Tải bản đầy đủ (.docx) (116 trang)

Các yếu tố tâm lý, nhận thức tác động đến sự tham gia bảo hiểm y tế của hộ cận nghèo tại tỉnh bến tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (838.72 KB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THANH LONG

CÁC YẾU TỐ TÂM LÝ, NHẬN THỨC
TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ THAM GIA BẢO
HIỂM Y TẾ CỦA HỘ CẬN NGHÈO
TẠI TỈNH BẾN TRE

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh, Năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THANH LONG

CÁC YẾU TỐ TÂM LÝ, NHẬN THỨC
TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ THAM GIA BẢO
HIỂM Y TẾ CỦA HỘ CẬN NGHÈO
TẠI TỈNH BẾN TRE
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60340402

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Phạm Khánh Nam


Tp. Hồ Chí Minh, Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
*

Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích
dẫn và số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác
cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.
Luận văn này không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trường Đại học
Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh.
Tp.Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 4 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Thanh Long


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
DANH MỤC CÁC BẢNG
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU................................................. 1
1.1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................................................... 2
1.3. Câu hỏi nghiên cứu........................................................................................................................... 3
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................................................... 3
1.5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................................ 3

1.6. Kết cấu luận văn................................................................................................................................. 4
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU............................5
2.1. Một số khái niệm............................................................................................................................. 5
2.1.1. Bảo hiểm........................................................................................................................................... 5
2.1.2. Bảo hiểm y tế................................................................................................................................... 5
2.1.3. Hộ nghèo, hộ cận nghèo.............................................................................................................. 8
2.2. Bản chất của BHYT..................................................................................................................... 11
2.3. Vai trò của BHYT......................................................................................................................... 15
2.4. Tâm lý, nhận thức và mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi.............................. 17
2.4.1. Tâm lý là gì.................................................................................................................................... 17
2.4.2. Hoạt động nhận thức là gì........................................................................................................ 17
2.4.3. Mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi.............................................................................. 18
2.5. Lý thuyết về hành vi ngƣời tiêu dùng................................................................................ 19
2.5.1. Hành vi người tiêu dùng........................................................................................................... 19
2.5.2. Những yếu tố chính ảnh hưởng đến hành vi của người tiêu....................................... 21
2.5.3. Các mô hình về tâm lý và nhận thức tác động đến hành vi tiêu dùng.....................27
2.6. Mô hình và giả thiết nghiên cứu............................................................................................ 31
CHƢƠNG 3: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU................................................................................ 34


3.1. Quy trình nghiên cứu.................................................................................................................. 34
3.2. Thiết kế nghiên cứu..................................................................................................................... 39
3.2.1. Quy trình nghiên cứu................................................................................................................. 39
3.2.2. Thiết kế mẫu.................................................................................................................................. 40
3.2.3. Phân tích Cronbach’s Alpha.................................................................................................... 40
3.2.4. Phân tích nhân tố khám phá EFA.......................................................................................... 41
CHƢƠNG 4: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.................................................... 43
4.1. Tình hình thực hiện bảo hiểm y tế cho các hộ cận nghèo ở Bến Tre...................43
4.1a. Thống kê mô tả mẫu khảo sát.............................................................................................. 45
4.2. Kết quả kiểm định độ tin cậy của thang đo..................................................................... 46

4.3. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA...................................................................... 48
4.3.1. Kết quả phân tích EFA các nhân tố độc lập....................................................................... 48
4.3.2. Phân tích EFA nhân tố phụ thuộc.......................................................................................... 50
4.4. Kiểm định mô hình nghiên cứu và các giả thuyết.............................................................. 50
4.4.1. Phân tích tương quan.................................................................................................................. 50
4.4.2. Phân tích hồi quy bội................................................................................................................. 51
4.4.3. Dò tìm sự vi phạm giả định cần thiết trong hồi quy bội............................................... 53
4.4.4. Kiểm định các giả thuyết.......................................................................................................... 56
4.5. Kiểm định sự khác biệt về các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia BHYT của hộ
cận nghèo tỉnh Bến Tre.......................................................................................................................... 57
4.5.1. Kiểm định sự khác biệt theo trình độ................................................................................... 57
4.5.2. Kiểm định sự khác biệt theo nghề nghiệp.......................................................................... 58
4.5.3. Kiểm định sự khác biệt theo chi tiêu bình quân đầu người......................................... 58
CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT ỨNG DỤNG KẾT QUẢ........................... 60
5.1. Những kết luận chính................................................................................................................. 60
5.2. Đề xuất ứng dụng kết quả vào thực tiễn............................................................................ 60
5.2.1. Yếu tố chi phí................................................................................................................................ 60
5.2.3. Nâng cao niêm tin của người tham gia với BHYT......................................................... 63
5.3. Nâng cao sự hiểu biết của người về BHYT thông qua việc đẩy mạnh công tác
tuyên truyền................................................................................................................................................ 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
EFA: Phân tích nhân tố khám phá
ITA: Hiệp hội nhãn hiệu thương mại quốc tế
WIPO: Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới
BHYT: Bảo hiểm y tế
BHXH: Bảo hiểm xã hội

BHTM: Bảo hiểm thương mại
DNBH: Doanh nghiệp bảo hiểm
KCB: Khám chữa bệnh
HĐND: Hội đồng nhân dân
UBND: Ủy ban nhân dân
GTTB: Giá trị trung bình


DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
Hình 2.1: Mô hình hành vi của người mua (Philip Kotler, 2005)
Hình 2.2: Mô hình chi tiết các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng
Hình 2.3: Mẫu thức chi tiết các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi người tiêu dùng
Hình 2.4: Mô hình thuyết hành động hợp lý của Fishbein và Ajzen (1975)
Hình 2.5: Mô hình hành vi có kế hoạch của Ajzen (1991)
Hình 2.6: Mô hình hành vi có kế hoạch phiên bản lần 2 của Ajzen (1994)
Hình 2.7: Mô hình hành vi hướng tới mục tiêu của Perugini và Bagozzi
Hình 2.8: Mô hình nghiên cứu đề xuất
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu
Hình 4.1: Biểu đồ phân tán Scatterplot
Hình 4.2: Biểu đồ tần số của phần dư chuẩn hóa
Hình 4.3: Đồ thị Q-Q Plot của phần


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1a: Thang đo ban đầu
Bảng 3.1b: Kết quả thang đo sơ bộ sau khi hiệu chỉnh
Bảng 4.1: Thống kê nhân khẩu học
Bảng 4.3a: Kết quả phân tích EFA nhân tố độc lập
Bảng 4.3b: Ma trận các thành được xoay
Bảng 4.3c: Tổng phương sai trích

