Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Hiệu quả hoạt động kinh doanh tại ngân hàng thương mại cổ phần phát triển thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (761.84 KB, 103 trang )

i

LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn có lời cam đoan danh dự về công trình khoa học này của mình, cụ thể:
Tôi tên là : Lê Thanh Nhân
Sinh ngày: 27 tháng 10 năm 1986, Tại: Bến Tre
Quê quán: Bến Tre
Hiện công tác tại: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phát triển TP.HCM
Là học viên cao học khóa XI, lớp 11B1, của Trường Đại học Ngân hàng TP.Hồ
Chí Minh. Mã số học viên: 20111090108.
Cam đoan đề tài: “Hiệu quả hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh”.
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính, ngân hàng
Mã số chuyên ngành: 60.31.12
Người hướng d n khoa học: T . Nguy n ăn Ph c.
Luận văn được thực hiện tại Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM.
Đề tài này là công trình nghiên cứu riêng của tôi, các kết quả nghiên cứu có tính
độc lập riêng, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa được công bố toàn bộ nội
dung này bất kỳ ở đâu; các số liệu, các nguồn trích d n trong luận văn được ch thích
nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi.
TP. HCM, ngày 22 tháng 04 năm 2013
Tác giả

LÊ THANH NHÂN


1

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH


CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1.1. Lý luận về ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính quan trọng đối với nền kinh tế.
Các định nghĩa về ngân hàng dựa trên chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà nó thực
hiện đối với nền kinh tế. Tùy theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân
hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã [3].
Khi đề cập đến khái niệm Ngân hàng thương mại, có rất nhiều phát biểu khác nhau tùy
vào mỗi quốc gia. Chẳng hạn:
-

Ở Ấn Độ: NHTM là cơ sở chuyên nhận các khoản ký thác để cho vay hay

tài trợ đầu tư. [3]
-

Ở Pháp: NHTM là những doanh nghiệp và cơ sở nào thường xuyên nhận

của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho
chính họ vào nghiệp vụ tín dụng, chứng khoán hay dịch vụ tài chính. [3]
-

Ở Mỹ: NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ

tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. [3]
-

Peter S.Rose định nghĩa: Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp


một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và
dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ
chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. [8]
-

Ở Việt Nam: Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 được Quốc hội

thông qua ngày 16/06/2010 quy định: “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo
quy định nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Trong đó, “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín
dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng”, Luật này còn định nghĩa:


2

“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động
ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ
chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân” và “Hoạt động ngân hàng là việc kinh
doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ: nhận tiền gửi, cấp tín
dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”. [15]
Như vậy, có thể khái quát định nghĩa về NHTM như sau: NHTM là một loại
hình doanh nghiệp được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng vì mục tiêu lợi
nhuận.
1.1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại
NHTM có ba chức năng, đó là: chức năng thủ quỹ, chức năng trung gian thanh
toán và chức năng trung gian tín dụng.
- Chức năng thủ quỹ
Thực hiện chức năng thủ quỹ, NHTM nhận tiền gửi, giữ tiền, bảo quản tiền,
thực hiện yêu cầu rút tiền, chi tiền của khách hàng là các chủ thể trong nền kinh tế.

Chức năng thủ quỹ có tác dụng khác nhau đối với từng chủ thể khác nhau:
+ Đối với khách hàng, có tác dụng giúp cho khách hàng gửi tiền không những
đảm bảo an toàn cho đồng vốn tạm thời nhàn rỗi của mình mà còn có tác dụng sinh lời
cho những đồng vốn đó, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
+ Đối với ngân hàng, thực hiện chức năng thủ quỹ là cơ sở để ngân hàng thực
hiện chức năng thanh toán, đồng thời tạo nguồn vốn để ngân hàng thực hiện chức năng
trung gian tín dụng.
+ Đối với nền kinh tế, thông qua chức năng thủ quỹ của các ngân hàng thương
mại, từ đó tập trung được nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để phục vụ
phát triển kinh tế, tiếp tục đầu tư sản xuất tạo ra nhiều của cải hơn cho xã hội.
- Chức năng trung gian thanh toán
Chức năng này là sự kế thừa và phát triển chức năng thủ quỹ của NHTM, tức là
thay mặt khách hàng, ngân hàng trích tiền trong tài khoản trả cho người thụ hưởng
hoặc nhận tiền vào tài khoản theo lệnh của chủ tài khoản. Công việc của người thủ quỹ
chính là ở chỗ làm trung gian thanh toán.


3

Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế vì đã tạo
điều kiện thuận lợi giúp khách hàng thanh toán nhanh chóng, hiệu quả và an toàn, từ
đó đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Khi khách
hàng gửi tiền vào ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và
thực hiện thu chi một cách nhanh chóng, tiện lợi, nhất là đối với các khoản thanh toán
có giá trị lớn, ở mọi địa phương, mà nếu khách hàng tự thanh toán sẽ rất tốn kém (như
những chi phí lưu thông tiền mặt: chi phí cho việc đúc tiền, in tiền, bảo quản tiền, vận
chuyển tiền,…), khó khăn và không an toàn.
Chức năng trung gian thanh toán là tiền đề và cơ sở để các NHTM tạo ra tiền
ghi sổ, góp phần tăng quy mô tín dụng cho nền kinh tế, vừa tiết kiệm khối lượng tiền
mặt lưu thông dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ, vừa tạo điều kiện thuận lợi

