Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Ảnh hưởng của chế phẩm vi khuẩn nốt sần với các liều lượng đạm khác nhau đến năng suất lạc trong vụ Xuân 2010 tại HTX Hương Long, thành phố Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.5 KB, 54 trang )

– [W]ind
Phần 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta là một nước nông nghiệp, cùng với sự phát triển của nền kinh tế
trong nước, ngành nông nghiệp nói chung và nghành trồng trọt nói riêng cũng
không ngừng đi lên về mọi lĩnh vực như: Nghiên cứu các biện pháp thâm
canh cây trồng, chọn tạo bộ giống thích hợp cho từng vùng, phát triển cơ giới
hoá cho địa phương,… Đặc biệt trong những năm gần đây nước ta chủ động
phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, mở rộng diện tích canh
tác, nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu
trong đó có cây lạc.
Cây lạc (Archist hypogea.L) là cây công nghiệp quí và quan trọng ở nước
ta, được trồng từ Bắc vào Nam với nhiều tên gọi khác nhau như lạc, đậu lạc,
đậu phụng,… Tuy nhiên lạc không phải là cây nguyên sản ở Việt Nam.
Lich sử trồng lạc ở Việt Nam hiện nay chưa xác minh rõ ràng. Nếu căn
cứ vào tên gọi mà xét đoán thì danh từ “lạc” có thể là do từ Hán “Lạc hoa
sinh” là từ người Trung Quốc gọi cây lạc, như vậy có thể lạc từ Trung Quốc
nhập vào nước ta khoảng thế kỷ XVII - XVIII. Tuy nhiên, về mặt địa lý, nước
ta gần vùng Phillipin - Malaixia - Inodnesia, một trong hai trung tâm phân hoá
bậc hai của cây lạc. Có thể sau khi đến Phillipin cây lạc cũng từ đây theo các
nhà buôn và các nhà truyền giáo Châu Âu vào nước ta. Tóm lại, còn quá sớm
khi đưa ra một kết luận nào dù là bước đầu về quá trình nhập nội cây lạc.
Lạc là một loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao và mang lại giá trị
kinh tế lớn. Sản phẩm chính của lạc là hạt lạc, trong hạt có chứa hàm lượng
dầu cao, biến động từ 40 - 57%, hàm lượng protein 22 - 27%, glucid 15,5%,
xenlluloz 2,5%. Về mặt vitamin, lạc là thức ăn giàu vitamin nhóm B (trừ B12)
như tiamin (B1), riboflavin (B2), acid pantotenic (B3), B6, acid nicotinic
(PP), vitamin E, F thuộc loại khá [1].
Từ lạc, có thể chế biến thành nhiều loại thức ăn như bơ lạc, bột lạc, sữa
lạc, format lạc,… và các phụ phẩm từ lạc như khô dầu lạc, thân lá, vỏ lạc,…


làm thức ăn rất tốt trong chăn nuôi.
1
– [W]ind
Theo niên giám thống kê 2009, tình hình năng suất lạc của Việt Nam từ
1996 - 2008 tăng lên khá cao (13,6 - 20,85 tạ/ha). Mặc dù năng suất lạc của
nước ta có tăng qua các năm nhưng vẫn thấp hơn một số nước trên thế giới
như Trung Quốc (13,2 tấn/ha. 2006), Hoa kỳ (2,06 tấn/ha. 2006). Một trong
những yếu tố để nâng cao năng suất lạc là bón phân cho lạc, trong đó phải nói
đến vai trò của phân đạm. Nếu thiếu đạm thì thân có màu đỏ, lá vàng, năng
suất giảm hẳn, thiếu đạm nghiêm trọng có thể chết hai tháng sau trồng. Nhưng
nếu lượng đạm bón cho lạc quá nhiều thì lạc dễ bị lốp, sâu bệnh nhiều, số quả
chắc giảm, sinh trưởng dinh dưỡng kéo dài.
Một điều đặc biệt là trên rễ cây lạc có vi khuẩn nốt sần sống cộng sinh và
có thể cố định được khoảng 50 - 600 kg N/ha/năm. Nhờ đó mà cây lạc có khả
năng tự cung cấp 50 - 60% nhu cầu đạm [15]. Nhờ vậy có thể giảm được
lượng đạm hoá học bón cho cây ít hơn so với nhu cầu thực tế.
Trên cơ sở khả năng cố định Nitơ của vi khuẩn nốt sần, người ta đã sản
xuất ra chế phẩm nitrazin (chế phẩm vi khuẩn nốt sần). Chế phẩm này được
bón vào đất hoặc tẩm vào hạt lạc trước khi gieo sẽ cho năng suất cây bộ đậu
có thể tăng 14 - 15% .
Tuy nhiên, để mang lại hiệu quả cao nhất trong việc nhiễm chế phẩm vi
khuẩn nốt sần thì việc sử dụng phân đạm phải có liều lượng hợp lý. Vì khi
nhiễm chế phẩm vi khuẩn nốt sần cho lạc sẽ làm tăng khả năng cố định đạm
nhờ có sự cộng sinh của vi khuẩn nốt sần. Nhưng trong trường hợp này, nếu
chúng ta bón lượng đạm cho lạc nhiều sẽ ức chế sự sinh trưởng và khả năng
cố định đạm của vi khuẩn nốt sần. Như vậy thì việc sử dụng chế phẩm vi
khuẩn nốt sần trở nên vô ích và lãng phí lượng đạm đã dùng.
Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Ảnh hưởng của
chế phẩm vi khuẩn nốt sần với các liều lượng đạm khác nhau đến năng suất
lạc trong vụ Xuân 2010 tại HTX Hương Long, thành phố Huế”.

2
– [W]ind
1.2. Mục đích của đề tài
- Khẳng định vai trò của VKNS đến sinh trưởng, phát triển và năng suất lạc.
- Xác định liều lượng đạm thích hợp nhất bón cho lạc ở địa bàn nghiên cứu.
- Xác định hiệu quả của việc sử dụng chế phẩm VKNS đến đặc tính sinh
học và hóa học của đất trồng lạc.
3
– [W]ind
Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới và Việt Nam
2.1.1. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới
Cây lạc xếp thứ 13 trong các cây thực phẩm trên thế giới. Nó có nguồn
gốc từ Nam Mỹ nhưng hiện tại được trồng từ 40
0
vĩ Bắc đến 40
0
vĩ Nam thuộc
vùng nhiệt đới và các vùng ấm áp trên thế giới [1].
Bảng 2.1: Diện tích, năng suất, sản lượng lạc trên thế giới
Chỉ tiêu
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
Năm
Tên nước