Bảng 4.4: Kết quả phân tích EFA nhân tố phụ thuộc
Bảng 4.4a: Tổng phương sai trích
Bảng 4.5: Phân tích tương quan Pearson
Bảng 4.6: Kết quả phân tích hồi quy
Bảng 4.7: Tổng hợp kết quả kiểm định giả thuyết
Bảng 5.1: GTTB của các thành phần yếu tố chi phí
Bảng 5.2: GTTB của các thành phần yếu tố niềm tin
Bảng 5.3: GTTB của các thành phần yếu tố Công tác tuyên truyền của cơ quan hữu
quan về BHYT
Bảng 5.4: GTTB của các thành phần yếu tố hiểu biết của người dân về BHYT


TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định và đo lường các yếu tố về mặt tâm lý,
nhận thức ảnh hưởng đến việc tham gia bảo hiểm y tế của hộ cận nghèo. Đồng thời,
trên cơ sở phân tích đó, tác giả sẽ đề xuất một số kiến nghị nhằm giúp gia tăng sự tham
gia bảo hiểm y tế của hộ cận nghèo tỉnh Bến Tre.
Kết quả nghiên cứu cung cấp cái nhìn tổng quát về mẫu nghiên cứu theo trình độ,
nghề nghiệp, chi tiêu bình quân trên đầu người... Qua bước kiểm định thang đo theo hệ
số tin cậy Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố EFA cho thấy các thang đo đều đạt
độ tin cậy cần thiết. Kết quả phân tích hồi quy cho thấy mô hình nghiên cứu phù hợp
với dữ liệu. Ngoài việc đánh giá thang đo và kiểm định mô hình lý thuyết, nghiên cứu
cũng phân tích mức độ quan trọng của những nhân tố tác động đến ý định tham gia
BHYT của hộ cận nghèo. Theo kết quả hồi quy, tác giả nhận thấy những nhân tố được
đề xuất đưa vào mô hình đều cho thấy các yếu tố đều tác động đến ý định tham gia
BHYT của hộ cận nghèo. Bao gồm:
 Sự tác động của yếu tố chi phí y tế đến ý định tham gia BHYT của hộ cận

nghèo Tỉnh Bến Tre (β=0,194) cho thấy rằng hộ cận nghèo có ý định tham
gia BHYT vì cảm thấy rất khó khăn để đáp ứng chi phí y tế lớn bất ngờ,

mong đợi tham gia BHYT người dân sẽ được hưởng rất nhiều quyền lợi
khi khám và chữa bệnh và cảm nhận rằng chi phí y tế đang gia tăng nhanh
chóng.
 Sự tác động của yếu tố niềm tin của đối tượng với BHYT đến ý định tham

gia BHYT của hộ cận nghèo Tỉnh Bến Tre (β=0,264) cho thấy rằng hộ cận
nghèo có ý định tham gia BHYT vì tin rằng BHYT đem lại nhiều lợi ích,
tin tưởng chất lượng về khám chữa bệnh và nguồn thuốc men mà BHYT
cung cấp, chính sách tuyên truyền của Chính phủ làm tăng nhận thức của
xã hội về chăm sóc sức khỏe, chính sách BHYT tạo một cảm giác an toàn
về chăm sóc y tế đối với người tham gia.
 Sự tác động của yếu tố truyền thông và sự hiểu biết của người dân về

BHYT đến ý định tham gia BHYT của hộ cận nghèo Tỉnh Bến Tre với

(β=0,321) và (β=0,184). Như vậy, chính sách truyền thông đóng vai trò rất
lớn đến ý định tham gia BHYT của hộ cận nghèo bằng cách thông qua


chương trình truyền thông sẽ giúp người dân hiểu biết về chương trình
BHYT.
Trên cơ sở phân tích, tác giả đề xuất một số hàm ý liên quan đến Yếu tố chi phí,
niềm tin của người tham gia với BHYT, sự hiểu biết của người dân về BHYT, công tác
tuyên truyền nhằm tăng sự tham gia của hộ cận nghèo.


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Phát triển nhanh và bền vững đang là mục tiêu quan trọng trong cải cách kinh tế xã hội của đất nước ta. Bên cạnh việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, công tác giảm đói

nghèo được Nhà nước coi là một bộ phận quan trọng của mục tiêu phát triển. Trong
những năm qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trong cải cách kinh tế, từng
bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, nhờ đó trong vòng 20 năm
(1990-2010), tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm từ gần 60% xuống còn 20,7% với
khoảng hơn 30 triệu người thoát nghèo. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đạt được thành
tựu ấn tượng về giáo dục và y tế. Tỷ lệ nhập học ở bậc tiểu học của người nghèo là trên
90% và ở bậc trung học cơ sở là 70%. Mặc dù có được tỷ lệ giảm nghèo nhanh nhưng
vẫn còn thiếu yếu tố bền vững, bởi vì trong số những người nghèo còn lại hiện nay thì
phần lớn là những hộ gặp rất nhiều khó khăn để giảm nghèo và đồng thời những hộ
thuộc diện cận nghèo cũng rất dễ bị tái nghèo khi gặp phải những rủi ro, nhất là khi
gặp phải những vấn đề về sức khỏe và y tế.
Tại tỉnh Bến Tre, công tác hỗ trợ về y tế được thực hiện kịp thời, đồng bộ. Trong
năm 2013, toàn tỉnh đã mua 110.892 thẻ Bảo hiểm y tế cho nhân khẩu thuộc diện hộ
nghèo, tổng kinh phí thực hiện 65.778.700.500 đồng; hỗ trợ 100% mệnh giá thẻ bảo
hiểm y tế cho 30.720 người thuộc hộ cận nghèo theo Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày
08 tháng 5 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc nâng mức hỗ trợ đóng bảo
hiểm y tế cho một số đối tượng thuộc hộ gia đình cận nghèo, kinh phí thực hiện
9.742.061.920 đồng.
Tuy được Tỉnh rất quan tâm hỗ trợ chính sách bảo hiểm y tế đối hộ cận nghèo,
nhà nước hỗ trợ mức đóng bảo hiểm y tế rất cao, nhưng người cận nghèo tham gia bảo
hiểm y tế vẫn chưa cao vì một số hạn chế sau đây:
Thứ nhất, người dân chưa hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của mình khi đến khám
và chữa bệnh tại các cơ sở y tế công, do đó nhiều người bị bệnh nhưng không dám đến
điều trị tại bệnh viện mà chỉ tự điều trị cho đến khi bệnh quá nặng cán bộ y tế mới biết
và đưa họ vào điều trị tại bệnh viện.
1