cho nhiều dịch vụ ngân hàng khác phát triển. Mặt khác, chức năng trung gian thanh
toán giúp tăng uy tín của ngân hàng lên thông qua các dịch vụ được khuyếch trương.
- Chức năng trung gian tín dụng
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM, có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngân hàng huy động và tập
trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình
thành nguồn vốn cho vay, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, đầu tư và
tiêu dùng của các chủ thể kinh tế. Quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể thừa vốn và
chủ thể có nhu cầu vay vốn gặp nhiều hạn chế về không gian, thời gian, khả năng thẩm
định khách hàng, trình độ quản lý,… chính chức năng trung gian tín dụng của NHTM
đã góp phần khắc phục hạn chế đó.
Chức năng trung gian tín dụng có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế, giúp điều hòa
vốn từ nơi tạm thời dư thừa đến nơi tạm thời thiếu hụt, làm giảm tối đa lượng vốn
nhàn rỗi trong nền kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Đối với NHTM,
chức năng này là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển, tạo nguồn vốn để ngân hàng kinh
doanh và gia tăng lợi nhuận, đồng thời là cơ sở để NHTM tạo bút tệ. Đối với khách
hàng gửi tiền, vừa giúp cho nguồn vốn nhàn rỗi tăng khả năng sinh lợi vừa đảm bảo an
toàn vốn. Đối với khách hàng vay vốn, kịp thời thỏa mãn được nhu cầu vốn tạm thời


4

thiết hụt trong sản xuất, kinh doanh, đầu tư và tiêu dùng vừa tiết kiệm chi phí, tiết
kiệm thời gian tìm kiếm nguồn vốn tiện lợi, an toàn và hợp pháp.
1.1.2. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
NHTM hoạt động kinh doanh chủ yếu trong các lĩnh vực: hoạt động huy động
vốn, hoạt động cấp tín dụng, hoạt động dịch vụ thanh toán, hoạt động ngân quỹ và các
hoạt động kinh doanh khác.
-


Hoạt động huy động vốn

Huy động vốn là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của NHTM nhằm giải
quyết "đầu vào", tức là hình thành nguồn vốn để ngân hàng kinh doanh. NHTM huy
động vốn dưới các hình thức sau:
 Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình
thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
 Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động
vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
 Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và các tổ chức
tín dụng tại nước ngoài.
 Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.
 Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
-

Hoạt động cấp tín dụng

NHTM cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức: cho vay, chiết khấu
giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính, bao thanh toán và các hình thức khác. Trong
đó, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
-

Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ

Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của NHTM bao gồm các hoạt động:
cung cấp các phương tiện thanh toán, thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước và
quốc tế cho khách hàng, thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ,… Các dịch vụ thanh toán
trong nước và quốc tế thông qua ngân hàng ngày nay trở thành nhu cầu không thể thiếu
của các chủ thể trong nền kinh tế, giúp cho hàng hóa được luân chuyển nhanh hơn, thúc
đẩy các giao dịch ngoại thương phát triển.



5

-

Hoạt động kinh doanh ngoại hối

Hoạt động kinh doanh này của NHTM rất phát triển trong giai đoạn hiện nay
nhằm đáp ứng nhu cầu trao đổi, mua bán trong hoạt động ngoại thương. Ngân hàng thực
hiện mua, bán đồng tiền này để lấy đồng tiền khác nhằm mục đích thu lợi nhuận. Ngân
hàng mua bán ngoại tệ theo các dạng hợp đồng: giao ngay (spot), kỳ hạn (forward),
tương lai (future), quyền chọn (option).
-

Hoạt động kinh doanh khác

Ngoài các hoạt động truyền thống như huy động vốn, cấp tín dụng, dịch vụ
thanh toán và ngân quỹ, kinh doanh ngoại hối, NHTM còn thực hiện các hoạt động
kinh doanh khác như góp vốn kinh doanh và mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ,
ủy thác và nhận ủy thác, cung ứng dịch vụ bảo hiểm, tư vấn tài chính, bảo quản vật
quý giá,…
1.2. LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1.2.1. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại
1.2.1.1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh
Hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm “hiệu quả kinh doanh”,
nhưng trong cơ chế kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đều
có mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận.
Xét trên khía cạnh hiệu quả kinh tế, có ý kiến cho rằng: "Hiệu quả sản xuất kinh

doanh diễn ra khi xã hội không tăng sản lượng một loại hàng hóa mà cũng không cắt giảm
sản lượng của một loại hàng hóa khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả
năng sản xuất của nó"[23]. Thực chất, quan điểm này đã đề cập đến khía cạnh phân bổ có
hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội. Trên phương diện này, phân bổ các
nguồn lực kinh tế sao cho đạt được việc sử dụng mọi nguồn lực trên đường giới hạn khả
năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả và xét trên phương diện lý thuyết thì đây
là mức hiệu quả cao nhất mà mỗi nền kinh tế có thể đạt được. Xét về mặt lý thuyết, hiệu
quả kinh doanh chỉ có thể đạt được trên đường giới hạn năng lực sản xuất của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, để đạt được mức hiệu quả kinh doanh này sẽ cần rất nhiều điều kiện,