2005 2006 2007 2005 2006 2007 2005 2006 2007
Thế giới 23,61 22,23 23,39 1,61 1,55 1,49 38,09 34,47 34,85
Trung Quốc 4,68 4,72 5,06 3,07 3,12 2,65 14,39 14,72 13,09
Ấn Độ 6,74 5,80 8,00 1,19 0,86 0,96 7,99 4,98 6,60
Nigieria 2,18 2,22 2,23 1,59 1,72 2,23 3,48 3,82 3,83
Indonexia 0,72 0,70 0,70 2,04 2,08 1,61 1,47 1,47 1,47
Mỹ 0,65 0,49 0,53 3,31 2,96 3,54 2,18 1,48 1,69
Xêngan 0,77 0,59 0,60 0,91 0,77 0,79 0,70 0,46 0,43
Xu Đăng 0,96 0,94 0,92 0,54 0,58 0,50 0,52 0,54 0,46
Myanma 0,65 0,65 0,66 1,40 1,40 1,50 0,91 0,91 1,00
Camơrun 0,31 0,31 0,30 0,76 0,53 0,53 0,23 0,16 0,16
Việt Nam 0,27 0,25 0,25 1,81 1,09 1,96 0,49 0,46 0,49
(nguồn: www.faostat.org.vn, 2009) [21]
4
– [W]ind
Theo số liệu của FAO trên thế giới hiện có trên 100 nước trồng lạc, với
tổng diện tích ít biến động ở các vụ trong năm. Tuy nhiên, sự phân bố về diện
tích, năng suất, sản lượng lại tập trung không đều giữa các khu vực trồng lạc
khác nhau trên thế giới, tập trung chủ yếu ở 3 châu lục là châu Á, châu Phi và
châu Mỹ. Trong đó, khoảng 90% diện tích lạc tập trung ở lục địa Á Phi. Ở các
nước châu Á chiếm 63,17% tổng diện tích, châu Phi 31,81%, châu Mỹ 5,8%,
châu Âu 0,22% [21]. Châu Á bao giờ cũng đứng đầu thế giới về sản lượng lạc.
2.1.2 Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam
2.1.2.1. Tình hình sản xuất lạc trong nước
Việt Nam là nước nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nên có những
điều kiện rất thích hợp cho cây lạc phát triển. Cây lạc đã được nhân dân ta
trồng từ lâu đời và đã trở thành thực phẩm thông dụng trong bữa ăn hàng
ngày của người dân.
Trong phạm vi toàn quốc, lạc được phân bố chủ yếu ở 4 vùng lớn là đồng
bằng và trung du Bắc Bộ, đồng bằng Sông Hồng, Khu IV cũ và miền Đông

Nam Bộ. Cả 4 vùng này chiếm trên 3/4 diện tích và sản lượng lạc, số còn lại
nằm rải rác ở các tỉnh .
Vùng trung du Bắc Bộ, cây lạc chủ yếu được trồng trên đất bạc màu như
ở Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc,…vụ lạc chính từ tháng 2 đến tháng 6.
Vùng đồng bằng Bắc Bộ thì trồng trên chân đất bãi ven sông, chân đất
bạc màu,…
Vùng duyên hải Bắc Miền Trung trồng trên vùng đất cát ven biển là
chính.Vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên thường lạc được trồng trên chân
đất cát ven sông suối, đất đỏ, đất đen.
Vùng Đông Nam Bộ trồng trên các loại đất đỏ bazan, đất đen,…
Trong các vùng, diện tích lạc tập trung nhiều nhất ở vùng duyên hải Bắc
Miền Trung. Với phương hướng phát triển sản xuất nông nghiệp là nền sản
xuất hàng hóa, phát huy các lợi thế của vùng chuyển dịch cơ cấu mùa vụ hợp
lý để né tránh thiên tai, tập trung phát triển cây màu, cây công nghiệp, cây ăn
quả. Trong đó, cây lạc là thế mạnh của vùng. Dự kiến đến 2010, diện tích lạc
toàn vùng đạt 93.000 ha [21], tập trung ở các tỉnh: Nghệ An, Thanh Hóa, Hà
5
– [W]ind
Tĩnh,… Mở rộng diện tích lạc chủ yếu bằng phương pháp tăng vụ, thay đổi
công thức luân canh, chuyển một phần diện tích khoai lang xuân, đất cát ven
biển để trồng lạc .
Diễn biến về diện tích, năng suất, sản lượng lạc ở Việt Nam trong 10
năm qua được thể hiện ở bảng 2.2.
Bảng 2.2. Diện tích, năng suất và sản lượng lạc ở Việt Nam
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất (tạ/
ha)

Sản lượng
(nghìn tấn)
1998 269,4 14,3 386,0
1999 247,6 12,8 318,1
2000 244,9 14,5 355,3
2001 244,6 14,8 363,1
2002 246,7 16,2 400,4
2003 243,8 16,6 406,2
2004 263,7 17,8 469,0
2005 269,6 18,1 489,3
2006 249,3 18,6 464,9
2007 250,0 19,6 490,0
2008 256,0 20,09 533,8
(Nguồn: www.faostat.org.vn, 2009)[21]
Năm 1999 năng suất là 12.8 (tạ/ha) có giảm nhẹ so với năm 1998
(14,3 tạ/ha) do điều kiện khí hậu khắc nghiệt nên năng suất giám với năm
trước, nhưng đến năm sau đó năm 2000 14.5 (ta/ha) năng suất bắt đầu tăng
nên, năm sau cao hơn năm trước đến năm 2008 năng suất lạc bình quân cả
nước là 20,09 (tạ/ha).đưa sản lượng đạt mức 533,8 nghìn tấn tăng 147,8 nghìn
6
– [W]ind
tấn so với năm 1998. Nhìn chung trong vòng gần 10 năm (1998-2007) tình
hình sản xuât lạc ở Việt Nam có nhưng thay đổi rõ rệt về năng suất cũng như
sản lượng trong khi diện tích canh tác hàng năm gần như không có nhiêu biến
đổi. Có được kết quả này là nhờ sự quan tâm, đầu tư nghiên cứu, chuyển giao
và ứng dụng ngày càng nhiều tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp nói
chung và sản xuất lạc nói riêng.
2.1.2.2. Tình hình sản xuất lạc ở Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế là một tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Đây là tỉnh có
nhiều tiềm năng để phát triển cây lạc. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -

xã hội của tỉnh đến 2010 đã xác định diện tích trồng lạc là 8.000 ha và sản
lượng dự kiến là 16.000 tấn.
Ở tỉnh Thừa Thiên Huế cây lạc được xem là cây trồng quan trọng mang
lại hiệu quả kinh tế cao và ổn đỉnh. Nhiều nơi đã chuyển đổi cơ cấu mở rộng
diện tích trồng lạc, đầu tư vào sản xuất lạc nên diện tích và năng suất đã có
những thay đổi đáng kể trong những năm gần đây.
Qua số liệu thống kê ta thấy diện tích trồng lạc từ năm 2000 - 2002 liên
tục tăng đạt đến 4.880 ha (2002), đến năm 2003 có giảm do giá cả không ổn
định bên cạnh đó sự chuyển giao một phần đất trồng lạc sang trồng sắn theo
dự án nhà máy tinh bột sắn của tỉnh, nhưng từ năm 2004 đến nay diện tích
trồng lạc của tỉnh bắt đầu tăng lên nhẹ và sự tăng giảm diện tích là không lớn
lắm.Về năng suất, từ 2000 - 2007 có xu hướng tăng và đạt 20,0 tạ/ha vào năm
2007 tăng 6 tạ/ha so với năm 2000 (14,1 tạ/ha). Diện tích lạc ít thay đổi
nhưng do năng suất tăng nên sản lượng lạc ngày càng tăng, năm 2000 (5.500
tấn) đến năm 2007 (9.549 tấn) tăng 4.049 [19]. Đạt được những thành tựu trên
đáng kể trên là nhờ sự quan tâm đầu tư của tỉnh Thừa Thiên Huế đến nông
nghiệp nói chung và cây lạc nói riêng. Mặc dù vậy tiềm năng phát triển cây
lạc vẫn còn rất lớn, cần có những chính sách hợp lý để thúc đẩy phát triển
diện tích trồng lạc.
7
– [W]ind
Bảng 2.3. Tình hình sản xuất lạc ở Thừa Thiên Huế
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(ta/Ha)
Sản lượng
(tấn)