Thứ hai, BHYT đối với những người cận nghèo, đặc biệt là những người sống ở
vùng nông thôn thì hầu như chưa được thụ hưởng đầy đủ các chính sách hỗ trợ tài

chính đã được ban hành để đảm bảo cho họ được công bằng trong tiếp cận dịch vụ y
tế.
Thứ ba, Tỉnh chưa có cơ chế rõ ràng cho việc thanh toán, hỗ trợ cho đối tượng
cận nghèo. Việc khó khăn triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ này được cho là bị
vướng mắc ở cả khâu xác định đối tượng cũng như là việc huy động các nguồn lực tài
chính.
Cuối cùng, phần lớn các cán bộ y tế ở trạm y tế xã ngoài việc khám chữa bệnh tại
trạm còn tổ chức khám chữa bệnh tại nhà dân, xong chưa có quy định của cơ quan
BHYT cho thanh toán BHYT đối với các trường hợp khám ngoại trạm bởi lý do không
có bằng chứng để chứng minh. Hơn nữa, danh mục thuốc khám BHYT đôi khi chưa
phù hợp với thực trạng bệnh tật của người dân nên ngoài việc thanh toán BHYT theo
khung giá trần (đối với các dịch vụ được cơ quan bảo hiểm quy định) người bệnh còn
phải trả các khoản chi phí khác cho khám chữa bệnh của họ. Đó cũng là một trong
những lý do người bệnh đến khám, chữa bệnh theo thẻ bảo hiểm y tế tại tuyến xã còn
hạn chế.
Trong khi các nghiên cứu trước đây tập trung phân tích các nguyên nhân về mặt
kinh tế xã hội, nguồn lực đối với việc mua bảo hiểm y tế, đề tài này tập trung vào các
nguyên nhân thuộc về nhóm tâm lý, nhận thức. Đề tài phân tích “Các yếu tố tâm lý,
nhận thức tác động đến sự tham gia bảo hiểm y tế của hộ cận nghèo trên địa bàn
tỉnh Bến Tre”, từ đó đề xuất các giải pháp trong thời gian tới để cho những người
thuộc diện này tham gia bảo hiểm y tế đầy đủ, có cơ hội được tiếp cận với các chính
sách về xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước, vừa góp phần thúc đẩy nhanh quá
trình tăng trưởng kinh tế, vừa góp phần làm tốt hơn nữa công tác xóa đói giảm nghèo
vào năm 2020.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu này được thực hiện với các mục tiêu sau đây:
- Đo lường sự tác động của các yếu tố về mặt tâm lý, nhận thức đến ý địnhtham

gia bảo hiểm y tế của hộ cận nghèo trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
2



- Trên cơ sở phân tích kết quả khảo sát, tác giả sẽ đề xuất một số kiến nghị nhằm

giúp gia tăng sự tham gia bảo hiểm y tế của hộ cận nghèo tỉnh Bến Tre.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu.
Để giải quyết được mục tiêu nghiên cứu thì đề tài cần tìm câu trả lời cho các câu
hỏi sau:
Thứ nhất, sự tác động của những yếu tố về mặt tâm lý, nhận thức đến ý định
tham gia bảo hiểm y tế của hộ cận nghèo trên địa bàn tỉnh Bến Tre như thế nào?
Thứ hai, những giải pháp và kiến nghị nào làm gia tăng sự tham gia BHYT của
hộ cận nghèo tỉnh Bến Tre?
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
 Đối tượng nghiên cứu: Các yếu tố tâm lý, nhận thức có khả năng ảnh hưởng đến

việc tham gia bảo hiểm y tế của hộ cận nghèo. Như vậy đề tài này chỉ tập trung
vào việc tìm kiếm các tác động của nhóm yếu tố tâm lý, nhận thức quyết định
đến việc tham gia bảo hiểm y tế và giả định tác động của các nhóm yếu tố khác
là cố định.
 Đối tượng khảo sát: Hộ cận nghèo được ngân sách nhà nước hỗ trợ 70% mệnh

giá thẻ BHYT theo Quyết định số 797/QĐ-TTg ngày 26 tháng 6 năm 2012 của
Thủ tướng Chính phủ về việc nâng mức hỗ trợ đóng BHYT cho người thuộc gia
đình cận nghèo.
 Phạm vi khảo sát: Tỉnh Bến Tre.
 Khoảng thời gian khảo sát: Thời gian thực hiện khảo sát từ tháng 10 đến tháng

12 năm 2014.

1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu trong luận văn này bao gồm các phương pháp sau:
 Nghiên cứu định tính được tiến hành nhằm xác định các khái niệm về tâm lý và

nhận thức dùng trong thang đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến việc tham gia
bảo hiểm y tế của hộ cận nghèo trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Nghiên cứu được
thực hiện dưới hình thức một cuộc thảo luận nhóm. Thành viên của nhóm thảo
luận được chia thanh hai nhóm, nhóm thứ nhất bao gồm 10 học viên lớp cao
3


học Kinh tế, đây là những người có khả năng đánh giá thang đo. Còn nhóm thứ
hai bao gồm 10 người thuần túy là những người thuộc hộ cận nghèo để đánh giá
thang đo sơ bộ về mặt ngữ nghĩa, rõ ràng nhằm phát triển các thang đo các
thành phần và là cơ sở cho cuộc khảo sát định lượng sau đó.
 Nghiên cứu định lượng: Nghiên cứu đo lường các yếu tố tâm lý, nhận thức bằng

các thang đo phát triển từ lý thuyết Hành vi có kế hoạch của Azjen (1994).
Bảng câu hỏi do đối tượng tự trả lời (self-administered questionnaire) là công
cụ chính để thu thập dữ liệu định lượng. Phương pháp chọn mẫu trong cuộc
nghiên cứu này là phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên. Công cụ hệ số tin cậy
Cronbach’s alpha và phân tích nhân tố khám phá EFA được sử dụng để gạn lọc
các khái niệm dùng trong nghiên cứu. Phần mềm thống kê SPSS-20 được dùng
trong quá trình xử lý dữ liệu. Phép thống kê hồi quy tuyến tính được sử dụng để
tìm ra mối quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến việc tham gia bảo hiểm y tế
của hộ cận nghèo trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
1.6. Kết cấu luận văn
Đề tài này được chia thành 5 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu
Chương 3: Thiết kế nghiên cứu

Chương 4: Phân tích kết quả nghiên cứu
Chương 5: Kết luận, hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo

4


CHƢƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN
CỨU 2.1. Một số khái niệm.
2.1.1. Bảo hiểm.
Theo Uỷ ban thuật ngữ bảo hiểm của Hiệp hội bảo hiểm và rủi ro Hoa Kỳ thì Bảo
hiểm là sự tập trung các tổn thất bất ngờ bằng việc chuyển giao những rủi ro gây ra
chúng cho những người bảo hiểm khi họ cam kết bồi thường những tổn thất này, cung
cấp các quyền lợi bằng tiền khác khi tổn thất xảy ra hoặc cung cấp các dịch vụ liên
quan đến rủi ro.
Theo Hiệp hội các nhà bảo hiểm Anh thì Bảo hiểm là sự thỏa thuận qua đó một
bên (người bảo hiểm) hứa thanh toán cho bên kia (người được bảo hiểm hay người
tham gia bảo hiểm) một khoản tiền nếu sự cố xảy ra gây tổn thất tài chính cho người
được bảo hiểm. Để chấp nhận trách nhiệm thanh toán này, người bảo hiểm đòi người
được bảo hiểm một khoản tiền, đó là phí bảo hiểm.
Dưới góc độ tài chính, người ta cho rằng: Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài
chính nhằm phân phối lại những chi phí mất không mong đợi.
Dưới góc độ kinh doanh bảo hiểm, các doanh nghiệp, các tập đoàn thương mại
trên thế giới lại đưa ra khái niệm: Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này một người,
một doanh nghiệp hay một tổ chức, chuyển nhượng rủi ro cho DNBH, doanh nghiệp
đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và
phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm.
Có thể nói, các khái niệm trên đã lột tả được bản chất của bảo hiểm trên các khía
cạnh về rủi ro. Sự chuyển giao rủi ro giữa DNBH và người được bảo hiểm thông qua
phí bảo hiểm và số tiền bồi thường hoặc chi trả khi người được bảo hiểm gặp rủi ro tổn

thất. Và một cách đơn giản, bảo hiểm chính là một cách xử lý rủi ro, nhờ đó việc
chuyển giao, phân tán rủi ro.
2.1.2. Bảo hiểm y tế.
BHYT được định nghĩa là: một nhóm người đóng góp tài chính vào một quỹ
chung, thông thường do một bên thứ ba giữ. Nguồn quỹ này sau đó sẽ được sử dụng để
thanh toán cho toàn bộ hoặc một phần các chi phí nằm trong phạm vi gói quyền lợi của
người tham gia bảo hiểm. Bên thứ ba có thể là BHXH nhà nước, các cơ quan bảo hiểm
5


công khác, các quỹ do chủ sử dụng lao động tự điều hành quản lý hoặc do các quỹ tư
nhân đảm nhiệm.
Trên thế giới, hầu như không có một quốc gia nào lại không phải bao cấp cho nhu
cầu KCB của người dân mà đều phải huy động một phần từ sự đóng góp của cộng
đồng xã hội. Ở nước ta cũng vậy, ngân sách Nhà nước đã dành cho y tế tăng dần qua
các năm, nhưng theo tính toán cũng chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu KCB của
xã hội. Vì vậy ngay từ năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng nay là Chính Phủ đã ban hành
Quyết định 45/HĐBT để thực hiện việc thu một phần viện phí, nhằm thông qua sự
đóng góp của nhân dân, tạo thêm kinh phí cho các bệnh viện cải thiện chất lượng dịch
vụ y tế, đảm bảo tốt hơn công tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Tuy nhiên, chế độ
thu một phần viện phí chỉ có thể giúp một bộ phận dân cư, những người có thu nhập
khá được KCB, mà số lượng này lại không lớn trong xã hội. Đại bộ phận những người
có thu nhập từ trung bình đến những người nghèo lại khó có điều kiện tiếp cận với
dịch vụ y tế của Nhà nước do giá viện phí cao. Việc thu chi phí KCB trực tiếp từ người
bệnh rõ ràng ảnh hưởng tới sự đảm bảo công bằng trong KCB giữa các tầng lớp dân cư
trong xã hội. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, thì rất ít khi người ta để cho
một cá nhân tự phải chịu mọi cho phí y tế khi điều trị mà thường là thông qua hình
thức chia sẻ rủi ro cho nhiều người qua hình thức BHYT.Tức là chia sẻ khó khăn về tài
chính cho nhau, người khỏe mạnh giúp đỡ người ốm đau còn khi mình ốm đau thì
nhiều người khỏe sẽ giúp đỡ mình.

Đúc rút kinh nghiệm của các nước trên thế giới, ngày 15/8/1992 Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số 299/HĐBT ban hành Điều lệ
BHYT, khai sinh ra chính sách BHYT ở Việt Nam, BHYT Việt Nam chính thức ra đời,
được coi là một loại hình bảo hiểm đặc biệt, là chính sách xã hội do Nhà nước tổ chức
thực hiện mang ý nghĩa cộng đồng sâu sắc. Hay BHYT là cơ chế kinh tế, là nơi tập
trung nguồn lực tài chính từ sự đóng góp của cộng đồng xã hội để chi phí KCB cho
người tham gia đóng góp vào quỹ khi họ gặp phải rủi ro về sức khỏe cần phải
KCB.Theo quy định của pháp luật nước ta: BHYT là một chính sách xã hội do Nhà
nước tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của người lao động, người sử
dụng lao động, các tổ chức và cá nhân để thanh toán chi phí KCB cho người có thẻ
BHYT khi ốm đau. Tôn chỉ của BHYT không nằm ngoài mục tiêu an sinh xã hội,
không vì mục tiêu lợi nhuận. Đây không phải là loại hình bảo hiểm thương mại. Đặc
6


