bản các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM
bao gồm: nghiệp vụ tài sản nợ, nghiệp vụ tài sản có và nghiệp vụ trung gian.
1.3.1. Nghiệp vụ tài sản nợ
Đây là nhóm các nghiệp vụ nhằm tạo lập nguồn vốn cho nhân hàng. Là một đơn vị
kinh doanh tiền tệ, nguồn vốn của ngân hàng là yếu tố quyết định tới quy mô hoạt động, uy
tín và sức cạch tranh của ngân hàng trên thị trường.
+ Trước hết, để có thể thành lập và đi vào hoạt động, chủ ngân hàng phải tạo lập
vốn tự có. Cách thức tạo lập nguồn vốn này tuỳ thuộc đó là loại hình ngân hàng nào.
- Đối với ngân hàng quốc doanh, vốn ban đầu do Nhà nước cấp, quy mô các ngân hàng này

thường khá lớn.
- Các ngân hàng cổ phần: vốn ban đầu do các cổ đông đóng góp bằng việc mua cổ phiếu.
- Các ngân hàng liên doanh tạo lập vốn bằng việc góp vốn của các bên liên doanh.
- Đối với các Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, vốn điều lệ là do ngân hàng mẹ cung cấp.
Trong quá trình hoạt động, NHTM thường xuyên sử dụng các biện pháp nghiệp vụ
để bảo toàn vốn và không ngừng nâng cao quy mô, chất lượng vốn tự có bằng cách trích
lập quỹ như: quỹ dự trữ, quỹ bảo toàn vốn… từ lợi nhuận thu được. Một số ngân hàng còn
nâng mức vốn tự có bằng các nghiệp vụ như: phát hành thêm cổ phiếu, huy động vốn liên
doanh… có vậy, ngân hàng mới mở rộng được quy mô hoạt động của mình và nâng cao
uy tín, khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường.
+ Nghiệp vụ huy động vốn: NHTM được coi là tổ chức kinh doanh tiền gửi, điều đó
cho thấy nghiệp vụ huy động tiền gửi quan trọng tới mức nào trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, có một số lượng vốn rất lớn của khách hàng
gửi tiền vào ngân hàng với các mục đích cơ bản như: lưu giữ tiền tệ an toàn, kiếm lãi từ
khoản tiền nhàn rỗi…
Thông qua hoạt động nghiệp vụ, ngân hàng đáp ứng được nhu cầu của các khách
hàng bằng cách đưa ra nhiều loại hình tiền gửi: tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn, tiền
gửi không kỳ hạn… nguồn vốn huy động dưới hình thức tiền gửi thường chiếm tỷ lệ lớn
trong tổng nguồn vốn mà ngân hàng dùng vào kinh doanh ( thường chiếm từ 70 - 80% ).
Ngân hàng cũng huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi…
nhằm mở rộng nguồn vốn, đáp ứng các nhu cầu tín dụng ngày càng đa dạng hoá các khách
hàng.
+ Nguồn vốn vay: Khi tạm thời thiếu vốn, NHTM có thể đi vay từ ngân hàng Nhà
nước, hoặc từ các tổ chức tín dụng, các NHTM khác. Trên thực tế, trong quá trình hoạt
động, quan hệ vay mượn giữa các ngân hàng thường xuyên xảy ra với thời hạn ngắn do
nguồn vốn và sử dụng vốn của mỗi ngân hàng biến động liên tục, lúc thừa lúc thiếu.
Trên cơ sở nguồn vốn tạo lập được, sau khi đã trích dự trữ theo quy định, ngân hàng
sử dụng nguồn này để cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ khác. Các hoạt động này
được thể hiện ở nhóm tài sản có của ngân hàng.
1.3.2. Nghiệp vụ tài sản có