2000 3900 14,1 5500
2001 4800 12,3 5900
2002 4880 14,9 7300
2003 4500 15,9 7300
2004 4670 17,0 7520
2005 4830 17,6 8400
2006 4720 18,6 8800
2007 4763 20,0 9549
2008 4100 15,3 6300
(Nguồn: Niên giám thống kê, 2007)[19]
2.2. Tình hình nghiên cứu về vi khuẩn nốt sần
Năm 1886, Hellriegel và Uynfac đã khám phá ra bí ẩn của quá trình cố
định nitơ phân tử. Họ đã chứng minh được khả năng của cây bộ đậu lấy được
nitơ khí quyển là nhờ vi khuẩn nốt sần sống ở vùng rễ cây bộ đậu và đặt tên
cho loại vi khuẩn này là Bacillus radicicola. Năm 1889, Pramovskii đã đổi tên
vi khuẩn này là Bacterium radicicola. Đến cuối năm 1889. Frank đề nghị đổi
tên là Rhizobium [6].
Vi sinh vật cộng sinh với cây bộ đậu, thuộc loại hiếu khí, Gram âm,
không sinh bào tử. Vi khuẩn nốt sần phát triển tốt ở pH 6,5 - 7,5; Nhiệt độ 24
- 26
o
C; Ẩm độ 50 - 70%. Có hình dạng thay đổi tuỳ theo từng giai đoạn phát
triển và điều kiện sống: Khi còn non có hình que ngắn, bắt màu đồng đều và
có khả năng chuyển động nhờ tiêm mao, khi về già bất động, tế bào có kích
thước lớn, phân nhánh thành các hình X, Y, V,…chứa nhiều glycogen,
volutin và lypoprotein gọi là thể giả khuẩn (Bacteroid). Thể giả khuẩn là trạng
8
– [W]ind
thái duy nhất có khả năng cố định nitơ của vi khuẩn nốt sần, giai đoạn này
trùng với giai đoạn ra hoa của thực vật, khi đó cường độ cố định nitơ của

chúng là cực đại. Vi khuẩn nốt sần có tính chuyên hoá cao, mỗi loài chỉ có
khả năng xâm nhiễm một nhóm cây họ đậu nhất định. Theo Bergey (1957) thì
vi khuẩn Rhizobium bao gồm 6 loài: R. leguminosarum; R. phasseoli; R.
trifolii; R. lupine; R. japonicum; R. meliloti.
Ngay từ 1888, người ta đã phát hiện rằng vi khuẩn nốt sần cộng sinh
với cây trồng thuộc bộ đậu có thể cố định được nitơ trong khí quyển nhưng
khi nó sống đơn độc trong đất lại không làm được điều đó. Quá trình khử N
2
thành NH
3
là do sự tham gia Nitrogenaza trong vi khuẩn, Nitrogenaza tạo
thành từ 2 bản thể: Một bản thể có phân tử thấp và chứa Fe; Một bản thể có
phân tử lượng cao và chứa Fe+Mo. Khi ở trong đất, 2 bản thể này tách rời
nhau nên vi khuẩn không có khả năng cố định nitơ. Chỉ khi vào nốt sần có
ATP của lạc đã làm cho nó khít lại, khi đó quá trình khử nitơ mới diễn ra.
Sau khi rễ ăn sâu vào đất, nó tiết ra các chất hữu cơ (đường, axít hữu
cơ, vitamin, enzim,…) hấp dẫn vi khuẩn nốt sần tương ứng. Vi khuẩn nốt sần
xâm nhập vào rễ cây bộ đậu thông qua các lông hút hoặc những tế bào bị
thương của biểu bì và vỏ rễ, đặc biệt là những chỗ phân nhánh của rễ. Do sự
kích thích của vi khuẩn, rễ tiết ra chất dịch bao vây lấy đường đi của vi khuẩn
và cũng là chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn, chúng tạo thành dây xâm
nhập nên vi khuẩn chỉ tiến vào tầng nội bì của rễ. Trong dây xâm nhập vi
khuẩn tiếp tục sinh sản, làm kích thích các tế bào bị xâm nhiễm và các tế bào
bao xung quanh, chúng nhanh chóng vào các tổ mô phân sinh và hình thành
các tế bào mới, từ đó phình ra tạo thành nốt sần [11]. Những nốt sần có khả
năng cố định nitơ phải là những nốt có dịch màu hồng đỏ, đó là màu của
Leghemoglobin, khi nốt sần già không thấy có Leghemoglobin trong dịch, nốt
sần mất màu hồng đỏ và cũng không còn khả năng cố định đạm nữa.
Thời gian đầu, sự cố định nitơ chưa có ý nghĩa đối với sinh trưởng phát
triển của cây lạc. Từ khi lạc ra hoa, đặc biệt là thời kỳ ra hoa rộ và hình thành

quả, sự cố định nitơ ngày càng có ý nghĩa và quan hệ lúc này là quan hệ cộng
sinh: Vi khuẩn sử dụng nguồn dinh dưỡng cacbon của lạc (dưới dạng gluxít)
9
– [W]ind
và năng lượng, đồng thời cung cấp N
2
dưới dạng NH
3
được cố định từ N
2
của
không khí [2]. Khi nốt sần già vỡ ra, vi khuẩn trở lại cuộc sống.
Theo ThomTon H.G, Kleczekowski 1950, John et al. 1950 cho biết :
“ Các chủng vi khuẩn nào có khả năng sống sót tối đa là những chủng có
khả năng tạo nốt sần tối đa”, chính vì vậy phải biết được khả năng cạnh tranh
tạo nốt sần của chủng vi khuẩn trước khi đưa ra đồng ruộng. Từ đó, khi sản
xuất chế phẩm vi khuẩn nốt sần cần phải chọn được những chủng có sức sống
cao, sinh trưởng, phát triển mạnh, có khả năng cố định đạm cao, đồng thời
phải cạnh tranh được với các loại vi sinh vật đối kháng trong đất.
2.3. Vai trò của vi khuẩn nốt sần
Vi sinh vật có vai trò rất lớn trong quá trình chu chuyển vật chất, nó tồn
tại và phát triển khắp nơi trên trái đất như: Trong đất , nước, không khí và
trên bề mặt các vật và trong cơ thể động thực vật. Nó góp phần biến đổi đá mẹ
thành đất, làm nên độ mùn của đất, làm giàu chất hữu cơ trong đất, nó có vai
trò rất lớn trong đời sống hàng ngày của con người và đặc biệt trong đất, vi
sinh vật giúp phân hủy xác bã hữu cơ. Theo nhiều tài liệu thì trung bình trong
đất vi khuẩn chiếm 90% tổng số, xạ khuẩn chiếm 8%, vi nấm chiếm 1%, còn
lại 1% là tảo và nguyên sinh động vật. Chúng tập trung và hoạt động mạnh ở
vùng rễ cây. Trong đó thì nhóm vi sinh vật nốt sần cộng sinh với cây bộ đậu
đang được mọi người quan tâm. Ngoài việc phân huỷ các chất hữu cơ trong