điểm khác biệt cơ bản của BHYT xã hội so với các loại hình bảo hiểm thương mại là
mức đóng góp dựa vào khả năng thu nhập của mỗi nhóm dân cư, nhưng mức thụ
hưởng lại theo nhu cầu điều trị. Khi số người tham gia BHYT càng đông thì khả năng
đáp ứng quyền lợi của người tham gia BHYT càng tốt, ngược lại nếu số người tham
gia càng ít thì việc đảm bảo quyền lợi cho người tham gia cũng bị hạn chế theo do khả
năng dàn trải rủi ro trong cộng đồng là không cao.
Khái niệm về BHYT được trình bày trong cuốn “Từ điển Bách khoa Việt Nam I”
xuất bản năm 1995, nhà xuất bản Bách khoa – trang 151 như sau: “BHYT: loại hình
bảo hiểm do Nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp của cá nhân, tập
thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khỏe, khám bệnh và chữa bệnh cho nhân
dân”.
Mặt khác, BHYT là một trong chín nội dung của BHXH được quy định tại Công
ước 102 ngày 28/6/1952 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về các tiêu chuẩn tối
thiểu cho các loại trợ cấp BHXH. Do đó, khi nói tới BHYT, cần hiểu đó là BHYT xã
hội hoặc còn được gọi là BHXH về y tế, nó khác với BHYT tư nhân (bảo hiểm thương

mại). Như vậy BHYT đã được nhà nước quy định, đang từng bước luật hóa tạo những
chuẩn mực nhằm bảo vệ người tham gia trước những rủi ro về bệnh tật.
Ở Cộng hòa liên bang Đức cũng như ở các nước công nghiệp phát triển khái niệm

về BHYT là: “BHYT trước hết là một tổ chức cộng đồng đoàn kết tương trợ lẫn nhau,
nó có nhiệm vụ gìn giữ, khôi phục lại sức khỏe hoặc cải thiện tình trạng sức khỏe của
người tham gia BHYT”. Như vậy, trong hoạt động BHYT thì tính đoàn kết cùng chia
sẻ rủi ro rất cao, nó là nền tảng cho lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe, nó điều tiết
mạnh mẽ giữa người khỏe mạnh và người ốm yếu, giữa thanh niên với người già và
giữa người có thu nhập cao với người có thu nhập thấp. Sự đoàn kết tương trợ lẫn nhau
trong BHYT là sự đảm bảo cho từng người dựa trên cơ sở sự đoàn kết không điều kiện
của sự hợp tác cùng chung lòng chung sức và gắn kết chặt chẽ với nhau. Theo định
nghĩa BHYT nêu trên thì sự đoàn kết tương trợ vừa mang ý nghĩa tự giác, vừa mang ý
nghĩa cùng chịu trách nhiệm và vừa có sự thống nhất quan điểm chung. Đoàn kết
tương trợ không chỉ là quyền được nhận mà còn phải có nghĩa vụ đóng góp.
Xét trên tổng thể nền kinh tế quốc dân và phương diện điều tiết kinh tế vĩ mô thì
BHXH nói chung và BHYT nói riêng là công cụ thứ hai trong quá trình phân phối lại
sau công cụ thuế góp phần đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội.
7


Nếu nhìn nhận dưới góc độ kinh tế thì BHYT được hiểu là sự hợp nhất kinh tế
của số lượng lớn những người cùng phải đối mặt với một loại rủi ro do bệnh tật gây ra
mà trong từng trường hợp cá biệt không thể tính toán trước và lo liệu được. Cân đối về
chi phí khám chữa bệnh cơ bản được thực hiện giữa một bên là tổng số chi phí KCB
cho những người có nhu cầu và cần phải KCB và một bên là tổng số đóng góp của
những người tham gia.
Đa số các quốc gia trên thế giới, từ những quốc gia phát triển đến những quốc gia
đang phát triển đều coi BHYT là một trong những giải pháp tài chính chủ yếu trong
lĩnh vực y tế, được xem như một chính sách xã hội quan trọng, không thể thiếu trong

chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
2.1.3. Hộ nghèo, hộ cận nghèo.
Phương pháp chung để xác định nghèo đói là dựa vào nhu cầu chi tiêu để bảo
đảm các nhu cầu cơ bản của con người. Có hai cách hiểu về nghèo khổ: Cách hiểu theo
tiêu chuẩn thống kê thuần túy (thu nhập bình quân, calorie, v.v…) và cách hiểu theo
chuẩn xã hội. Tại Việt nam ngưỡng nghèo được đánh giá thông qua chuẩn nghèo, dựa
trên các tính toán của các cơ quan chức năng như Tổng cục Thống kê hay Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội (MOLISA). Chuẩn nghèo của Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội được xác định một cách tương đối bằng cách làm tròn số và áp dụng cho từng
khu vực và vùng miền khác nhau (nông thôn miền núi, hải đảo, nông thôn đồng bằng,
thành thị).
Chuẩn nghèo theo Tổng cục Thống kê được xác định dựa trên cách tiếp cận của
Ngân hàng Thế giới (WB), gồm hai mức:
Nghèo lương thực thực phẩm: tổng chi dùng chỉ tính riêng cho phần lương thực
thực phẩm, làm sao để đảm bảo lượng dinh dưỡng tối thiểu cho một người là 2100
kcal/ngày đêm;
Nghèo chung: tổng chi dùng cho cả giỏ hàng tiêu dùng tối thiểu, được xác định
bằng cách ước lượng tỷ lệ: 70% chi dùng dành cho lương thực thực phẩm, 30% cho
các khoản còn lại.
Trước hết người ta tính mức chi tiêu cho nhu cầu lương thực thực phẩm, gọi là
đường nghèo lương thực thực phẩm (thông thường người ta tính rổ hàng hóa với một
số mặt hàng nhất định).
Theo tiêu chuẩn của Tổng cục Thống kê Việt Nam, dựa vào phương pháp quốc
8


tế, theo đó tiêu chuẩn nghèo là số tiền cần thiết để mua 1 lượng thực phẩm tối thiểu
cung cấp đủ 2100 Kcal mỗi ngày mỗi người (đây cũng là tiêu chuẩn mà hầu hết các
nước đang phát triển cũng như các tổ chức quốc tế hiện nay sử dụng) và số tiền cần
thiết cho những nhu cầu phi lương thực. Những người có mức chi tiêu dưới mức chi

