Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.52 KB, 25 trang )

CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TRUNG DÀI HẠN CỦA NHTM
1. Hoạt động tín dụng trung dài hạn của NHTM
1.1. Hoạt động cơ bản của NHTM
Khái niệm Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại được định nghĩa là loại hình tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là nhận gửi, cho
vay và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất
kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Như vậy, hoạt động của ngân hàng thương mại có thể khái quát thành 3
nghiệp vụ chính là:
* Tạo lập nguồn vốn:
Cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào, để có thể hoạt động được thì cần
phải có vốn. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại hình thành từ hai nguồn chủ
yếu:
- Nguồn vốn chủ sở hữu hình thành từ nguồn vốn pháp định và vốn bổ xung:
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho phép) chủ ngân hàng phải có
một lượng vốn nhất định. Đây là lượng vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình
thành nên các trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp
vụ hình thành từ loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài
chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
+ Vốn pháp định là khoản vốn bắt buộc phải có trước khi đi vào hoạt động.
Nguồn vốn này thường phụ thuộc vào tính chất, qui mô của từng loại ngân hàng.
Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác
nhau. Ví dụ như Ngân hàng Công thương Việt Nam khi mới thành lập có nguồn
vốn pháp định là 200 tỷ VNĐ. Nguồn vốn pháp định có thể do Nhà nước cấp đối
với các Ngân hàng thương mại quốc doanh hoặc do các chủ sở hữu cấp đối với các
Ngân hàng thương mại cổ phần. Tuy nhiên thì vốn pháp định vẫn có thể được điều
chỉnh tăng hoặc giảm tuỳ theo mục đích của từng ngân hàng.
+ Vốn bổ xung: vốn pháp định chỉ là khoản vốn ban đầu, hàng năm các
Ngân hàng thương mại phải bổ xung vốn bằng cách trích từ lợi nhuận kinh doanh


hoặc bằng mức đóng góp của các chủ sở hữu.
Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không thì chủ ngân hàng có xu
hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn
đầu tư. Tỷ lệ tích luỹ tuỳ thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích luỹ và tiêu
dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích luỹ từ lợi
nhuận sẽ cao hơn so với vốn của chủ hình thành ban đầu.
Nguồn bổ xung từ đóng góp của các chủ sở hữu thông qua: phát hành thêm
cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt động, đổi mới trang thiết
bị hoặc đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn của chủ do ngân hàng Nhà nước quy định.
Đặc điểm của hình thức huy động vốn này là không thường xuyên song giúp cho
ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
+ Các quỹ:
Ngân hàng có nhiều quỹ, mỗi quỹ có mục đích riêng mà trước tiên là quỹ dự
phòng tổn thất (vốn tích luỹđược trích lập hàng năm nhằm bù đắp tổn thất), quỹ
bảo toàn vốn (nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát), quỹ
thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa mệnh giá và
thị giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới, ngoài ra còn có các quỹ: quỹ phúc lợi,
quỹ khen thưởng, quỹ giám đốc… Các quỹ này thuộc sở hữu của chủ ngân hàng.
Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên, khả năng
sử dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng
quỹ.
+ Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành vốn cổ phần:
Các khoản vay trung, dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả năng
chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân
hàng do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà
cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
Nguồn vốn chủ sở hữu Ngân hàng là rất quan trọng đối với quá trình hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, đóng vai trò sống còn trong việc duy
trì các hoạt động thường xuyên và đảm bảo cho ngân hàng phát triển lâu dài.
Nguồn vốn chủ sở hữu đóng vai trò là một tấm đệm để chống rủi ro phá sản vì vốn