đất thì chúng còn có khả năng cố định nitơ trong không khí để cung cấp nitơ
dễ tiêu cung cấp cho cây trồng [5].
Trong khí quyển, N
2
chiếm 76,16% thể tích khí quyển. Lượng N
2
trong lớp khí quyển bên trên mỗi km
2
đất có khoảng 800.000 tấn nitơ,
lượng đủ cho cây sống trên kkhoảng 80 triệu năm nếu cây trồng đồng hoá
được chúng. Tuy nhiên con người cũng như cây trồng lại không thể tự lấy
nitơ từ không khí vì phân tử N
2
trong khí quyển tồn tại ở trạng thái liên
kết ba rất bền vững [13]. Muốn phá vỡ liên kết này người ta phải sử dụng
một năng lượng rất lớn để hoạt hoá. Dĩ nhiên trong cơ thể sinh vật không
thể đáp ứng được những điều kiện như trên. Thế nhưng vi khuẩn nốt sần
10
– [W]ind
và một số vi sinh vật nhờ có những hệ enzim có hoạt tính xúc tác mạnh là
nitrogenaza, cũng có khả năng cố định N
2
trong điều kiện bình thường.
Với tiến bộ khoa học kỹ thuật, con người đã sản xuất được phân đạm
hoá học bằng cách phá vỡ liên kết ba trong phân tử nitơ, việc sản xuất phân
đạm hoá học ngày càng tăng nhưng cũng chỉ đáp ứng một phần nhỏ lượng
nitơ mà cây trồng lấy đi khỏi đất. Hàng năm sản phẩm nông nghiệp lấy đi
khỏi đất khoảng 100 -110 triệu tấn N, trong khi đó phân đạm hoá học chỉ bổ
sung được 30% số đạm bị lấy đi, chưa kể lượng phân đạm mà cây cần.
Đối với lạc, N là yếu tố quan trọng bởi vì cây lạc chứa một lượng lớn

trong thân, lá vá hạt lạc. Theo tài liệu của Xênêgan, một tấn lạc quả lấy đi 46
– 52 kg N. Khi thiếu N cây sinh trưởng và phát triển kém, lá chuyển màu
vàng, thân chuyển nâu đỏ, nếu thiếu N nghiêm trọng thì sau hai tháng có thể
chết đến 50% [12].
Tổ chức nông lượng thế giới (FAO) đã ước tính khả năng cố định nitơ
cộng sinh của vi khuẩn nốt sần làm tăng năng suất của lạc 10 - 15%, thậm chí
50% ở vùng trồng lạc trên đất mới, đồng thời tăng phẩm chất một cách rõ rệt.
Bón vi khuẩn nốt sần còn có tác dụng thúc đẩy quá trình sinh trưởng phát
triển của cây nhanh hơn, sớm ra hoa đậu quả, số lượng nốt sần trên rễ nhiều
hơn, giảm tỉ lệ sâu bệnh từ 25 - 50% so với bón phân hoá học [3].
Trong điều kiện tối ưu cây lạc có thể cố định được 200 - 600
kgN/ha/năm, vì vậy có khả năng cung cấp 50 - 60% nhu cầu đạm cho cây
trồng, chính vì thế trong quá trình trồng lạc có thể giảm được 50 - 100 kg ure/
ha. Nhằm phát huy vai trò tối ưu của vi khuẩn nốt sần, người ta sản xuất ra
chế phẩm nitragin (chế phẩm vi khuẩn nốt sần), chế phẩm này được dùng để
bón cho đất trồng lạc hoặc tẩm vào hạt giống trước khi gieo [11].
Mặt khác, vi khuẩn nốt sần có vai trò trong cải tạo đất. Trong cuộc cách
mạng xanh, phân bón hoá học được coi là một công cụ hữu hiệu giải thoát
nhân loại ra khỏi nạn đói triền miên. Nó làm tăng năng suất cây trồng rõ rệt.
Tuy nhiên, sau hơn nửa thế kỷ sử dụng rộng rãi đến mức lạm dụng phân hoá
học, các nước tiên tiến chợt nhận ra mặt trái của vấn đề là chất hoá học sử
dụng trong nông nghiệp đã gây ô nhiểm cho môi trường không khi, đất, nước.
Khi bón nhiều phân hoá học gây ra sự mất cân đối về dinh dưỡng do thiếu hụt
11
– [W]ind
chất hữu cơ, làm giảm đi sự hoạt động của vi sinh vật có ích trong đất, tập
đoàn gây bệnh tăng lên kèm theo đó là nhiều loài sâu bệnh nguy hiểm gây
bệnh cho cây trồng. Đồng thời, vấn đề về dư lượng nitrat trong nông sản gây
ra một số bệnh cho cây trồng và vật nuôi làm ảnh hưởng đến nông sản và ô
nhiễm môi trường sống.

Theo tính toán, trên trái đất có khoảng 100 triệu tấn đạm được tổng hợp
từ khí trời, trong đó có 55 triệu tấn được tổng hợp qua nốt sần cây bộ đậu, vi
khuẩn sống cộng sinh rễ cây bộ đậu tạo ra khoảng 25 triệu tấn, vi khuẩn cộng
sinh tạo ra 1 - 2 triệu tấn, tảo xanh tạo ra khoảng 10 tiệu tấn. Đạm ure sản
xuất trong công nghiệp chiếm khoảng 10% tổng lượng đạm trên thế giới. Do
đó sự tổng hợp N của vi sinh vật có tác dụng quan trọng tạo ra sự cân bằng
đạm trong đất, làm tăng độ màu mỡ của đất đồng thời cung cấp đạm cho nhu
cầu đạm của cây.
Kết quả nghiên cứu của viện cây trồng nhiệt đới - Cộng hoà liên bang
Nga cho thấy cứ 3 năm trồng cây đậu đỗ làm giàu cho đất 300 - 600 kgN/ha;
cho 13 - 15 tấn mùn, cải thiện quá trình khoáng hoá trong đất và đẩy ra từ keo
đất 60 - 80 kg P
2
O
5
, 80 - 120 kg K
2
O/ha/năm, có thể thay thế được 20 - 60 kg
đạm ure [10].
Hàng năm cây trồng lấy đi từ đất hàng triệu tấn N, bằng cách bón phân
con người trả lại cho đất khoảng hơn 40%, lượng thiếu hụt còn lại cơ bản
được bổ sung bằng N do hoạt động sống của vi sinh vật. Vì vậy, hiện nay việc
nghiên cứu và sử dụng nguồn đạm sinh học được xem là giải pháp quan trọng
trong nông nghiệp, đặc biệt là trong xu hướng phát triển nền nông nghiệp bền
vững của thế kỷ XXI [2].
2.4. Tình hình sản xuất và sử dụng chế phẩm vi khuẩn nốt sần trên thế
giới và Việt Nam.
2.4.1. Tình hình sản xuất và sử dụng chế phẩm vi khuẩn nốt sần trên thế giới
Phân bón vi sinh do Noble Hiltmer sản xuất lần đầu tiên tại Đức năm
1896 và được đặt tên là nitragin. Sau đó loại phân này được phát triển sản