phí cần thiết để đạt được lượng calo này gọi là nhóm nghèo về lương thực thực phẩm.
Chi phí lương thực chiếm 70% và phi lương thực 30%. Tổng chi tiêu cho lương thực,
thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm được gọi là đường nghèo hay chuẩn nghèo
(đó là đường nghèo chung). Để tiện cho việc tính toán, đánh giá, người ta chuyển từ
mức chi tiêu sang mức thu nhập. Như vậy, đường đói nghèo chung sẽ ở mức cao hơn
đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm.
Ví dụ: Năm 1993 đường đói nghèo chung có mức chi tiêu là 1,16 triệu
đồng/năm/người (cao hơn đường đói nghèo lương thực, thực phẩm là 55%). Năm 1998
là 1,79 triệu đồng/năm/người (cao hơn đường đói nghèo lương thực, thực phẩm là
39%). Năm 1998 chuẩn nghèo lương thực thực phẩm của Việt nam bằng 107.234
VND/tháng; chuẩn nghèo chung bằng 149.156 VND/tháng.
Khi xác định người nghèo phải gắn chặt với tính thu nhập bình quân của hộ gia
đình. Tuy vậy, tỷ lệ hộ nghèo không đồng nghĩa với tỷ lệ người nghèo. Thông thường,
trong một quốc gia thì tỷ lệ người nghèo bao giờ cũng cao hơn tỷ lệ hộ nghèo. Vì quy
mô hộ gia đình của nhóm nghèo cao hơn nhóm không nghèo.
Chuẩn nghèo là một khái niệm động, nó biến đổi theo không gian và thời gian.
Về không gian nó biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng,
chẳng hạn, đô thị, nông thôn đồng bằng và nông thôn miền núi. Về thời gian, nó biến
đổi theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng giai đoạn lịch sử.
* Sự thay đổi các chuẩn nghèo của Việt Nam từ năm 1990 đến nay:
Căn cứ vào mức sống thực tế của các địa phương, Bộ Lao động – Thương binh
và Xã hội đã nhiều lần công bố chuẩn nghèo tính theo thu nhập bình quân đầu người
cho các giai đoạn cụ thể khác nhau. Việc điều chỉnh chuẩn nghèo căn cứ chủ yếu vào
các yếu tố sau: (1) Mức tăng thu nhập thực tế của dân cư, đặc biệt là nhóm nghèo trong
thời kỳ điều chỉnh; (2) Tốc độ lạm phát cùng kỳ.
Vào những năm 1990, chuẩn nghèo ở Việt Nam được xác định theo mức: những hộ
gia đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ
45.000 đồng/người/tháng (540.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu
9



vực nông thôn đồng bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ
70.000 đồng/người/tháng (840.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực
thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng
(1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Từ 1993 đến nay Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần điều chỉnh mức chuẩn
nghèo. Theo Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27
tháng 9 năm 2001, trong đó phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói và
giảm nghèo giai đoạn 2001-2005", thì những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu
người ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng (960.000
đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực nông thôn đồng bằng những hộ gia
đình có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng (1.200.000
đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập
bình quân đầu người từ 150.000 đồng/người/tháng (1.800.000 đồng/người/năm) trở
xuống là hộ nghèo.
Theo Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27
tháng 9 năm 2001, chuẩn nghèo của Việt Nam giai đoạn 2001-2005 như sau: khu vực
hộ nghèo ở nông thôn miền núi, hải đảo là hộ có mức thu nhập bình quân từ
80.000đ/người/tháng trở xuống; ở nông thôn đồng bằng là hộ có mức thu nhập bình
quân 100.000đ/người/tháng; ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân
150.000đ/người/tháng.
Chuẩn nghèo 2001-2005 so với giai đoạn trước đó tăng 1,5 lần, còn về phương
pháp tiếp cận và xác định vẫn dựa trên cơ sở thu nhập của hộ. Trong chuẩn nghèo mới
không có tiêu chí hộ đói vì tỷ lệ hộ đói không còn đáng kể. Sở dĩ có lựa chọn phương
án tăng lên 1,5 lần là vì trong 5 năm 1996-2000 mức sống dân cư Việt Nam tăng lên
khoảng 1,47 lần và giai đoạn 1991-2000 tăng 1,97 lần. Theo chuẩn trên, đầu năm 2001
Việt Nam có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 17,2%. Tuy nhiên, theo nhận xét
của một số chuyên gia quốc tế thì chuẩn về hộ nghèo của nước ta thấp hơn so với tình
hình thực tế, chỉ ngang bằng một số nước trong khu vực, thấp hơn Trung Quốc, Thái
Lan… Chính phủ lựa chọn chuẩn nghèo thấp trong giai đoạn này là nhằm tập trung

nguồn lực cho đối tượng nghèo nhất nhằm giải quyết nhu cầu ăn và mặc; còn về y tế,
giáo dục nhà nước có thể áp dụng chính sách trợ giúp. Hạn chế của chuẩn nghèo thấp
là chưa phản ánh đúng thực trạng nghèo ở Việt Nam, nhiều người vượt qua ngưỡng
10


nghèo mà cuộc sống vẫn khó khăn; vì vậy theo xu hướng hội nhập khu vực, từ năm
2006 Chính phủ đã áp dụng chuẩn nghèo mới. Chuẩn nghèo này tính trên cơ sở bảo
đảm 2100 kcal mỗi ngày và có tính đến nhu cầu phi phương thực, thực phẩm (mặc, y
tế, giáo dục, nhà ở, văn hóa, đi lại, giao tiếp xã hội). Ước tính nhu cầu phi lương thực,
thực phẩm chiếm khoảng 40% tổng giá trị chi tiêu.
Tiếp đó, theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam số 170/2005/QĐTTg ký ngày 08 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai
đoạn 2006 – 2010: Khu vực Hộ nghèo ở nông thôn 200.000đ/người/tháng trở xuống và
ở thành thị từ 260.000đ/người/tháng trở xuống.
Xét theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Thủ
tướng Chính phủ đã ra quyết định số 09/2011/QĐ–TTg về việc ban hành chuẩn hộ
nghèo giai đoạn 2011- 2015 như sau: hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập
bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống; hộ
nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng (từ
6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống; hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu
nhập bình quân từ 401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng; hộ cận nghèo ở thành
thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.
Theo quyết định trên ta có thể thấy, chuẩn nghèo từ nay (năm 2011) đến năm
2015 thể hiện một sự biến thiên của các chuẩn nghèo luôn theo xu hướng tăng dần kể
từ năm 1990 đến nay. Một mặt, chuẩn nghèo đó phản ánh sự tăng lên thu nhập bình
quân đầu người, có thể giảm thiểu tỷ lệ nghèo đói (theo nghĩa tuyệt đối) ở một mức
nào đó.
2.2. Bản chất của BHYT.
BHYT trước hết là một nội dung cơ bản của Bảo hiểm xã hội (BHXH) - một
trong những bộ phận quan trọng của hệ thống đảm bảo xã hội hay còn gọi là hệ thống

an sinh xã hội. Cùng với các hệ thống cung cấp (hay còn gọi là chế độ ưu đãi xã hội,
chế độ bao cấp) và hệ thống cứu trợ xã hội, hoạt động của BHYT nói riêng và hoạt
động của BHXH nói chung, đã thực sự trở thành nền móng vững chắc cho sự bình ổn
xã hội. Chính vì vai trò cực kì quan trọng của BHXH như vậy, cho nên ở mọi quốc gia
trên thế giới, hoạt động của BHXH luôn do nhà nước đứng ra tổ chức thực hiện theo
hệ thống pháp luật về BHXH. Đó cũng là một cơ sở quan trọng để phân biệt loại hình
BHYT này với BHYT trong Bảo hiểm thương mại (BHTM). Ở các nước công nghiệp
11