+ Nghiệp vụ ngân quỹ: là các hoạt động tạo lập, quản lý, sử dụng các khoản tiền dự
trữ để đáp ứng các yêu cầu quản lý kinh doanh của ngân hàng.
Để đáp ứng nhu cầu rút tiền, nhu cầu thanh toán của khách hàng và cũng là chính
bản thân ngân hàng, mỗi ngân hàng điều phải giữ một khoản tiền mặt nhất định tại quỹ, tại
tài khoản tiền gửi thanh toán ở ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng khác. Khoản dự trữ
này không trực tiếp nhưng sinh lời cho ngân hàng nó rất cần thiết. Nó đảm bảo đáp ứng
kịp thời, đẩy đủ nhu cầu thanh toán chi trả cho khách hàng, điều có liên quan trực tiếp tới
uy tín của mỗi ngân hàng.
+ Nghiệp vụ tín dụng: là việc NHTM cho khách hàng vay một số tiền để họ sử dụng
trong một khoản tiền nhất định, khi hết hạn khách hàng sẽ phải trả tiền cho ngân hàng một
khoản tiền lớn hơn khoản vay ban đầu bao gồm cả gốc và lãi.
+ Nghiệp vụ đầu tư: ngân hàng thực hiện đầu tư vào chứng khoán Nhà nước, chứng
khoán công ty hoặc có thể đầu tư trực tiếp. Nhìn chung hoạt động đầu tư luôn có khả năng
sinh lời cao và chứa đựng nhiều rủi ro. Do đó, để đảm bảo an toàn của hệ thống ngân hàng
hầu hết các nước đều quy định: NHTM chỉ được sử dụng vốn tự có dể hùn vốn và tổng
các khoản đầu tư không được vượt quá tỷ lệ quy định.
1.3.3. Nhóm nghiệp vụ trung gian
Ngoài hai nghiệp vụ cơ bản nói trên, trong quá trình hoàn hiện chức năng và vai trò
của mình, các NHTM còn được thực hiện một số các nghiệp vụ khác của một trung gian
tài chính như:
- Nghiệp vụ bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết trả thay cho khách hàng trong
trường hợp khách hàng không có khả năng thanh toán.
- Nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt: thu hộ, chi hộ, chuyển tiền, thanh toán
theo L/C…
- Thanh toán ngoại hối, vàng bạc đá quý
- Nhận uỷ thác, ký gửi, tư vấn tài chính…
II. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA
NHTM.
1. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN.
1.1. Sự cần thiết của công tác huy động vốn ở ngân hàng.

Đối với ngân hàng : Đây là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho sự hoạt động của
ngân hàng. Về sau khi NHTM đã hình thành ổn định, các nghiệp vụ của nó được xen kẽ
lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động.
Huy động các nguồn vốn khác nhau ( tài sản nợ ) trong xã hội để hoạt động là hoạt
động quan trọng nhất của các NHTM. Ở các nước công nghiệp, với sự phát triển nhanh
của các thị trường tài chính, đã có rất nhiều loại tài sản có lợi tức ổn định và thanh toán cao,
tài sản nợ rất đa dạng làm cho việc tìm kiếm vốn hoạt động của NHTM trở thành sự cạnh
tranh khốc liệt, trước mắt các ngân hàng ở các nước phát triển luôn luôn xuất hiện vấn đề
làm thế nào để có đủ vốn cho vốn đầu tư giữa môi trường cạnh tranh gay gắt. NHTM phải
cạnh tranh với những ngân hàng khác, với các tổ chức tài chính khác, với các nghiệp vụ thị
trường trực tiếp và với bất cứ tổ chức nào khác muốn thu hút một khối lượng vốn nào đó.
Ngoài ra nếu có một cơ cấu nguồn vốn phù hợp sẽ giúp cho ngân hàng giảm được
rủi ro, tăng khả năng kinh doanh , hoạt động có hiệu quả .Hơn nữa , một ngân hàng có tỷ lệ
an toàn vốn cao sẽ làm tăng uy tín của mình , có khả năng cạnh tranh lớn.
Còn đối với khách hàng, huy động vốn của ngân hàng giúp cho khách hàng thực
hiện tiết kiệm , sử dụng được vốn nhàn rỗi, vừa an toàn vừa sinh lời. Đối với xã hội , huy
động vốn giúp cho nền kinh tế tập trung được một lượng vốn lớn để thực hiện đầu tư lớn
vào những lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế, góp phần vào việc phát triển cơ sở hạ
tầng ...
1.2. Các nguồn vốn của ngân hàng.
Nguồn vốn của một NHTM bao gồm vốn tự có của chủ sở hữu, vốn huy động, vốn
vay ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng, ở các nước đang phát triển còn có nguồn
vốn uỷ thác đầu tư. Vốn tự có là nguồn vốn khởi tạo để cho ra đời một NHTM, tuy chiếm
tỷ trọng nhỏ nhưng có vai trò quyết định quy mô, tầm vóc và uy tín của ngân hàng.
NHTM thực hiện việc đi vay để cho vay bằng việc huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân,
đi vay ngân hàng khác ( ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng ) hoặc nhận vốn uỷ
thác đầu tư từ Chính phủ, các tổ chức ở nước ngoài.
a/ Vốn tự có NHTM: là nguồn vốn thuộc sở hữu của ngân hàng, được tạo ra bằng
cách bán cổ phần hoặc từ lợi nhuận giữ lại. Nó cũng có thể bao gồm loại vốn mà ngân
hàng được phép sử dụng lâu dài theo pháp luật riêng của từng nước. Đối với các NHTM