6

trong đó đòi hỏi phải dự báo và quyết định đầu tư sản xuất theo qui mô phù hợp với cầu thị
trường. Thế nhưng không phải lúc nào điều này cũng trở thành hiện thực.
Nhiều nhà quản trị học quan niệm: “Hiệu quả kinh doanh được xác định bởi tỉ
số giữa kết quả đạt được và chi phí phải bỏ ra để đạt được kết quả đó”[23]. Hoặc có ý
kiến cho rằng: "Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá
trị chia cho chi phí kinh doanh"[23].
Từ các quan điểm trên, luận văn rút ra:
Có thể hiểu một cách khái quát hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình
độ lợi dụng các nguồn lực (nhân lực, tài lực, vật lực) để đạt được mục tiêu xác định.
Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể được đánh giá trong mối quan hệ với kết
quả tạo ra, để xem xét với mỗi sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở
mức độ nào. Vì vậy, có thể mô tả hiệu quả kinh doanh bằng công thức chung nhất như
sau:
H = K/E
Trong đó:
+ H: Hiệu quả kinh doanh
+ K: Kết quả đạt được

+ E: Hao phí nguồn lực cần thiết để tạo ra kết quả đó
Hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh
doanh, trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong sự vận động không ngừng của quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ
biến động của từng nhân tố.
1.2.1.2. Khái niệm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại cũng là một loại hình doanh nghiệp, trên góc độ này
người ta có thể nghiên cứu hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ.


7

Cơ chế hoạt động của NHTM liên quan đến việc đánh giá hiệu quả bằng hệ
thống các chỉ tiêu định tính và định lượng về hoạt động kinh doanh của NHTM, vì vậy
cần nhất quán: Thứ nhất, hiệu quả kinh doanh của NHTM cao hay thấp thể hiện ở việc sử
dụng các nguồn lực sản xuất xã hội để góp phần thực hiện các chỉ tiêu kinh tế xã hội, thúc
đẩy nền kinh tế xã hội phát triển. Thứ hai, hiệu quả kinh doanh của NHTM còn thể hiện
trực tiếp ở việc làm lợi cho ngân hàng một trong các chỉ tiêu, một số chỉ tiêu hoặc tất cả
các chỉ tiêu như lợi nhuận, số lượng khách hàng, thị phần,... Hai nhận thức này có quan hệ
chặt chẽ, bổ sung cho nhau và không thể tách rời nhau.
Như vậy, trước hết, hiệu quả kinh doanh của NHTM mà không gắn liền với sự
phát triển của nền kinh tế thì hiệu quả đó là hiệu quả cục bộ. Do đó, trong bất kỳ trường
hợp nào, hoạt động kinh doanh của NHTM cũng phải góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, phù hợp với định hướng, mục tiêu của Nhà nước. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh
của ngân hàng không thể tham gia vào quá trình sản xuất xã hội với bất kỳ giá nào, ngân
hàng không thể đầu tư vốn thiếu sự tính toán, cân nhắc trên cơ sở các dự án có tính khả thi.
Thứ hai, hiệu quả kinh doanh của NHTM còn phải đảm bảo thực hiện mục tiêu của các
nguồn vốn. Chẳng hạn, mục tiêu của nguồn vốn huy động là để cho vay xóa đói giảm
nghèo, có hoàn trả hoặc không hoàn trả, có trả lãi vay hoặc không trả lãi vay, vay ngắn

hạn hay dài hạn,... tùy theo tính chất của từng nguồn vốn. Thứ ba, hiệu quả kinh doanh
của NHTM còn phải thực hiện có hiệu quả các cơ chế về hoạt động kinh doanh của
NHTM, như đảm bảo khả năng an toàn vốn, chất lượng tài sản có, hệ thống quản trị
ngân hàng, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán,...
Từ những phân tích trên, luận văn rút ra nhận thức về hiệu quả kinh doanh của
NHTM như sau:
Một là, hiệu quả kinh doanh của NHTM là một bộ phận không thể tách rời của
hiệu quả tái sản xuất toàn bộ xã hội. Quá trình thực hiện đầu tư vốn cũng như các hoạt
động kinh doanh khác của NHTM thể hiện thời điểm tạm thời của quá trình tái sản xuất,
đảm bảo hiệu quả cao hơn của mỗi chu kỳ tái sản xuất tiếp theo. Việc nghiên cứu hiệu quả
kinh doanh của NHTM không thể tách rời khỏi mối quan hệ với hiệu quả của toàn bộ nền


8

kinh tế quốc dân. Vì thế, tiêu chuẩn hiệu quả kinh doanh của NHTM phải gắn liền với tiêu
chuẩn hiệu quả phát triển kinh tế quốc dân trong một tổng thể.
Hai là, hiệu quả kinh doanh của NHTM đồng nghĩa với việc đạt được sự thống
nhất về lợi ích giữa khách hàng, ngân hàng và nền kinh tế quốc dân.
Ba là, thực hiện có hiệu quả mối quan hệ giữa mục tiêu kinh doanh và tiêu
chuẩn hiệu quả của NHTM. Theo nguyên tắc này, mục tiêu là tiêu chuẩn để xác định
hiệu quả kinh tế, khi mục tiêu thay đổi thì tiêu chuẩn xác định hiệu quả kinh tế cũng
thay đổi. Mỗi chủ thể có những mục tiêu khác nhau khi tham gia hoạt động đầu tư vốn
và thay đổi tùy theo từng thời kỳ. Nếu một NHTM xem nâng cao lợi nhuận là mục tiêu
hàng đầu thì tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá hiệu quả kinh tế là quy mô lợi nhuận và tỷ
suất lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư vốn. Còn khi ngân hàng không nhấn mạnh
yêu cầu về lợi nhuận mà nhấn mạnh mục tiêu trước mắt là thu hút khách hàng và mở
rộng đầu tư vốn thì tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả là số lượng dự án đầu tư và số
lượng khách hàng được đầu tư,...
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM quyết định trực tiếp đến sự tồn tại