phát triển thì loại hình BHYT trong BHTM cũng được phát triển và cũng tồn tại song
song với BHYT của Nhà nước. Vì vậy, nói đến BHYT ở đây là chúng ta hiểu là đang
đề cập đến BHYT của Nhà nước hay nói cách khác là BHYT theo luật pháp.
BHYT sẽ đảm bảo cho những người tham gia BHYT và gia đình họ những khả
năng để phòng tránh bệnh tật, phát hiện sớm bệnh tật, chữa trị và khôi phục sức khỏe
sau bệnh tật. Do các chế độ BHXH về khám chữa bệnh (KCB), chế độ thai sản và chế
độ ốm đau đều có cùng phương thức hoạt động và các nguyên tắc cơ bản chung, cho
nên tùy theo đặc điểm lịch sử, tập quán của từng nước mà BHYT có thể bao gồm cả
chế độ KCB, chế độ thai sản và chế độ ốm đau hoặc được tách ra theo từng chế độ
riêng biệt. Điều đó liên quan đến phạm vi đối tượng tham gia BHXH, đến mức đóng
góp và đối tượng tham gia BHXH, đến mức đóng góp và các chế độ được hưởng.
Ở các nước công nghiệp phát triển người ta định nghĩa BHYT trước hết là một tổ

chức cộng đồng đoàn kết tương trợ lẫn nhau, nó có nhiệm vụ gìn giữ sức khỏe, khôi
phục lại sức khỏe hoặc cải thiện tình trạng sức khỏe của người tham gia BHYT. Như
vậy trong hoạt động BHYT thì tính cộng đồng đoàn kết cùng chia sẻ rủi ro rất cao, là
nền tảng cho lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe, nó điều tiết mạnh mẽ giữa người
khỏe mạnh với người ốm yếu, giữa thanh niên với người già cả, giữa những người có
thu nhập cao và những người có thu nhập thấp. Sự đoàn kết tương trợ lẫn nhau trong
BHYT là sự đảm bảo cho từng người dựa trên cơ sở của sự đoàn kết không điều kiện,

của sự hợp tác cùng chung lòng, chung sức và gắn kết chặt chẽ với nhau. Đây cũng
chính là bản chất nhân văn của hoạt động BHYT mà chúng ta thường đề cập đến. Tuy
nhiên đoàn kết tương trợ không chỉ là quyền được nhận mà còn phải là nghĩa vụ đóng
góp. Sự công bằng và bình đẳng của một chế độ xã hội được gắn bó với sự đoàn kết
được thể hiện ở chỗ: ai muốn đạt được sự bền chặt và đoàn kết thì phải thực hiện nhiều
hơn sự công bằng. Điều đó chỉ có thể được tạo ra thông qua sự điều chỉnh trong thực
tế, vì “sự công bằng” là yếu tố động, nó chỉ đạt được tại một thời điểm, còn lại đều là
sự không công bằng. Đây là một trong những yếu tố tác động đến sự phát triển xã hội.
Do vậy cần có sự tích cực điều chỉnh thực tế một cách thường xuyên nhằm đảm bảo
mối quan hệ tương thích giữa nghĩa vụ và quyền lợi trong hoạt động BHYT.
Nếu nhìn trên giác độ tổng thể nền kinh tế quốc dân và xét về phương diện điều
tiết kinh tế vĩ mô thì công cụ BHYT là công cụ thứ hai trong quá trình phân phối lại
(công cụ thứ nhất là thuế) góp phần đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội. Hệ
12


thống BHYT ngay từ khi hình thành đã không định hướng theo mức độ rủi ro mà định
hướng theo nguyên tắc đáp ứng đặc biệt và không phải chi trả trực tiếp. Điều đó được
thể hiện rất rõ là: khi bị ốm đau thì người bệnh sẽ được chữa trị cho đến khi khỏe
mạnh trở lại bằng phương pháp, kỹ thuật tiên tiến hiện thời mà không căn cứ vào trước
đó họ đã đóng góp BHXH được bao nhiêu. Nếu định hướng theo mức độ rủi ro thì khi
ốm đau họ sẽ được đền bù với mức là bao nhiêu căn cứ vào trước đó họ đã đóng góp
theo mức nào như trong BHYT tư nhân hay còn gọi là bảo hiểm thương mại. Chính
định hướng này đã làm nền tảng cho các nguyên tắc cơ bản về BHYT. Chính vì vậy,
BHYT luôn mở rộng phạm vi đối tượng tham gia theo nghĩa vụ (mang tính chất bắt
buộc) và ban đầu BHYT cho người làm thuê rồi đến BHYT cho người lao động làm
thuê rồi đến BHYT cho người lao động tự do, cho người lao động trong nông nghiệp…
cho đến khi BHYT toàn dân.
Nếu nhìn nhận dưới giác độ kinh tế thì BHYT trước hết được hiểu là sự hợp nhất
kinh tế của số lượng những người trước cùng một loại hiểm nguy do bệnh tật gây nên

mà trong từng trường hợp cá biệt không thể tính toán trước và lo liệu được. Nhưng cái
chung đó cần phải đáp ứng được bằng nguồn tài chính dự trữ một cách thỏa đáng
thông qua hệ thống cân bằng rủi ro tương ứng do nhà nước đứng ra tổ chức thực hiện.
Cụ thể như sau: Tổng chi phí cho KCB = Tổng số tiền đóng góp của những người
tham gia BHYT.
Như vậy cân đối về chi phí KCB được thực hiện cân bằng giữa một bên là tổng
chi phí KCB cho những người có nhu cầu và cần phải KCB và bên kia là tổng số đóng
góp của tất cả những người tham gia BHYT bất kể họ có hoặc không có nhu cầu KCB.
Thời gian cân đối về thu chi của BHYT thông thường là một năm. Có những nước
người ta tính toán cân đối để dự trù kinh phí chi trả cho thời gian thêm một tháng. Việc
cân đối thu chi còn có thể được bổ sung thêm tùy tình hình cụ thể của từng nước và
từng năm cụ thể. Trong tổng số chi còn phải tính thêm khoản chi phí cho bộ máy quản
lý làm công tác BHYT. Trong khoản thu có thể bao gồm cả các khoản thu từ đóng góp
của ngân sách địa phương, của Trung ương và các khoản thu khác.
Nguyên tắc cộng đồng chia sẻ rủi ro với ý tưởng nhân văn cao cả của nó đã loại
trừ mục tiêu lợi nhuận thương mại của cộng đồng những người tham gia BHYT. Do
vậy, hoạt động BHYT không có khoản thu lợi nhuận và đương nhiên cũng không vì
mục đích lợi nhuận. Vì vậy tỷ lệ đóng góp chỉ được nâng lên theo đòi hỏi quyền lợi
13