thuộc sở hữu Nhà nước thì chỉ có một cổ đông duy nhất. Đó chính là Nhà nước.
* Cơ cấu vốn tự có: vốn tự có ngân hàng gồm hai phần : vốn tự có cơ bản và vốn tự
bổ xung
Vốn tự có cơ bản: Gồm cổ phần thường, thặng dư vốn, lợi tức không chia, cổ phần
ưu đãi vĩnh viễn, khoản dự trữ thiệt hại cho vay.
Bất kể ngân hàng nào khi thành lập đều phải có một mức vốn tự có cơ bản ít nhất là
ngang bằng vốn pháp định. Theo luật công ty ở các nước cũng như ở Việt nam đều có điều
khoản quy định một mức vốn tối thiểu cho mỗi loại hình cho công ty mới thanh lập theo
từng ngành nghề riêng biệt gọi là vốn pháp định. Mặt khác luật công ty cũng quy định về
điều lệ hoạt động của các công ty do các cổ đông sáng lập, trong đó chấp hành vốn điều lệ
của công ty do cổ đông sáng lập ấn định, với điều kiện mức vốn này ít nhất bằng vốn pháp
định quy định cho mỗi loại hình công ty.
Như vậy chung ta thấy vốn cổ phần của một ngân hàng khi mới thành lập có thể
bằng vốn điều lệ ngân hàng ( trường hợp bán được hết cổ phần ). Nhưng phải ít nhất bằng
vốn pháp định thì ngân hàng đó mới được cấp giấy phép hoạt động.
Thặng dư vốn là chênh lệnh do xác định giá trị tài sản cố định của ngân hàng so với
mua sắm ban đầu.
Lợi nhuận không chia: là phần lợi tức hàng năm theo quyết định của đại hội cổ đông
giữ lại bổ xung thêm vốn tự có ngân hàng.
Cổ phần ưu đãi vĩnh viễn: là loại chứng khoán, có lãi suất cố định cho người sở hữu,
người giữ cổ phiếu ưu đãi không có quyền biểu quyết hoạt động ngân hàng. Ngân hàng
phát hành cổ phần ưu đãi phải trả lợi tức cho cổ phiếu từ lợi nhuận của ngân hàng, không
phải từ chi phí mà còn từ lợi nhuận sau thuế, Trường hợp ngân hàng không có lợi nhuận để
trả lãi cho cổ phiếu ưu đãi, người giữ cổ phiếu ưu đãi không có quyền buộc ngân hàng phá
sản. Tuy nhiên, sau một năm nếu không buộc trả lãi cổ đông ưu đãi có quyền chuyển đổi
cổ phiếu ưu đãi sang cổ phiếu thường.
Khi có yêu cầu tăng vốn tự có, ngân hàng thường phát hành cổ phiếu ưu đãi, tuy phải
chi phí vốn cao ( lợi tức sau thuế ) nhưng không làm giảm sút quyền lợi của cổ đông.
Người mua cổ phiếu ưu đãi có thu nhập ổn định theo lãi suất cố định, không như cổ phần
thường phụ thuộc vào lợi nhuận hàng năm của ngân hàng.