này giúp trang trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi các vấn đề
được giải quyết và đưa ngân hàng trở lại hoạt động sinh lời. Vốn này cũng là điều
kiện bắt buộc để ngân hàng có thể huy động tiền gửi chỉ với tỷ lệ quy định. Vốn
càng lớn thì càng tạo niềm tin cho công chúng vào sự đảm bảo đối với chủ nợ về
sức mạnh tài chính của ngân hàng. Và hơn thế, vốn cung cấp năng lực tài chính
cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những trương
trình và thiết bị mới - điều kiện sống còn cho ngân hàng trong xu thế phát triển như
vũ bão của xã hội.
- Nguồn vốn thứ hai là nguồn huy động vốn nhàn rỗi từ xã hội:
Thu hút vốn nhàn rỗi trong xã hội là nhiệm vụ hàng đầu của nghiệp vụ tạo
lập nguồn vốn và là chức năng cơ bản của Ngân hàng thương mại. Phương thức
này tạo ta nguồn vốn chủ lực cho ngân hàng thương mại. Ngân hàng không thể tồn
tại nếu không huy động nguồn vốn này.
Các Ngân hàng thương mại thường huy động vốn dưới nhiều hình thức như
nhận tiền gửi (tiền gửi giao dịch, tiền gửi tiết kiệm), phát hành trái phiếu (tín phiếu
ngân hàng, kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng...) và đi vay. Nguồn vốn này
là cơ sở chính cho các khoản vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận
và sự phát triển ngân hàng.
Tiền gửi khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh
tranh mạnh mẽ và có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng
đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động vốn khác nhau:
+ Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch): đây là nguồn tiền mà các doanh
nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ.
Lãi suất của khoản tiền này rất thấp, có khi bằng không nhưng bù lại khách hàng
có thể được hưởng những dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp.
+ Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội: Các tổ chức xã
hội hay các doanh nghiệp có nhiều khoản thu không phải thanh toán ngay nên ngân
hàng đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Loại tiền gửi này khách hàng không được
hưởng các dịch vụ như tiền gửi thanh toán nhưng lại được hưởng với lãi suất cao

hơn tuỳ độ dài kỳ hạn. Nếu khách hàng cần tiền, họ có thể đến rút ra khi chưa đến
hạn và hưởng lãi suất không kỳ hạn.
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư:
Tương tự như huy động tiền gửi tiết kiệm của các doanh nghiệp, tuy nhiên
nguồn huy động này thường ổn định hơn và thời hạn thường dài hơn. Hiện nay
ngân hàng áp dụng rất nhiều các hình thức huy động đa dạng kết hợp với lãi suất
cạnh tranh hấp dẫn để thu hút ngày càng nhiều lượng tiền gửi dân cư.
+ Tiền gửi của ngân hàng khác:
Nhằm mục đích thanh toán hộ và một số mục đích khác, ngân hàng thương
mại thường gửi tiền tại các ngân hàng thương mại khác. Quy mô loại tiền gửi này
thường không lớn.
- Nguồn thứ ba là vốn đi vay: Đôi khi cần thiết, ngân hàng thường phải vay
mượn thêm. Các ngân hàng thường đi vay ở NHNN, vay các tổ chức tín dụng khác
hoặc vay trên thị trường vốn. Các khoản vay này nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách
trong chi trả của ngân hàng thương mại nên thường phải chịu những chi phí lớn
hoặc ràng buộc nhất định.
- NHTM còn có thể tận dụng các nguồn vốn khác như: vốn uỷ thác của các tổ
chức tín dụng lớn, các tổ chức tín dụng nước ngoài, nguồn vốn phát sinh trong quá
trình thanh toán giữa các ngân hàng, các nguồn khác là các khoản nợ như thuế
chưa nộp hay lương chưa phải trả…. Tuy nhiên nguồn vốn này thường không ổn
định và không phải ngân hàng nào cũng có điều kiện sử dụng.
* Sử dụng vốn:
Hoạt động của ngân hàng là hình thức hoạt động tư duy hướng lợi nhuận, do
đó các khoản vốn của ngân hàng phải được sử dụng một cách có hiệu quả, đem lại
lợi nhuận cao nhất. Với nhu cầu xã hội ngày càng cao thì việc sử dụng vốn ngày
càng được đa dạng phong phú hơn. Hiện nay, các ngân hàng thương mại có hướng
sử dụng vốn chủ yếu là:
- Cho vay:
Tín dụng là chức năng kinh tế hàng đầu của ngân hàng, là hình thức sử dụng
vốn quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong toàn bộ tài sản có của ngân hàng