chung của quá trình thực hiện BHYT. Tức là tỷ lệ đóng góp BHYT chỉ được nâng lên
theo nhu cầu chữa trị bệnh tật, nhu cầu nâng cao chất lượng KCB và ứng dụng những
thành tựu khoa học tiên tiến và công tác KCB của cả cộng đồng.
Phương thức đoàn kết chia sẻ rủi ro phải được thực hiện bằng sự điều tiết nhằm
cân bằng mang tính xã hội. Việc lập ra quỹ BHYT và từng bước mở rộng phạm vi đối
tượng tham gia từ đó đã mở rộng phạm vi cân bằng, chia sẻ rủi ro trong cộng đồng
những người tham gia BHYT.
Nguyên tắc đoàn kết tương trợ chia sẻ rủi ro chỉ được thực hiện một cách đầy đủ
và hợp lý thông qua những giới hạn nhất định. BHYT chỉ bao gồm những đối tượng là

những người về nguyên tắc luôn có nhu cầu được bảo vệ về sức khỏe. Những đối
tượng cụ thể sẽ được quy định theo pháp luật.
BHYT trước hết được thực hiện đối với những người lao động phụ thuộc, tức là
người lao động không có tư liệu sản xuất và phải đi làm thuê hay những người có quan
hệ lao động. Đây là loại hình BHXH nghĩa vụ, nó mang tính bắt buộc đối với mọi
người lao động phụ thuộc và chủ sử dụng lao động. Sau đó do bản chất ưu việt nên nó
được mở rộng ra các đối tượng lao động khác như người hành nghề tự do, lao động
nông lâm, ngư nghiệp…và BHYT theo đơn vị gia đình.
Vấn đề KCB không chỉ đơn thuần liên quan đến vấn đề kỹ thuật y tế mà còn liên
quan một cách rất chặt chẽ đến các yếu tố kinh tế như: các khoản chi trả cho các
nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật (khám bệnh, phẫu thuật, thủ thuật…) của các bác sỹ,
chi phí cho bệnh viện với các trang thiết bị, vật tư y tế phục vụ cho KCB và thuốc men
– nếu nhìn dưới giác độ kinh tế - đó là “Cung” của ngành y tế. Còn phía “Cầu” là bệnh
tật, những bệnh tật này cần đến các dịch vụ KCB và những hàng hóa cần thiết cho sức
khỏe. Vì vậy khi thực hiện BHYT, ở các nước công nghiệp phát triển bên cạnh việc sử
dụng vai trò điều tiết của Nhà nước, người ta còn chú trọng sử dụng quan hệ cung –
cầu điều tiết trên thị trường sức khỏe hay còn gọi là thị trường y tế nhằm đảm bảo hiệu
quả sử dụng nguồn quỹ đóng góp của những người tham gia BHYT và nâng cao chất
lượng KCB. Trong các nước công nghiệp phát triển ở Châu Âu, số người tham gia
BHYT theo luật pháp chiếm tới 90% dân số, chỉ 10% dân số còn lại không tham gia
BHXH. Nhóm người này không thuộc đối tượng điều chỉnh của luật BHYT và phần
lớn trong số họ là những người giàu có, họ có đủ khả năng tự lo liệu khi ốm đau hoặc
tham gia BHYT tư nhân để hưởng những quyền lợi cao hơn khi ốm đau.
14


Ở nước ta BHYT được tiến hành từ năm 1992 và cho đến nay vẫn thực hiện

BHYT bắt buộc đối với người lao động có quan hệ việc làm giữa người sử dụng lao
động với người lao động. Những đối tượng xã hội như: người có công với cách mạng,

thân nhân sỹ quan quân đội, người nghèo cũng được Nhà nước cấp kinh phí để tham
gia BHYT. Các đối tượng là trẻ em dưới 6 tuổi được KCB miễn phí bằng nguồn ngân
sách Nhà nước và địa phương và đang được xem xét để tham gia BHYT. Hình thức
BHYT tự nguyện đang được vận động thực hiện đối với học sinh, sinh viên và nhóm
cộng đồng theo địa bàn dân cư hoặc theo tổ chức xã hội…
2.3. Vai trò của BHYT.
BHYT là một phạm trù kinh tế tất yếu của xã hội phát triển, đóng vai trò quan
trọng không những đối với người tham gia bảo hiểm, các cơ sở y tế, mà còn là thành tố
quan trọng trong việc thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác y tế nhằm huy động
nguồn tài chính ổn định, phát triển đa dạng các thành phần tham gia KCB cho nhân
dân. Vai trò của BHYT được thể hiện như sau:
Thứ nhất: BHYT là nguồn hỗ trợ tài chính giúp người tham gia khắc phục những
khó khăn về kinh tế khi bất ngờ ốm đau, bệnh tật. Bởi vì trong quá trình điều trị bệnh
chi phí rất tốn kém ảnh hưởng đến ngân sách gia đình, trong khi đó thu nhập của họ bị
giảm đáng kể thậm chí mất thu nhập.
Thứ hai: Góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Các quốc gia trên
thế giới thường có các khoản chi từ ngân sách cho hệ thống y tế. Tuy nhiên ở một số
quốc gia khác, đặc biệt là quốc gia đang phát triển khoản chi này thường chưa đáp ứng
được nhu cầu ngành y. Ở phần lớn các quốc gia, chính phủ chỉ đầu tư khoảng 60%
ngân sách y tế. Có nhiều biện pháp mà chính phủ các nước đã thực hiện để giải quyết
vấn đề này, như sự đóng góp của cộng đồng xã hội, trong đó có biện pháp thu viện phí
của người đến khám, chữa bệnh. Nhưng đôi khi giải pháp này lại vấp phải vấn đề trở
ngại từ mức sống của dân cư.Vì vậy biện pháp hiệu quả nhất là thực hiện BHYT để
giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, khắc phục sự thiếu hụt về tài chính, đáp ứng
nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng tăng của người dân.
Thứ ba: BHYT góp phần thực hiện nâng cao chất lượng và thực hiện mục tiêu
công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, thể hiện rõ nét tính nhân đạo,
cộng đồng xã hội sâu sắc. Những người tham gia BHYT, dù ở địa vị, hoàn cảnh nào,
mức đóng là bao nhiêu, khi ốm đau cũng nhận được sự chăm sóc y tế bình đẳng như
15



×