Khoản dự trữ thiệt hại cho vay: Xuất phát từ cho vay bao giờ cũng xảy ra rủi ro và
mất mát, do vậy các ngân hàng đều duy trì dự trữ cho các khoản tổn thất. Các NHTM
được phép trích lập quỹ dự trữ đặc biệt này từ các khoản thu nhập trước thuế. Cũng có
quốc gia quy định trích lập quỹ này từ lợi nhuận sau thuế theo một tỷ lệ nhất định.
- Vốn tự có bổ xung: Bao gồm cổ phần ưu đãi thời hạn, giấy nợ và tín phiếu vốn.
Cổ phiếu ưu đãi có thời hạn là loại chứng khoán như đã trình bày trên, nhưng có thời
hạn ít nhất 7 năm.
Tín phiếu vốn và giấy nợ cũng là những công cụ gọi vốn có lãi suất cố định, nhưng
có thời hạn đáo hạn trên 7 năm. Chúng được ngân hàng lập kế hoạch trả nợ theo thứ tự
từng loại hoặc được trả góp hàng năm là phải bằng nhau. Do các công cụ này có thời hạn
đáo hạn nên đến kỳ hạn đáo hạn người giữ nó sẽ hoàn trả lại cho ngân hàng làm lượng vốn
tự có của ngân hàng giảm xuống.
b/ Nguồn vốn huy động
Có nhiều cách phân loại kết cấu vốn huy động, ở đây chỉ đưa ra 2 cách phân loại kết
cấu vốn huy động.

Kết cấu vốn huy động phân theo hình thức huy động:
Tiền gửi ( hay còn gọi là tiền ký thác ) của khách hàng thông thường được xem là số
tiền gửi vào tài khoản của họ ở ngân hàng. Thông thường ở các nước thì khách hàng xin
mở tài khoản là nhằm hưởng các tiện ích mà ngân hàng có thể cung cấp cho họ. Khách
hàng cũng thường gửi tiền để lấy lãi, như gửi tiền vào sổ tiết kiệm, tài khoản có kỳ hạn.
trường hợp này khách hàng không được quyền sử dụng các dịch vụ của ngân hàng chẳng
hạn như séc để thanh toán… Do đó người gửi tiền cảm thấy việc ngân hàng tuỳ nghi sử
dụng số dư của tiền gửi là chính đáng.
- Tiền gửi không kỳ hạn: đây là loại tiền do khách hàng gửi vào ngân hàng nhằm mục
đích giao dịch với nhau. Trên thực tế người gửi tiền chỉ muốn đổi hình thức tiền tệ khác thuận
tiện hơn cho họ, người gửi có thể sử dụng tiền vào bất cứ lúc nào khi họ muốn, tiền gửi không
kỳ hạn thường không được trả lãi và khách hàng co thể được hưởng các dịch vụ miễn phí.
Khách hàng phát hành séc hoặc các chứng từ thanh toán khác do ngân hàng quy định. Loại
tài khoản này thường tạo cho ngân hàng nhiều việc phải làm, do đó lý do tại sao ngân hàng ít

khi trả lãi cho loại tiền gửi này.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền có ấn định cụ thể thời gian đáo hạn, khách hàng gửi
vào NHTM với mục đích vừa thu lãi để dành chi dùng, mua sắm tài sản về sau, hoặc cho nhu
cầu chi tiêu dự định trong tương lai. Ngươì gửi tiền được hưởng lãi suất nhất định khi tới hạn
rút tiền.Để quản lý các loại tiền gửi có kỳ hạn, các NHTM sử dụng tài khoản tiền gửi có ký
hạn. Thực ra các tài khoản tiền gửi có kỳ hạn không phải là những ký thác theo nghĩa của
pháp lý mà nó có dạng như là một khoản tiền vay của ngân hàng nhưng lại không thể hiện
bằng một phiếu khoán. Về nguyên tác khoản tiền gửi, ngân hàng có thể cho vay bằng cách
cho người gửi tiền vay trong thời hạn số tiền đã ký thác với lãi suất không lớn hơn lãi suất
ngân hàng trả cho tài khoản tiền gửi có kỳ hạn. Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn nhìn chung
không được phát hành séc.
- Tiền gửi có kỳ hạn báo trước ( ký thác có báo trước ): là loại ký thác có quy định
ngày đáo hạn nhưng có thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng khi cần rút tiền phải báo
trước ( từ 8 – 15 ngày ).
♦ Xét về mặt kinh tế việc thông báo nhằm mục đích giúp ngân hàng chuẩn bị số tiền
đủ thanh toán, thì nó là một tài khoản tiền gửi ( ký thác ).
♦Xét về mặt pháp lý, ký thác có báo trước cho phép khách hàng phát hành séc, do
đó nó giống như một tài khoản tiền vay của ngân hàng. Ký thác có báo trước được trả lãi
nhưng thấp hơn lãi trả cho tiền gửi có kỳ hạn.
♦ Nhiều ngân hàng đã kết hợp hai loại tiền gửi có kỳ hạn và ký thác có báo trước để
thành tiền gửi có kỳ hạn nhưng khi cần có thể rút tiền trước, miễn là phải báo trước cho
ngân hàng một thời gian theo qui định, tuỳ số tiền lớn hay nhỏ.
- Tiền gửi tiết kiệm: tiền gửi tiết kiệm thường là tiền gửi của dân cư do chưa co nhu cầu sử
dụng ngay gửi vào ngân hàng. Ngân hàng thường trả lãi cho tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất
tiền gửi, người gửi tiền được ngân hàng cấp một sổ tiết kiệm phục vụ cho việc ghi chép gửi
và rút tiền. Tiền gửi tiết kiệm không được phát hành séc. Việc điều hành các tài khoản tiền gửi
tiết kiệm tại phần lớn các nước được quy định:
♦Sổ tiết kiệm chỉ được mở cho các thể nhân, chỉ mở cho mỗi người một sổ. Khi gửi
người gửi phải cam đoạn chưa mở tài khoản tiết kiệm tại ngân hàng khác.
♦Số dư tối đa của sổ tiết kiệm được quy định cho từng thời kỳ.