xuất tại nhiều nước trên thế giới như ở Mỹ (1896), Canada (1905), Nga
(1907), Anh (1910), Thụy Điển (1914) [22], và nhờ công nghệ tiên tiến mà
ngày càng phong phú và phát huy tác dụng cao.
12
– [W]ind
Ở Mỹ năm 1895 lần đầu tiên người ta đã sản xuất được nitragin - phân
vi sinh để đưa vào ứng dụng trong nông nghiệp. Số lượng phân vi khuẩn nốt
sần sản xuất ở Mỹ hàng năm có thể xử lý cho 650 nghìn tấn hạt giống cây bộ
đậu (Erdman 1962) [14]. Năm 1968, hơn 70% diện tích trồng đậu đã được xử
lý bằng chế phẩm vi sinh vật cố định đạm.
Ở Nga, vào đầu thế kỷ XX người ta đã bắt đầu thí nghiệm dùng chế
phẩm vi khuẩn nốt sần để tẩm cho cây bộ đậu và sau cách mạng tháng Mười
những thí nghiệm đó đã được mở rộng. Nhà nông học Xô Viết nổi tiếng
Doyarenko A.G đã viết rằng : “ Ở Liên Xô việc sử dụng chế phẩm vi khuẩn
nốt sần đã trở thành biện pháp cơ bản phổ biến trong trồng trọt ” [14].
Tại các nước Đông Nam Á, Thái Lan là nước sử dụng phân vi khuẩn
nốt sần nhiều nhất. Theo thống kê của Kong ngoen et al., số lượng chế phẩm
vi khuẩn nốt sần được sử dụng ở Thái Lan đã tăng từ 3,36 tấn/năm 1995 lên
203,28 tấn/năm 1997, tương đương với giá trị hàng hoá là 406,571 USD [5].
Nhu cầu về phân bón vi sinh vật trên thế giới là rất lớn, và đây là
phương hướng tương lai của nông nghiệp để nhằm giảm bớt các tác hại của
việc sử dụng không cân đối các loại phân hoá học, việc làm này gây ô nhiễm
môi trường và chi phí quá nhiều ngoại tệ cho nhập phân bón hữu cơ.
2.4.2. Tình hình sản xuất và sử dụng chế phẩm vi khẩn nốt sần ở Việt Nam.
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm và nghiên cứu của các nhà
khoa học trong và ngoài nước, phân vi sinh cố định đạm đã được ứng dụng
rộng rãi và mang lại những kết quả đáng khích lệ, thúc đẩy nghành sản xuất
cây đậu đỗ Việt Nam phát triển khá nhanh và cho năng suất cao.
Ở Việt Nam phân vi sinh cố định đạm, phân giải lân đã được nghiên cứu
từ năm 1960 nhưng mãi đến 1980 mới đem vào thử nghiệm loại phân vi sinh

cho cây đậu tương và chế phẩm Vinaga, Rhidafo cho cây lạc (Của trường ĐH
Cần Thơ) Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam phối hợp với ĐH
nông nghiệp I Hà Nội, ĐH tổng hợp Hà Nội, sản xuất chế phẩm nitragin bón
cho lạc, đậu tương có kết quả khả quan.
Đến năm 1987, quy trình sản xuất nitragin trên nền chất mang là than
bùn hoàn thiện trong chương trình 52B - 01-03.
13
– [W]ind
Từ 1980 trở đi những kết quả nghiên cứu của Viện khoa học kỹ thuật
nông nghiệp Việt Nam về chế phẩm vi khẩn nốt sần đã được áp dụng, tỷ lệ
diện tích được nhiễm đã được tăng lên, được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.4. Tình hình sử dụng chế phẩm nitragin cho cây đậu đỗ ở Việt Nam
Năm
Diện tích trồng
(1000ha)
Diện tích xử lý
(ha)
Tỷ lệ xử lý
(%)
1979 96,7 0 0,00
1980 106,1 4 0,03
1981 120,1 8 0,06
1982 130,8 12 0,09
1983 141,1 40 0,28
1984 170,4 50 0,29
1985 212,7 100 0,47
1986 224,5 200 0,89
1987 237,8 250 1,00
1988 230,0 320 1,39
1989 238,2 380 1,82

1990 204,2 400 1,95
(Niên giám thống kê Việt Nam năm 2008)[21]
Tuy nhiên, việc sản xuất và sử dụng chế phẩm vi khuẩn nốt sần ở Việt
Nam vẫn còn một số hạn chế nhất định như: Các kết quả nghiên cứu thu được
chỉ dừng lại ở mức độ phòng thí nghiệm, nếu có đưa ra áp dụng thì hiệu quả
cũng chưa cao do các chủng vi khuẩn không phù hựp với các điều kiện thực tế
sản xuất. Thêm vào đó chúng ta chưa có nhà máy chuyên sản xuất đủ để cung
ứng cho cả nước. Vì vậy cần phải có chính sách đầu tư hợp lý và kịp thời để
xây dựng các cơ sở chuyên sản xuất phân bón vi sinh và rút ngắn khoảng cách
phòng thí nghiệm ra đồng ruộng.
14
– [W]ind
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Giống lạc L14 được sử dụng làm đối tượng nghiên cứu, đây là giống của
Trung tâm Đậu đỗ, Vện khoa học nông nghiệp Việt Nam chọn lọc từ giống lạc
QĐ5, có nguồn gốc từ Trung Quốc. Dạng cây đứng, thời gian sinh trưởng ở vụ
xuân là 120 - 150 ngày, năng xuất quả vụ xuân 35 - 45 tạ/ha, khối lượng 100 hạt
50 - 60 g, khối lượng 100 quả 155 - 165 g, tỷ lệ nhân 73 - 75%, có khả năng
kháng bệnh cao, chịu hạn tốt, đươc công nhận vào năm 2002.
- Chế phẩm VKNS là chủng PC13 được phối chế tại phòng thí nghiệm
canh tác học, khoa Nông học, trường ĐH Nông Lâm Huế.
3.2. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu một số chỉ tiêu về sinh trưởng, phát triển và năng suất lạc ở
các công thức thí nghiệm.
- Xác định số lượng và khối lượng nốt sần trên rễ lạc ở các công thức.
- Nghiên cứu một số chỉ tiêu hóa tính và sinh tính của đất trước và sau
khi trồng lạc.
3.3. Phương pháp nghiên cứu

3.3.1.Trong phòng thí nghiệm
3.3.1.1. Nhân giống chủng VKNS:
Môi trường được sử dụng là YMA có thành phần như sau:
Cao nấm men 0,4g
Manitol 10,0g
NaCl 1,0g
MgSO
4
.7H
2
O 0,2g
CaCO
3
4,0g
K
2
HPO
4
0,5g
Agar 20,0g
Nước cất 1000ml
Dung dịch tím kết tinh 1ml
15
– [W]ind
Nuôi cấy VKNS: Nấu môi trường YMA và cho vào khoảng ¼ các ống
nghiệm đã khử trùng. Đưa các ống nghiệm này vào nồi áp suất ở 1 at trong 30
phút để khử trùng môi trường. Khử trùng xong làm thạch nghiêng các ống
nghiệm, khi thạch đông cho các ống nghiệm vào tủ ấm 30
0
C trong 2 - 3 ngày.

Cấy VKNS đã được phân lập vào các ống nghiệm không nhiễm rồi cho lại
vào tủ ấm 2 - 3 ngày.
Nhân nhanh VKNS: Pha chế môi trường YMA (không có agar) và cho
khoảng 300 - 400 ml vào bình tam giác 500ml đã khử trùng. Khử trùng môi
trường ở 1 at trong 30 phút, để nguội và đưa vào tủ cấy vô trùng. Cho VKNS
đã cấy ở trên vào bình tam giác (khoảng 10 ống nghiệm/bình). Để nhân sinh
khối, khoảng 4 - 5 ngày ta có dịch huyền phù VKNS. Sau đó kiểm tra mật độ
VKNS trong bình nhân giống, đảm bảo mỗi ml dịch huyền phù có tối thiểu
10
9
CFU.