và phát triển của NHTM. Nếu NHTM hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì uy tín tăng
lên, khách hàng tin tưởng và đặt mối quan hệ giao dịch nhiều hơn. Ngược lại, nếu
NHTM hoạt động kinh doanh không hiệu quả, khách hàng sẽ không đến giao dịch,
NHTM không thể tồn tại. Do đó, các NHTM luôn xem hiệu quả hoạt động kinh doanh
là mục tiêu quan trọng hàng đầu.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương
mại
Hiệu quả hoạt động kinh doanh là điều kiện quyết định sự tồn tại và phát triển
của một ngân hàng, để điều hành hoạt động kinh doanh của ngân hàng hiệu quả đòi
hỏi các nhà quản trị phải xác định được các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
kinh doanh nhằm hạn chế rủi ro tiềm ẩn, bảo toàn vốn, nâng cao thu nhập và lợi
nhuận. Các nhân tố này được chia thành hai nhóm, đó là nhóm nhân tố khách quan và
nhóm nhân tố chủ quan, tùy theo điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng thời kỳ, từng


9

ngân hàng mà hai nhóm nhân tố này có những ảnh hưởng khác nhau đến hiệu quả kinh
doanh của các ngân hàng.
1.2.2.1. Nhóm nhân tố khách quan
- Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là điều kiện tiên quyết ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả
hoạt động của NHTM. Môi trường kinh tế bao gồm:
+ Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc gia nói riêng và sự phát triển
của nền kinh tế thế giới nói chung.
+ Sự điều hành chính sách tiền tệ và quản lý hoạt động tiền tệ của NHTW.
- Môi trường chính trị
Môi trường chính trị có tác động không nhỏ đến hiệu quả hoạt động kinh doanh
của NHTM, tác động đến hệ thống pháp luật để điều chỉnh quy tắc hoạt động của
NHTM, tác động đến tư duy của nhà quản lý và định hướng hoạt động của ngân hàng.

- Môi trường xã hội
Môi trường xã hội thể hiện qua trình độ dân trí của từng vùng, từng quốc gia,
phong tục tập quán, nhu cầu và thói quen tiêu dùng.
- Môi trường tự nhiên
Sự biến động thuận lợi hay không thuận lợi của môi trường tự nhiên ảnh hưởng
trực tiếp đến kết quả sản xuất, kinh doanh của khách hàng, đồng nghĩa với việc có ảnh
hưởng gián tiếp đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Chẳng hạn khi có thiên tai, lũ
lụt, hạn hán,… nông dân sẽ bị mất mùa, không có nguồn thu nhập thì khả năng thu hồi
nợ của NHTM bị giảm sút, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của NHTM. Khi thời
tiết thuận lợi, người dân được mùa thì NHTM sẽ thu được nợ đến hạn tốt hơn.
- Môi trường công nghệ
Công nghệ phát triển cho phép các NHTM ứng dụng được công nghệ hiện đại,
đưa ra được nhiều sản phẩm dịch vụ thu hút khách hàng, tiết kiệm được chi phí, thời
gian giao dịch mang lại hiệu quả kinh doanh cao hơn.


10

1.2.2.2. Nhóm nhân tố chủ quan
Nhóm nhân tố chủ quan là các nhân tố nội bộ bên trong của NHTM như các
yếu tố về năng lực tài chính, nguồn nhân lực, khả năng quản trị điều hành,…
- Năng lực tài chính
Năng lực tài chính của NHTM là khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn trong
quá trình hoạt động kinh doanh, thể hiện ở qui mô vốn tự có, khả năng sinh lời và khả
năng chống đỡ rủi ro. Trước hết, qui mô vốn tự có thể hiện sức mạnh tài chính của một
ngân hàng và ảnh hưởng đến qui mô kinh doanh như khả năng huy động vốn và cho vay,
khả năng đầu tư tài chính và trình độ ứng dụng tiến bộ công nghệ. Thứ hai, khả năng sinh
lời thể hiện tính hiệu quả của một đồng vốn kinh doanh. Thứ ba, khả năng phòng ngừa và
chống đỡ rủi ro cũng là một nhân tố phản ánh năng lực tài chính của một ngân hàng, nếu
nợ xấu tăng lên thì dự phòng rủi ro cũng phải tăng để bù đắp tổn thất có thể xảy ra, ngược