♦Chỉ có chủ tài khoản mới được rút tiền, không được sử dụng séc.
Ở Việt nam tiết kiệm gồm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
: tài khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn có xác định thời gian đáo hạn . Khi đáo hạn, người
gửi không đến rút ngân hàng có thể tự động được chuyển sang một kỳ hạn mới, lãi được
tính khi đáo hạn. Tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn có thể có lãi suất thấp hơn tiền
gửi tiết kiệm có kỳ hạn, được rút tiền theo ý muốn , lãi được tính hàng tháng nhưng chỉ
được nhập lãi vào gốc theo quý.
- Chứng chỉ tiền gửi ( Certificates of deposits – CDs ) do ngân hàng phát hành ghi rõ thời gian
đáo hạn và số lượng tiền gửi, lãi luất ( cố định hoặc giao động ) tuỳ sự lựa chọn của khách
hàng. Chứng chỉ tiền gửi nếu ghi tên người gửi gọi là tiền gửi vô danh là loại có thể chuyển
nhượng được và được bán trên thị trường thứ cấp trước ngày đáo hạn .


Kết cấu vốn huy động phân theo thời gian
Kết cấu huy động vốn phân theo thời gian chia vốn huy động thành vốn huy động
ngắn hạn và vốn huy trung - dài hạn. Mục đích của sự phần chia này nhằm kế hoạch hoá
cho công tắc đầu tư, cho vay, đồng thời cũng giúp ngân hàng tính toán thời gian người gửi
rút tiền để chuẩn bị khả năng thanh toán một chác chủ động.
- Vốn huy động ngắn hạn : bao gồm các khoản tiền gửi không kỳ hạn và các khoản tiền gửi có
kỳ hạn dưới 1 năm. NHTM dùng các khoản vốn huy động ngắn hạn chủ yếu cho vay ngắn
hạn. Nếu có sử dụng vốn ngắn hạn vào đầu tư trung, dài hạn cũng chỉ sử dụng tỷ lệ nhỏ trong
tổng số vốn ngắn hạn bởi việc dùng vốn ngắn hạn đầu tư trung, dài hạn rất nguy hiểm khi có
những dòng tiền rút ra. Nếu ngân hàng không có đủ khả năng chi trả sẽ bị vỡ nợ; để cố gắng
lo đủ khả năng chi trả, NHTM cũng sẽ gặp rủi ro lớn do phải bán các chứng khoản nợ ... chắc
chắn sẽ gây thiệt hại về tài chính và uy tín của ngân hàng .
- Vốn huy động trung, dài hạn là những khoản tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên. ngân
hàng thường phải trả lãi cho người gửi tiền trung, dài hạn cao hơn so với tiền gửi vốn ngắn
hạn nhưng với tính chất tương đối ổn định hơn, thời gian đáo hạn dài hơn và kế hoạch trả nợ
xác định hơn, giúp doanh nghiệp có vốn mở rộng cho kinh doanh, cải tiến kỹ thuật đầu tư
mới…