3.3.1.2. Cách phối và kiểm tra chế phân VKNS:
- Xử lý chất mang: Chất mang để phối chế chế phẩm VKNS là than bùn.
+ Than bùn được hong khô tự nhiên, nghiền nhỏ, rây bằng rây có đường
kính lỗ rây 0,1mm, khử chua bằng CaCO
3
để đảm bảo pH của than bùn là 6,5-7.
+ Chất phụ gia thêm vào trong 100g than bùn là:
Saccaroza 1g
Supe lân 2,5g
Molipdatamon 0,1g
Sunfat sắt 0,5g
+ Đóng than bùn đã xử lý vào túi polyetylen (5x10cm) và khử trùng bằng
nồi hấp ở áp suất 1,5 at trong 1,5 giờ.
- Đưa VKNS vào chất mang: Dùng xilanh hút dịch huyền phù VKNS và
tiêm vào các túi polyetylen có than bùn đã khử trùng, khoảng 25ml/100g than
bùn.
- Kiểm tra chất lượng chế phẩm: Để kiểm tra chất lượng chế phẩm chúng
tôi dựa trên những chỉ tiêu sau:

+ Đảm bảo 1g chế phẩm có tối thiểu 10
9
tế bào.
+ Ẩm độ đạt 40 - 50%.
16
– [W]ind
+ Tổng số VK lạ không vượt quá 8% tổng số VKNS, không có nấm men,
nấm mốc, xạ khuẩn.
Phương pháp xác định số lượng VKNS có trong chế phẩm: Để xác định
số lượng VKNS có trong chế phẩm chúng tôi sử dụng phương pháp đếm số
khuẩn lạc tạo thành khi nuôi cấy trên môi trường đặc, môi trường để nuôi cấy
VKNS là môi trường YMA
N = X x 1/

V x K
X: Số khuẩn lạc trung bình đếm được ở các đĩa peptri.
V : Thể tích huyền phù VKNS cấy vào 1 đĩa peptri (ml).
K: Độ pha loãng dung dich huyền phù VSV
3.3.1.3. Phương pháp xác định một số chỉ tiêu hóa tính, sinh tính của đất trồng
lạc trước và sau khi thu hoạch.
- Phương pháp xác định một số chỉ tiêu hóa tính của đất:
+ pH đất: Xác định theo phương pháp pH metre.
+ Lân tổng số và lân dễ tiêu: Sử dụng phương pháp so màu Ôniani.
+ Mùn tổng số được xác định bằng phương pháp Tiurin.
+ Đạm tổng số được phân tích theo phương pháp Kendan.
- Phương pháp xác định một số chỉ tiêu hóa tính của đất:
Với thời gian có hạn và điều kiện phòng thí nghiệm chưa thật đầy đủ
dụng cụ, chúng tôi chỉ phân tích một số nhóm VSV chủ yếu bằng phương
pháp đếm số khuẩn lạc tạo thành sau khi nuôi cấy trên môi trường đặc.
Để xác định số lượng VK tổng số, chúng tôi sử dụng môi trường cao thịt

- pepton đặc.
Để xác định số lượng VK phân giải lân vô cơ chúng tôi sử dụng môi
trường đặc có thành phần như sau:
Glucoza: 10g
KCl: 0,3g
Ca
3
(PO
4
)
2
: 2g
MgSO
4.
7H
2
O: 0,3g
FeSO
4
.7H
2
O: 0,03g
MnSO
4
.7H
2
O: 0,03g
NaCl: 0,3g
17
– [W]ind

Agar: 20g
Nước máy: 1000ml
- Để xác định VKNS, chúng tôi sử dụng môi trường YMA.
Cách tiến hành: Lấy mẫu đất ở các công thức thí nghiệm đem về loại bỏ
rễ cây và các vật lạ khác. Sau đó cân 1g đất cho vào bình tam giác có dung
tích 250ml đã vô trùng, cho tiếm 99ml nước cất vô trùng. Đậy bình bằng nút
bông, lắc đều trong 10 phút, để yên 30 phút. Khi đó ta được dung dịch huyền
phù đất có độ pha loãng 100 lần. Dùng pipet vô trùng hút 1ml đất trong bình
tam giác cho vào ống nghiệm vô trùng chứa 9ml nước cất vô trùng, ta được
dung dịch huyền phù có độ pha loãng 10
3
. Sau đó lấy lại 1ml từ ống nghiệm
có độ pha loãng 10
3
chuyển sang ống nghiệm khác có chứa 9ml nước cất vô
trùng ta được dung dịch đất có độ pha loãng 10
4
. Cứ tiếp tục như vậy ta được
dung dịch có độ pha loãng 10
5
, 10
6
, 10
7
,... Dùng micropipet lấy 0,1ml từ các
ống nghiệm có độ pha loãng khác nhau, cấy vào các đĩa peptri đã được chuẩn
bị các môi trường thích hợp cho từng nhóm VSV. Mỗi độ pha loãng lập lại 3
lần. Sau khi đưa các đĩa peptri vào tủ ấm 30
0
c khoảng 3 - 4 ngày thì kiểm tra

và đếm số khuẩn lạc tạo thành.
3.3.2. Nghiên cứu ngoài đồng ruộng
3.3.2.1. Loại đất
Thí nghiệm đươc bố trí trên đất thịt nhẹ tại Hơp Tác Xã Hương Long
tỉnh Thưa Thiên Huế.
3.3.2.2. Thời vụ.
Thí nghiệm đươc tiến hành vào vụ xuân 2010
Đối với cây trồng nói chung và cây lạc nói riêng, hai yếu tố khí hậu và
đất đựơc xem là hai yếu tố tác động trực tiếp đến sinh trưởng , phát triển của
cây. Trong đó yếu tố thời tiết và khí hậu ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ chu
trình sống của cây. Để tìm hiểu khí hậu thời tiết của cây lạc, trong thời gian
tiến hành thí nghiệm chúng tôi đã tiến hành thu thập một số yếu tố khí tượng
cơ bản vụ xuân 2010 từ Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn tỉnh Thừa
Thiên Huế được thể hiện ở bảng sau:
18
– [W]ind
Tháng 1: Nhiệt độ có phần lạnh nhưng nhiệt độ trung bình của tháng ấm
21,0
0
C, lượng mưa khá cao 111,5(mm) và số ngày mưa là 17 ngày. Nhìn
chung nhiệt độ tương đối thuận lợi để chúng tôi tiến hành gieo hạt.
Bảng 3.2: Thời tiết Thừa Thiên Huế
Tháng
Nhiệt độ (
0
C)
Âm độ không
khí (
0
C)

Mưa
T
tb
T
max
T
min
U
tb
U
min
Số
ngày
Lượng
mưa
(mm)
Nắng
(giờ)
1
21,0 28,7 15,6 93 64 17 111,5 85
2
23,2 35,3 14,5 90 47 7 12,7 147
3
23,7 36,2 15,0 84 41 9 89,3 170
4
26,1 38,1 20,0 87 53 4 52,3 139
Ghi chú: T
tb
,T
max