lại nếu nợ xấu tăng nhưng dự phòng rủi ro không đủ bù đắp tổn thất sẽ làm khả năng tài
chính xấu đi, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng. Như vậy, năng lực tài
chính của NHTM đóng vai trò vô cùng quan trọng, năng lực tài chính càng được bảo đảm
thì mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng càng thấp và năng lực cạnh tranh của NHTM
trên thị trường càng cao.
- Nguồn nhân lực
Nhân tố con người là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại trong hoạt động
của bất kỳ tổ chức nào kể cả NHTM. Xã hội ngày càng phát triển thì các ngân hàng càng
phải cung cấp nhiều sản phẩm dịch vụ mới, có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của khách hàng. Điều này đòi hỏi chất lượng của nguồn nhân lực phải được
nâng cao để đáp ứng kịp thời đối với những thay đổi của thị trường, của xã hội. Việc sử
dụng nhân lực có đạo đức nghề nghiệp, giỏi về chuyên môn sẽ giúp ngân hàng tạo lập
được những khách hàng trung thành, ngăn ngừa các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động
kinh doanh và đây cũng chính là nhân tố giúp các ngân hàng giảm thiểu được chi phí hoạt
động.


11

- Cơ cấu tổ chức và điều hành
Năng lực quản trị, điều hành là nhân tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Nếu như đội ngũ lãnh đạo của ngân hàng có năng lực điều hành tốt sẽ sắp xếp
được cơ cấu tổ chức của đơn vị hợp lý, có khả năng xây dựng và lựa chọn chiến lược kinh
doanh phù hợp mang lại hiệu quả hoạt động kinh doanh cao cho đơn vị.
- Mạng lưới hoạt động của ngân hàng
Khi ngân hàng có mạng lưới rộng thì thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh,
thu hút được nhiều khách hàng, gia tăng thị phần, từ đó giúp tăng thu nhập và lợi
nhuận cho ngân hàng.
- Các yếu tố cấu thành sản phẩm dịch vụ
Các yếu tố cấu thành sản phẩm bao gồm chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm

và tiện ích sản phẩm. Khi ngân hàng cung cấp bộ sản phẩm đa dạng và trọn gói thỏa
mãn tất cả nhu cầu của khách hàng, với chất lượng cao, giá cả hợp lý và nhiều tiện ích
thì sẽ thu hút nhiều khách hàng sử dụng, từ đó làm gia tăng nguồn thu và lợi nhuận.
- Hoạt động marketing
Hoạt động marketing giúp khách hàng nhận biết được ngân hàng, nhớ đến ngân
hàng khi có nhu cầu sử dụng sản phẩm dịch vụ và tin dùng sản phẩm của ngân hàng.
Ngày nay, các NHTM rất xem trọng hoạt động marketing, đã đầu tư nhiều vào hoạt
động này dưới các hình thức khác nhau, để đạt được mục tiêu cuối cùng là nâng cao
thu nhập và lợi nhuận của ngân hàng thông qua việc mở rộng thị trường phục vụ và gia
tăng thị phần.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại
Hiệu quả kinh doanh của NHTM như khái niệm nêu trên rất rộng và liên quan
đế nhiều mặt hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do vậy, chỉ tiêu dùng để đánh giá
hiệu quả kinh doanh cũng có nhiều loại: từ phân tích, đánh giá khái quát chung, đến
các chỉ tiêu cụ thể của từng đối tượng kinh doanh; chỉ tiêu định lượng, chỉ tiêu định
tính, chỉ tiêu phân tích, đánh giá về hiệu quả kinh tế, xã hội.


12

Sau đây luận văn sử dụng hệ thống chỉ tiêu kinh tế để phân tích hiệu quả kinh
doanh của NHTM nói chung và Ngân hàng TMCP Phát triển TP. Hồ Chí Minh
(HDBank) nói riêng.
1.2.3.1. Nhóm chỉ tiêu Hiệu quả nguồn vốn
Nguồn vốn là một chỉ tiêu quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh
doanh của NHTM. Nếu NHTM có được nguồn vốn với chi phí hợp lý và đáp ứng đủ
nhu cầu vay vốn của khách hàng, nhu cầu đầu tư của NHTM thì sẽ đạt đuợc hiệu quả
kinh doanh cao. Nguồn vốn của NHTM bao gồm vốn đầu tư của chủ sở hữu, vốn huy
động, vốn đi vay và vốn khác, trong đó nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ lực. Đối
với nguồn vốn huy động, ngoài việc NHTM phải trích lập dự trữ bắt buộc theo quy

định của NHNN, còn phải trích lập dự trữ thanh toán để đảm bảo khả năng thanh
khoản. NHTM có thể cho vay, đầu tư trên số dư còn lại sau khi đã trích lập các khoản
dự trữ trên. Đối với Ngân hàng TMCP Phát triển TP. Hồ Chí Minh, dự trữ bắt buộc và
dự trữ thanh toán được tập trung về Hội sở chính và được gửi tại NHNN Việt Nam.
Ngoài ra, Ngân hàng còn phải mua bảo hiểm tiền gửi cho khách hàng gửi tiền tiết
kiệm. Để đánh giá hiệu quả nguồn vốn cần chú ý một số chỉ tiêu sau:
- Lãi suất phải trả bình quân
Lãi suất phải trả bình quân