thương mại, đây là các tài sản mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng thương mại
nên chất lượng các khoản vay giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển
của ngân hàng.
Để quản lý các khoản cho vay người ta thường phân loại chúng dựa trên
nhiều tiêu thức khác nhau. Nếu căn cứ vào thời hạn cho vay thì có thể phân loại
thành các hình thức: cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn.
+ Cho vay ngắn hạn: Đây là loại cho vay truyền thống, nhằm bổ xung sự
thiếu hụt tạm thời vốn lưu động cho các doanh nghiệp và cho vay tiêu dùng. Cụ thể
là ở những dạng như: triết khấu các giấy tờ có giá, ứng trước theo hợp đồng, khấu
trừ chi qua tài khoản vãng lai... thời hạn cho vay ngắn hạn ở Việt Nam là không
quá 12 tháng.
+ Cho vay trung, dài hạn: Được thực hiện đối với những chương trình, dự án
phát triển kinh tế xã hội. Đối tượng cho vay trung và dài hạn thường là để xây
dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định, đổi mới và mở rộng hoạt động kinh doanh
và các đối tượng khác có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài ngày. Hiện nay ở Việt
Nam cho vay trung hạn từ 1 đến 5 năm, còn cho vay dài hạn là trên 5 năm. Tỷ
trọng cho vay trung, dài hạn hiện nay còn thấp nhưng theo xu hướng công nghiệp
hoá - hiện đại hoá thì chắc chắn tỷ trọng này sẽ càng tăng.
Ngoài ra còn có các hình thức tín dụng khác như: cho vay, bảo lãnh, cho
thuê (dựa vào hình thức tài trợ tín dụng); tín dụng có bảo đảm và tín dụng không
có bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố; tín dụng phân lợi theo rủi ro (khoản tín
dụng có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp); tín dụng theo ngành kinh tế
(công, nông nghiệp…) hoặc theo đối tượng tài trợ (hàng hoá, bất động sản…) hoặc
theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng…)
- Hoạt động đầu tư:
Ngoài hoạt động cho vay, các hoạt động đầu tư cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ
trong bảng cân đối của ngân hàng thương mại bởi hoạt động đầu tư giúp tăng thu
nhập cho ngân hàng và khai thác tối đa các nguồn vốn đã huy động. Hoạt động đầu
tư chủ yếu là các hoạt động như: mua bán các chứng khoán chính phủ, mua cổ
phiếu và trái phiếu của các doanh nghiệp (tham gia vào thị trường chứng khoán)

- Hoạt động ngân quỹ:
Bao gồm các hoạt động chi trả đối với khách hàng về tiền mặt, tiền gửi, tiền
vay trong quá trình thu nhận và nghiệp vụ chứng khoán ngắn hạn. Trong tổng
nguồn vốn huy động được, các ngân hàng thương mại phải dành một tỷ lệ dự trữ
nhất định gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Nếu dự trữ qúa lớn xẽ gây lãng phí vốn,
ngược lại thì xẽ không đủ khả năng thanh toán cho khách hàng gây mất uy tín đối
với khách hàng và có thể còn dẫn đến đổ vỡ ngân hàng. Do đó để đảm bảo khoản
dự trữ an toàn là hết sức khó khăn. Hiện nay, sự xuất hiện thị trường liên ngân
hàng đã giúp cho các ngân hàng giảm bớt khó khăn trong tính toán việc dự trữ của
mình.
* Các hoạt động trung gian:
Các hoạt động trung gian gồm có các nghiệp vụ thanh toán tiền hàng, quản
lý tài sản, dịch vụ chứng khoán, cung cấp thông tin tư vấn, ... những nghiệp vụ
thực hiện sự uỷ thác của khách hàng. Trong giai đoạn hiện nay cũng như sau này,
với sự cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường thì các hoạt động trung gian càng
đóng vai trò quan trọng. Xu hướng loại hình dịch vụ trung gian sẽ chiếm tỷ trọng
lớn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại trong tương lai.
1.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại:
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng nói riêng và các tổ
chức trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo
thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất . Tín dụng là
hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng (còn được gọi là tín dụng ngân
hàng).
1.2.1. Khái niệm:
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay (ngân
hàng) và bên đi vay (các cá nhân và thành phần kinh tế); trong đó bên cho vay
chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định kèm theo
các điều kiện bảo đảm thoả thuận giữa hai bên, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả
vốn gốc và lãi cho bên đi vay khi đến hạn thanh toán.
Có nhiều tiêu thức để phân loại tín dụng nhưng thông thường các ngân hàng