,T
min
: Nhiệt độ trung bình, Nhiệt độ cao nhất, Nhiệt độ
thấp nhất.
Tháng 2: Thời tiết có sự thay đổi rõ rệt, nhiệt độ trung bình 23,2
0
C,
thời tiết ấm và độ ẩm cao thuận lợi cho lạc sinh trưởng và phát triển. Thời
gian này, trong thí nghiện của chúng tôi cây lạc đang trong thời kỳ phát triển
thân và lá.
Tháng 3: Nhiệt độ cao hơn tháng 2, lượng mưa tăng đạt 89,3(mm) kết
hợp với số ngày nắng là 170 ngày. Thơì tiết tạo điều kiện thuận lợi cho lạc ra
hoa và hình thành quả.
Tháng 4: Trong những ngày đầu nhiệt độ tương đối cao, nhưng những
ngày sau đó giảm dần và có mưa, lượng mưa khá lớn tạo tạo điều kiện cho
cây sinh trưởng và phát triển tốt và năng suất.
Nhìn chung thời tiết vụ xuân 2010 khá thuận lợi cho cây lạc sinh
trưởng và phát triển và thí nghiệm của chúng tôi.
3.3.2.3. Các công thức thí nghiệm và phương pháp bố trí thí nghiệm
19
– [W]ind
- Thí nghiệm gồm 5 công thức:
Công thức I (ĐC 1) : không nhiễm chế phẩm với lượng 30Kg/ha N
Công thức II : Nhiễm chế phẩm VKNS với lượng 0Kg/ha N
Công thức III : Nhiễm chế phẩm VKNS với lượng 15 kg/ha N
Công thức IV : Nhiễm chế phẩm VKNS với lượng 30 kg/ha N
Công thức V : Nhiễm chế phẩm VKNS với lượng 45 kg/ha N
- Phương pháp nhiễm: Nhiễm vào hạt trước khi gieo.
- Dùng phương pháp nhiễm ướt: Cho hạt giống vào nước sạch cho ướt vỏ
hạt để tăng độ bám dính với phân sau đó vớt hạt ra. Một lớp trộn đều hạt gống với

phân sao cho bề mặt hạt được phủ kín một lớp phân VKNS rồi đem gieo.
- Phương pháp bố trí thí nghiệm:
Thí nghiệm được tiến hành với 3 lần nhắc lại, được bố trí theo
phương pháp hoàn toàn ngẫu nhiên (RCB) có sơ dồ như sau:
Bảo vệ
Bảo vệ
I
3
I
3
III
3
V
3
IV
3
III
2
V
2
I
2
IV
2
II
2
I
1
III
1

IV
1
II
1
V
1
Bảo vệ
Bảo vệ
Trong đó: I, II, III, IV, V là các công thức thí nghiệm.
1, 2, 3 là các lần nhắc lại
- Diện tích thí nghiệm:
Diện tích toàn bộ thí nghiệm: 400m
2
Diện tích thí nghiệm: 250m
2
Diện tích mỗi ô thí nghiệm: 10m
2
Diện tích mô hình thí nghiệm: 150m
2
Diện tích bảo vệ: 20m
2
- Các biện pháp kỹ thuật áp dụng trong thí nghiệm:
+ Làm đất:
Sau khi đất được cày bữa kỹ lần 1, tiến hành cày bừa xới xáo lần 2 nhằm
làm cho đất tơi xốp, thoáng khí tạo điều kiện cho rễ phát triển tốt, vi khuẩn
20
– [W]ind
nốt sần Rhizôbium hoạt động mạnh. Sau đó làm sạch cỏ và tiến hành chia ô
thí nghiệm.
- Phương pháp gieo và mật độ gieo:

Lạc được gieo thẳng hàng.
Mật độ: 33cây/m
2
(hàng cách hàng 30cm, cây cách cây 10cm)
- Phân bón:
Lượng phân: 6 tấn phân chuồng + 60kg P
2
O
5
+ 60 kg K
2
O + 40 kg vôi +
35Kg CP/ha.
Cách bón:
Bón lót: 100% phân chuồng + 100% lân + 100% vôi.
Bón thúc: 2 lần.
+ Lần 1: Bón ½ đạm và ½ kali vào giai đoạn lạc có 3 lá thật. Bón phân
trong thời kỳ này nhằm cung cấp dinh dưỡng cho quá trình sinh trưởng phát
triển của cây và tạo điều kiện cho VKNS hình thành sớm.
+ Lần 2: Bón toàn bộ phân còn lại khi lạc tàn lứa hoa đầu. Bón phân lúc
này nhằm cung cấp dinh dưỡng cho quá trình ra hoa, đâm tia và hình thành quả.
- Chăm sóc: Tiến hành chăm sóc 2 đợt:
+ Đợt 1: Khi lạc có lá thật chúng tôi tiến hành xới xáo, làm cỏ kết hợp
với bón thúc lần 1. Xới xáo trên toàn bộ mặt luống, xới nhẹ tay, nông 2 -3cm
và xới xa gốc.
+ Đợt 2: Trùng với bón thúc lần 2, xới sâu 5 -7cm, xới sát gốc để tạo
điều kiện thoáng khí cho bộ rễ phát triển nốt sần hoạt động mạnh, kết hợp với
vun gốc 3 -5cm tạo bóng tối cho lạc phát triển thành quả.
3.3.2.4. Các phương pháp theo dõi và chỉ tiêu theo dõi:
- Phương pháp chọn cây theo dõi:

Khi cây được 3 lá thật thì chọn 5 cây/ ô theo nguyên tắc 2 đường chéo
góc, đóng cọc cố định để theo dõi các chỉ tiêu như: chiều cao cây, số lá, số
cành trên cây.
Định kỳ theo dõi là 10ngày/ lần và lúc thu hoạch.
- Các chỉ tiêu theo dõi:
aTheo dõi thời gian sinh trưởng qua các giai đoạn (ngày):
+ Theo dõi thời gian từ khi gieo hạt đến khi bắt đầu mọc (10% số
21
– [W]ind
cây /ô có lá mầm trồi lên trên mặt đất).
+ Thời gian từ khi gieo hạt đến khi mọc tối đa (70%số cây/ô nảy mầm).
+ Thời gian từ khi gieo hạt đến khi phân cành cấp 1 đầu tiên (khi các
cành này có chiều dài 1cm ở nách lá).
+ Thời gian từ khi gieo đến khi bắt đầu ra hoa (10% số cây/ô có hoa).
+ Thời gian từ khi gieo hạt đến khi kết thúc ra hoa (số hoa bình
quân/cây/ngày < 1 hoa liên tiếp trong vonòng 3 ngày).
+ Thời gian từ khi gieo hạt đến khi thu hoạch.
aTheo dõi chiều cao cây (cm).
Bắt đầu theo dõi từ lúc lạc có 3 lá thật và theo dõi định kỳ 10 ngày 1 lần
cho đến lúc thu hoạch.
Cách đo: Đo từ chỗ phân cặp cành cấp 1 đầu tiên đến đỉnh sinh trưởng
của thân chính.
aTheo dõi sự ra lá trên thân chính (số lá trên thân chính):
+ Định kỳ theo dõi: 10 ngày 1 lần cho đến lúc thu hoạch để xác định tốc
độ ra lá.
+ Xác định tổng số lá trên thân chính.
+ Đếm số lá xanh còn lại trên thân chính
a Theo dõi sự phát sinh phát triển của cành lạc:
+ Theo dõi ngày phân cặp cành cấp 1 đầu tiên.
+ Đếm tổng số cành trên cây. Số cành cấp 1 trên cây, số cành cấp 2 trên cây.