Tính chất của nguồn vốn huy động
Nguồn vốn huy động là nguồn vốn có tính chất giao động và luôn biến đổi. Nó phụ
thuộc vào mức thu nhập của dân chúng, tâm lý muốn giữ tiền hay tài sản hiện vật của công
chúng, phụ thuộc và lãi suất thị trường đặc biệt là lãi suất do các NHTM đưa ra trong việc
cạnh tranh nguồn tiền gửi. Loại tiền gửi không kỳ hạn thường biến động nhiều nhất, do
vậy khó có thể kế hoạch và sử dụng được nguồn này để cho vay dài hạn, NHTM thường
chỉ sử dụng vào việc lập các dự trữ sơ cấp để bổ sung cho dự trữ ngân quỹ hoặc cho vay
ngắn hạn. Loại tiền gửi có kỳ hạn là loại nguồn vốn ngân hàng có thể kế hoạch việc sử
dụng, thông thường ngân hàng sử dụng vào việc cho vay ngắn hạn. Loại nguồn vốn huy
động có kỳ hạn dài một năm trở lên có thể được ngân hàng sử dụng để cho vay trung và
dài hạn.
c/ Nguồn vốn đi vay.


Vay từ ngân hàng Nhà nước dưới hình thức chiết khấu.
Trong những điều kiện nhất điịnh, để đáp ứng được nhu cầu thanh khoản cần bổ
sung vốn dự trữ ngân quỹ, khi các khoản tín dụng chưa tới kỳ đáo hạn và việc giữ các tài
sản có của ngân hàng là có lợi hơn nếu đem bán lại cho NHTM. Vay vốn từ ngân hàng
Nhà nước dưới các hình thức chiết khấu để bù đáp sự thiếu hụt tạm thời. Thường các
NHTM vay chiết khấu từ ngân hàng Nhà nước phải sử dụng các công cụ vay mượn là:
Thương phiếu, chứng khoản của Chính phủ… Những chứng khoán được ngân hàng Nhà
nước chấp nhận thế chấp tiền vay là lọai có chất lượng cao; thời gian đáo hạn ngắn; được
giao dịch ở Sở chứng khoán. Mức lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào chính sách quản lý vĩ
mô về cung ứng tiền tệ của ngân hàng Nhà nước. Trong những giai đoạn thắt chặt tiền tệ
thì việc vay chiết khấu từ ngân hàng Nhà nước là cực kỳ khó khăn, lãi suất chiết khấu cao,
thậm chí có thể bị từ chối không được vay.



Vay từ các nguồn khác
Khi điều kiện khó khăn tài chính nhất thời, các NHTM cũng có thể đi vay từ các
NHTM khác dưới hình thức thế chấp, hoặc tín chấp thời hạn ngắn ( một ngày, một vài
tuần…) với lãi suất thoả thuận giữa hai NHTM với nhau. Những món vay này thông
thường là bổ sung dự trữ bắt buộc hoặc thiếu hụt thanh toán.
Tính chất của các khoản vốn vay này là có kỳ hạn nhất định, thông thường là thời
gian ngắn, nó được coi như là các biện pháp bổ sung thiếu hụt tài chính tạm thời cho
NHTM có tính thời điểm. Song cũng có NHTM coi việc bổ sung bằng vốn vay thay cho
việc phát hành cổ phiếu tăng vốn tự có, nó là biện pháp thay đổi lại cấu trúc tài sản Nợ của
ngân hàng với mục đích tăng lợi nhuận cho cổ đông, bởi lý do chi phí trả tiền vay là chi phí
trước thuế.
d/ Nguồn vốn tài trợ uỷ thác đầu tư.
Nguồn vốn tài trợ uỷ thác đầu tư thông thường suất hiện ở các nước đang phát triển,
do các tổ chức tài chính nước ngoài cung cấp, thông qua các hiệp định Nhà nước ký với
các tổ chức tài chính nước ngoài. NHTM nhận vốn này thực chi các dự án để được hưởng
hoa hồng, cũng có những trường hợp NHTM được chính phủ uỷ qyuền quan hệ trực tiếp
với tổ chức tài chính nước ngoài vay vốn để tài trợ cho những dự án phát triển kinh tế trong
nước. Trường hợp này khi nước ngoài chuyển vốn vào, Chính phủ ghi thu ngân sách, sau

×