thường phân tín dụng theo thời hạn. Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng
đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và hiệu quả
cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân
thành: tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung dài hạn:
+ Tín dụng ngắn hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn cho vay đến 12
tháng
+ Tín dụng trung hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn cho vay từ trên
12 tháng đến 60 tháng.
+ Tín dụng dài hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn cho vay từ trên 60
tháng trở lên.
Thời hạn những khoản tín dụng này phụ thuộc vào mục đích xin vay, chu
kỳ sản xuất kinh doanh của dự án.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
Nếu như huy động vốn là hoạt động tập chung vốn nhàn rỗi từ trong dân cư
thì hoạt động tín dụng lại chuyển giao vốn cho những người có nhu cầu sử dụng
vốn. Ngân hàng chính là trung gian dẫn chuyển vốn từ những người thừa vốn đến
người thừa vốn một cách có hiệu quả nhất. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường
hiện nay tín dụng ngân hàng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói riêng thực sự
là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế.
- Ngân hàng tham gia vào thúc đẩy quá trình tích tụ và tập chung vốn cho
sản xuất:
Tín dụng ngân hàng đáp ứng được nhu cầu vốn cho quá trình sản xuất liên
tục, tập chung vốn cho quá trình tái sản xuất mở rộng với quy mô ngày càng lớn cả
về chiều rộng lẫn chiều sâu. Việc tập chung vốn và phân phối vốn đã góp phần
điều hoà vốn trong nền kinh tế quốc dân từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Như
vậy tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là đòn bẩy trong việc thúc đẩy
kinh tế phát triển.
Trong quá trình sản xuất, tín dụng trung, dài hạn như là một nguồn hình
thành vốn cố định, là nguồn bổ xung vốn thiếu hụt cho các hoạt động cải tạo, đổi
mới, thay thế trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng ngân

hàng góp phần thúc đẩy quá trình ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ để đẩy
nhanh quá trình tái sản xuất xã hội.
- Tín dụng trung dài hạn là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế và góp phần
tăng trưởng kinh tế cho các ngành kinh tế mũi nhọn:
Bằng việc sử dụng lãi suất ưu đãi đối với những ngành kinh tế mũi nhọn
cũng như các ngành kinh tế khác cần thiết cho quốc kế dân sinh, tín dụng ngân
hàng giúp những ngành kinh tế này phát triển. Tín dụng hình thức này thay thế cho
hình thức cấp vốn ngân sách nhà nước. Vì đặc trưng của tín dụng là hoàn trả cả
vốn lẫn lãi giúp cho các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả hơn là được cấp
ngân sách, do không hoàn trả nên người sử dụng thường không quan tâm tới việc
sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế và góp phần tạo
nên một cơ cấu kinh tế hợp lý:
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cạnh tranh là yếu tố tất yếu của môi
trường hoạt động của các doanh nghiệp. Để thắng đối thủ cạnh tranh đạt hiệu qủa
kinh tế cao nhất, các doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm thị trường mới và thực
hiện các biện pháp như ứng dụng các thành tựu khoa học hay áp dụng công nghệ
mới để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Muốn thực hiện được điều
này thì doanh nghiệp cần phải có nguồn vốn đầu tư lớn mà tín dụng ngân hàng
chính là nguồn tài trợ cho những nhu cầu này.
Bên cạnh đó, việc di chuyển hoạt động kinh doanh từ ngành này sang ngành
khác hay đầu tư vào một ngành mới đòi hỏi lượng vốn rất lớn. Tín dụng ngân hàng
là một biện pháp mà các doanh nghiệp thường sử dụng để đáp ứng cho nhu cầu
vốn lớn và tập chung đó. Với sự giúp đỡ này, các nhà sản xuất kinh doanh dễ dàng
chuyển từ ngành kinh doanh có lợi nhuận thấp sang ngành có lợi nhuận cao, tạo
điều kiện bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế nhằm hình thành nên
một cơ cấu kinh tế hợp lý.

×