+ Xác định chiều dài cành cấp 1 đầu tiên (đo 1 cành).
+ Định kỳ theo dõi 10 ngày 1 lần.
a Theo dõi một số chỉ tiêu về nốt sần trên rễ lạc:
+ Theo dõi số lượng và trọng lượng nốt sần (mg) trên cây ở các giai
đoạn: Sau ra hoa 10 ngày.
Sau ra hoa 20 ngày.
Giai đoạn thu hoạch.
a Theo dõi sự ra hoa:
+ Chọn 5 cây/ô ra hoa cùng một ngày để theo dõi sự ra hoa của lạc trong
suốt thời gian lạc ra hoa.
22
– [W]ind
+ Tổng thời gian ra hoa của lạc ( từ khi 10% số cây/ô ra hoa đến khi hoa
bình quân/cây/ngày < 1 liên tiếp trong 3 ngày).
Từ đó xác định :
Tổng số quả chắc trên cây
Tỷ lệ hoa hữu hiệu (%) = . 100
Tổng số hoa trên cây
aCác yếu tố cấu thành năng suất và năng suất lạc:
Trước khi thu hoạch 1 ngày nhổ các cây lấy mẫu (5 cây/ô đã chọn từ
trước) để đo đếm lần cuối tất cả các chỉ tiêu như: chiều cao cây, số lá xanh
còn lại trên cây, số cành cấp 1, cấp 2 trên cây, chiều dài cành cấp 1 đầu tiên,
số nốt sần và khối lượng nốt sần, đếm số quả trên cây, số quả chắc trên cây.
+ Cân khối lượng quả tươi kinh tế từng ô (kg/ô).
+ Tính năng suất quả khô:

khối lượng quả khô (kg/ô)
NS quả khô (kg/m
2
) =

Diện tích ô (m
2
)
+ Tính năng suất thực thu:
NS thực thu (tạ/ha) = năng suất 1m
2
(kg) . 7500m
2
/10
2
Xác định trọng P
100
quả khô (gam) : Bốc ngẫu nhiên cho đủ 100g quả và
đếm tổng số quả. Sau đó xác định P
100
quả.
100g quả
P
100
quả(gam) = *100
Tổng số quả
+ Tính năng suất lý thuyết:
Số quả chắc/cây. Số cây/m
2
NSLT(tạ/ha) =
10
7
3.3.3. Phương pháp xử lý số liệu
Tất cả các số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê sinh học bằng
máy tính bỏ túi, phần mềm exell và phần mềm xử lý thống kê statistic.

23
– [W]ind
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Ảnh hưởng của việc nhiễm vi khuẩn nốt sần với các liều lượng đạm
khác nhau đến thời gian sinh trưởng phát triển.
Thời gian sinh trưởng của cây là khoảng thời gian cần thiết để cây trồng
hoàn thành các giai đoạn phát dục của lạc được tính từ khi gieo đến khi thu
hoạch. Thời gian sinh trưởng và phát triển phụ thuộc vào yếu tố di truyền,
thời vụ, điều kiện ngoại cảnh và điều kiện thâm canh của từng vùng. Nghiên
cứu từng giai đoạn khác nhau giúp chúng ta xác định thời vụ trồng thích hợp,
biện pháp chăm sóc tối ưu, bố trí cơ cấu mùa vụ thích hợp trong hệ thống
canh tác đem lại lợi ích cho người sản xuất. Cây lạc phát triển qua từng giai
đoạn khác nhau, để thuận tiện cho việc nhận biết và chăm sóc có thể chia ra
từng thời kỳ nhỏ.
Qua theo dõi thời gian sinh trưởng và phát triển chúng tôi thu được kết
quả ở bảng 4.1
Từ khi gieo tới khi mọc tối đa: quá trình mọc mầm của hạt lạc phụ thuộc
vào chất lượng của hạt giống và điều kiện ngoại cảnh, các yếu tố này giúp cho
quá trình chuyển hoá các hợp chất hữu cơ trong hạt tạo điều kiện cho hạt nảy
mầm. Trong thời gian này, phân bón nói chung và chế phẩm vi sinh nói riêng
hầu như chưa có ảnh hưởng đến thời gian nảy mầm của hạt. Trước khi gieo có
mưa nên độ ẩm đất tương đối thuận lợi cho quá trình nảy mầm của hạt. Sau
khi gieo một ngày trời bắt đầu nắng tạo điều kiện cho hạt nảy mầm và rút
ngắn thời gian mọc của lạc. 5 ngày từ khi gieo lạc bắt đầu mọc và mọc tối đa
sau 7 ngày gieo.
Thời gian từ khi gieo đến ngày phân cành cấp 1 đầu tiên: Trong giai đoạn
này do có không khí lạnh ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây đặc biệt là sự
phân cành. Cây sinh trưởng chủ yếu dựa vào nguồn dinh dưỡng trong hạt và
hai lá tử diệp, bộ rễ còn yếu nên ảnh hưởng của việc nhiễm chế phẩm lên hạt

24
– [W]ind
trước khi gieo chưa được thể hiện. Cụ thể bắt đầu từ ngày thứ 9 lạc bắt đầu
phân cành ở tất cả các công thức.
Bảng 4.1. Ảnh hưởng của viêc nhiễm chế phẩm vi khuẩn nốt sần với các
liều lượng đạm khác nhau đến thời gian sinh trưởng phát triển của lạc
Giai
đoạn
CT
Từ khi gieo đến...
...bắt
đầu
mọc
...mọc
tối đa
...phân
cành cấp
1đầu tiên
...ba lá
thật
...bắt
đầu ra
hoa
...kết
thúc
ra hoa
...thu
hoạch
I(ĐC) 5 7 9 11 30 50 102
II 5 7 9 11 30 51 102

III 5 7 9 11 30 51 102
IV 5 7 9 11 30 51 102
V 5 7 9 11 30 52 102
Thời gian từ gieo đến ngày xuất hiện 3 lá thật: Thời gian từ khi gieo đến
khi mọc 3 lá thật đều là 11 ngày.
Thời gian từ khi gieo đến bắt đầu ra hoa và ra hoa rộ: Đây là thời kỳ cơ
bản để cây tổng hợp chất hữu cơ chuyển từ giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng
sang sinh trưởng sinh thực. Thời kỳ này tương đối dài nên điều kiện ngoại
cảnh và canh tác có tác động rất lớn đến quá trình phân hoá mầm hoa của cây
lạc. Qua theo dõi chúng tôi nhận thấy giữa các công thức có nhiễm VKNS và
liều lượng đạm chưa có ảnh hưởng đến thời gian ra hoa của lạc.
Từ khi gieo đến kết thúc ra hoa: Thời gian này dài hay ngắn thể hiện sự ra
hoa tập trung hay không tập trung của lạc, nếu thời gian này quá dài chứng tỏ
lạc ra hoa không tập trung và như vậy sẽ kéo dài thời gian thu hoạch làm cho
lạc chín không đều. Nếu thời gian này quá ngắn và đồng thời lạc ra hoa ít,
chứng tỏ khả năng phân hoá mầm hoa kém, làm số lượng, chất lượng hoa kém
dấn đến năng suất lạc thấp.
25

×