=

Tổng lãi phải trả
Tổng nguồn vốn huy động

Tổng lãi phải trả = Lãi suất bình quân của từng loại tiền gửi, tiền vay x Số dư
từng loại tiền gửi, tiền vay.
Chỉ tiêu này cho biết chi phí vốn thực tế của mỗi đồng vốn mà Ngân hàng có
được từ huy động vốn và đi vay. Chỉ tiêu này càng thấp cho thấy lãi phải trả để có
được nguồn vốn càng nhỏ, càng có lợi cho hoạt động kinh doanh, góp phần gia tăng
mức sinh lời trong hoạt động cấp tín dụng, đầu tư của ngân hàng, từ đó tăng quy mô
lợi nhuận.
- Tỷ lệ vốn huy động còn lại để cho vay so với tổng dư nợ
Vốn huy động còn lại để cho vay
Tỷ lệ vốn huy động còn lại
=
để cho vay so với tổng dư nợ
Tổng dư nợ


13


Vốn huy động còn lại để cho vay = Tổng vốn huy động – Dự trữ bắt buộc – Dự
trữ thanh toán.
Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ nguồn vốn huy động mà Ngân hàng có thể sử dụng
để cho vay. Tỷ lệ này lớn hơn 1, Ngân hàng huy động vốn nhiều hơn cho vay, khi đó
Ngân hàng cần đẩy mạnh tăng trưởng dư nợ, tăng cường đầu tư vào tài sản sinh lời
hoặc giảm bớt những khoản vốn huy động có chi phí cao để đảm bảo hiệu quả sử dụng
vốn. Tỷ lệ này bằng 1, Ngân hàng huy động vốn đủ để cho vay. Tỷ lệ này nhỏ hơn 1
có nghĩa là Ngân hàng huy động vốn không đủ để cho vay; do đó, Ngân hàng cần tập
trung nguồn vốn cho vay những dự án có tính khả thi cao thuộc các ngành kinh tế đang
tăng trưởng, để có thể sử dụng vốn huy động một cách có hiệu quả nhất, đồng thời có
những giải pháp kịp thời nhằm tăng nguồn vốn huy động với chi phí vốn hợp lý.
1.2.3.2. Nhóm chỉ tiêu Hiệu quả sử dụng vốn
Sử dụng vốn là việc các NHTM sử dụng nguồn vốn để cho vay, đầu tư, mua
sắm tài sản cố định,… theo kế hoạch đã đề ra. Khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn thì
cần phải đánh giá khả năng thanh khoản của NHTM. Cân bằng được việc sử dụng
nguồn vốn để đầu tư, cho vay và đảm bảo khả năng thanh khoản là NHTM đã sử dụng
nguồn vốn của mình một cách tối ưu. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cần phân tích
các chỉ tiêu sau:
- Tỷ lệ tài sản sinh lời
Tỷ lệ tài sản sinh lời =

Tổng tài sản sinh lời
Tổng tài sản

Tỷ lệ tài sản sinh lời phản ánh tỷ trọng phần tài sản được đầu tư sinh lời trên tổng tài
sản. Tỷ lệ này càng cao thì hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng càng lớn và cho thấy tiềm
năng sinh lời trong tương lai từ những tài sản đã đầu tư.
- Hệ số sinh lãi
Hệ số sinh lãi =


Thu nhập từ lãi
Tổng tài sản có sinh lời

Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn đem đầu tư vào tài sản sinh lời sẽ thu được
bao nhiêu đồng lãi. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh doanh càng tốt.


14

- Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ =

Tổng nợ xấu
Tổng dư nợ

Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ dùng để đánh giá chất lượng tín dụng của
NHTM. Tỷ lệ này càng cao thì khả năng thu hồi nguồn vốn đã cho vay càng thấp.
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 và Quyết định số
18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
nhóm nợ được phân loại như sau:
Nhóm nợ
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn
Nhóm 2: Nợ cần chú ý
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn

Số ngày quá hạn nợ
Dưới 10 ngày

Từ 10 đến dưới 90 ngày
Từ 90 đến 180 ngày
Từ 181 ngày đến 360 ngày
Trên 360 ngày

Nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5. Nếu tỷ lệ nợ xấu tăng cao có
nghĩa là chất lượng tín dụng thay đổi theo chiều hướng không tốt và ngược lại. Khi
phân tích chỉ tiêu này, cần tiến hành đánh giá các biện pháp thu hồi nợ xấu của ngân
hàng.
- Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng so với tổng dư nợ
Dự phòng rủi ro tín dụng
Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín
=
dụng so với tổng dư nợ
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh sự chuẩn bị nguồn vốn dự phòng của NHTM cho các
khoản rủi ro tín dụng; đồng thời, thông qua chỉ tiêu này có thể đánh giá được chất
lượng tín dụng của NHTM, tỷ lệ này càng lớn thể hiện chất lượng nợ càng xấu và hiệu
quả kinh doanh càng thấp vì phải mất nhiều chi phí cho việc trích lập dự phòng rủi ro.
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tỷ lệ trích lập dự phòng đối với các nhóm nợ như sau:
+ Dự phòng chung: 0,75% tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.
+ Dự phòng cụ thể:


Nhóm 1: 0%


15




Nhóm 2: 5%



Nhóm 3: 20%



Nhóm 4: 50%



Nhóm 5: 100%

- Tỷ lệ về khả năng chi trả
Tỷ lệ về khả năng chi trả =

Tổng tài sản Có thanh toán ngay
Tổng Nợ phải trả

Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ khả năng chi trả của NHTM càng lớn.
Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 của NHNN có quy định: Tổ
chức tín dụng phải đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả tối thiểu bằng 15%. Trong đó:
+ Tổng tài sản Có thanh toán ngay bao gồm:


Số dư tiền mặt, giá trị sổ sách của vàng tại quỹ;




Số dư tiền gửi, giá trị sổ sách của vàng gửi tại Ngân hàng Nhà nước (trừ

tiền gửi dự trữ bắt buộc);


Phần chênh lệch dương giữa số dư tiền gửi không kỳ hạn, giá trị sổ sách

của vàng gửi không kỳ hạn gửi tại các tổ chức tín dụng khác (trừ Ngân hàng Chính
sách Xã hội) và số dư tiền gửi không kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng gửi không kỳ hạn
của các tổ chức tín dụng khác gửi tại tổ chức tín dụng;


Phần chênh lệch dương giữa số dư tiền gửi có kỳ hạn, giá trị sổ sách của

vàng gửi có kỳ hạn đến hạn thanh toán gửi tại các tổ chức tín dụng khác (trừ Ngân
hàng Chính sách Xã hội) và số dư tiền gửi có kỳ hạn, giá trị sổ sách của vàng có kỳ
hạn đến hạn thanh toán của các tổ chức tín dụng khác gửi tại tổ chức tín dụng;


Giá trị sổ sách của các loại trái phiếu, công trái do Chính phủ Việt Nam,

chính phủ hoặc ngân hàng trung ương các nước thuộc Tổ chức Hợp tác Kinh tế và
Phát triển (OECD) phát hành hoặc được Chính phủ Việt Nam, chính phủ hoặc ngân
hàng trung ương các nước thuộc OECD bảo lãnh thanh toán;


16




Giá trị sổ sách của tín phiếu Kho Bạc, tín phiếu do Ngân hàng Nhà nước

phát hành;


Giá trị sổ sách của trái phiếu do chính quyền địa phương, công ty đầu tư

tài chính địa phương, Ngân hàng Phát triển Việt Nam phát hành;


Giá trị sổ sách của các chứng khoán được niêm yết trên các Sở giao dịch

chứng khoán tại Việt Nam, nhưng tối đa không vượt quá 5% tổng Nợ phải trả;


Giá trị sổ sách của các loại chứng khoán, giấy tờ có giá khác được Ngân

hàng Nhà nước chấp nhận cho tái chiết khấu hoặc lưu ký, giao dịch thực hiện nghiệp
vụ thị trường tiền tệ.
+ Tổng Nợ phải trả được xác định bằng số dư trên khoản mục Nợ phải trả trên
Bảng cân đối kế toán.
1.2.3.3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá kết quả kinh doanh
Kết quả hoạt động kinh doanh của NHTM được đánh giá thông qua các chỉ tiêu
về tốc độ tăng trưởng, cơ cấu và sự thay đổi cơ cấu trong từng mảng hoạt động kinh
doanh cụ thể. Các chỉ tiêu này được tính như sau:
- Tốc độ tăng trưởng của tổng (nguồn vốn, tài sản, thu nhập, chi phí, lợi
nhuận,…)
Tốc độ tăng trưởng

của tổng (nguồn vốn,
tài sản, thu nhập, chi =
phí, lợi nhuận,…)

Tổng (nguồn vốn, tài
Tổng (nguồn vốn, tài
sản, thu nhập, chi phí, - sản, thu nhập, chi phí,
lợi nhuận,…) cuối kỳ
lợi nhuận,…) đầu kỳ
Tổng (nguồn vốn, tài sản, thu nhập, chi phí, lợi
nhuận,…) đầu kỳ

Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng của tổng (nguồn vốn, tài sản, thu
nhập, chi phí, lợi nhuận, …) kỳ này so với kỳ trước, trong mối tương quan với mục
tiêu, kế hoạch đề ra. Đồng thời cũng cho thấy những yếu tố thuận lợi, khó khăn tác
động tạo nên kết quả kinh doanh đó, nhằm giúp nhà quản trị ngân hàng có những định
hướng kinh doanh phù hợp hơn.


17

- Cơ cấu và sự thay đổi cơ cấu (nguồn vốn, tài sản, thu nhập, chi phí,…)
Giá trị của (nguồn vốn, tài sản,
thu nhập, chi phí,…) thứ i
Tỷ trọng của (nguồn vốn, tài sản,
=
thu nhập, chi phí,…) thứ i
Tổng (nguồn vốn, tài sản, thu
nhập, chi phí,…)
Chỉ tiêu này cho biết tính hợp lý của cơ cấu nguồn vốn, tài sản, thu nhập và chi

phí; đồng thời, cho thấy sự thay đổi cơ cấu đó có ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực đến
tình hình tài chính của ngân hàng trong ngắn hạn và dài hạn. Đối với thu nhập và chi
phí, chỉ tiêu này cho biết khoản thu nhập, chi phí nào là chủ yếu của ngân hàng và
những thay đổi bất thường của những khoản mục này, từ đó giúp nhà quản trị đưa ra
những biện pháp để tăng thu nhập, giảm chi phí một cách hợp lý.
1.2.3.4. Nhóm chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận
Mục tiêu kinh doanh của NHTM là tạo ra lợi nhuận. Lợi nhuận là thước đo kết
quả kinh doanh của NHTM, là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá chất lượng kinh doanh,
là phần còn lại của thu nhập sau khi trừ đi các khoản chi phí phải bỏ ra, đó chính là
thành quả sau một kỳ hoạt động của ngân hàng. Các NHTM luôn tìm mọi biện pháp để
đạt được lợi nhuận tối đa, chi phí tối thiểu, rủi ro thấp nhất mà vẫn đảm bảo chấp hành
đúng các quy định của pháp luật; để thực hiện được điều này, nhà quản trị phải tiến
hành phân tích lợi nhuận một cách chặt chẽ và khoa học. Thông qua phân tích các chỉ
tiêu tỷ suất lợi nhuận, nhà quản trị có thể theo dõi, kiểm soát, đánh giá lại các chính
sách về huy động tiền gửi, hoạt động tín dụng, đầu tư,… Đồng thời, qua phân tích lợi
nhuận, nhà quản trị rút ra được những nhận xét, đánh giá đúng hơn về kết quả đạt
được, xu hướng tăng trưởng và các nhân tố tác động đến lợi nhuận của ngân hàng.
Lợi nhuận của ngân hàng được xác định theo công thức:
Lợi nhuận trước thuế = Tổng thu nhập – Tổng chi phí
Để đánh giá lợi nhuận, các NHTM thường dùng các chỉ tiêu sau đây:
- Tỷ lệ tổng chi phí so với tổng tài sản Có
Tỷ lệ tổng chi phí so với tổng tài sản Có =

Tổng chi phí
Tổng tài sản Có


18

Chỉ tiêu này cho biết chi phí phải bỏ ra để sử dụng một đơn vị tài sản có. Tỷ lệ

này càng lớn chứng tỏ Ngân hàng đã kiểm soát chi phí không hiệu quả. Vì vậy, Ngân
hàng cần có biện pháp điều chỉnh để tiết giảm chi phí, nâng cao lợi nhuận trong kỳ tới.
- Tỷ lệ tổng chi phí so với tổng thu nhập
Tỷ lệ tổng chi phí so với tổng thu nhập

=

Tổng chi phí
Tổng thu nhập

Chỉ tiêu này phản ánh chi phí phải bỏ ra để tạo ra được một đơn vị thu nhập. Tỷ
lệ này càng nhỏ chứng tỏ Ngân hàng hoạt động càng có hiệu quả, chi phí ít nhưng lại
có thu nhập cao.
- Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM)
Thu nhập lãi từ các khoản cho vay và đầu tư – Chi
Tỷ lệ thu nhập lãi
phí trả lãi tiền gửi và các khoản nợ khác
cận biên (NIM)
=
Tổng tài sản
Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu nhập từ lãi và chi
phí trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời
và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Tỷ lệ này càng cao thì càng tốt cho
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng vì lúc này Ngân hàng thu lãi nhiều hơn chi trả lãi.
Nếu tỷ lệ này thấp chứng tỏ tài sản sinh lời của Ngân hàng có mức sinh lời không cao
và/hoặc Ngân hàng đã huy động nguồn vốn với lãi suất cao nên mức chênh lệch ngày
càng thấp.
- Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên
Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên


=

Thu nhập ngoài lãi – Chi phí ngoài lãi
Tổng tài sản

Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu nhập ngoài
lãi, chủ yếu là thu phí dịch vụ và các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu (gồm
tiền lương nhân viên, chi phí thuê trụ sở giao dịch, chi phí sửa chữa bảo trì thiết bị, chi
phí tổn thất tín dụng,…). Đối với hầu hết các NHTM, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên
thường thấp, có nhiều trường hợp bị âm do chi phí ngoài lãi vượt quá nguồn thu từ phí
và nguồn thu nhập của các ngân hàng chủ yếu từ hoạt động cho vay.
- Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA: Return On Assets)
Lợi nhuận ròng
ROA =
Tổng tài sản Có


19

Tỷ lệ này phản ánh hiệu quả kinh doanh của một đơn vị tài sản có, cho biết một
đồng tài sản có tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. ROA là một thông số chủ yếu phản
ánh tính hiệu quả quản lý, chỉ ra khả năng của các nhà quản trị ngân hàng trong quá
trình chuyển tài sản thành lợi nhuận. ROA giúp nhà quản trị thấy được khả năng bao
quát của ngân hàng trong việc tạo ra thu nhập từ tài sản có; là thước đo hiệu quả đầu tư
của ngân hàng, vì mọi tài sản có đều là những khoản đầu tư. ROA càng cao khẳng
định hiệu quả kinh doanh tốt, ngân hàng có cơ cấu tài sản có hợp lý, có sự điều động
linh hoạt giữa các khoản mục trên tài sản có trước những biến động của nền kinh tế.
Tuy nhiên, nếu ROA quá cao sẽ tiềm ẩn nguy cơ các tài sản có sinh lời của ngân hàng
có mức độ rủi ro cao vì lợi nhuận cao thường gắn liền với rủi ro cao.
ROA được xây dựng bởi 3 tỷ số cấu thành như sau:

Lợi nhuận ròng
Tổng tài sản

=

Thu từ lãi –
Chi phí trả lãi
Tổng tài sản

+

Thu ngoài lãi –
Chi phí ngoài lãi
Tổng tài sản

Các khoản thu
chi đặc biệt
Tổng tài sản



Trong đó, các khoản thu chi đặc biệt bao gồm: dự phòng rủi ro tín dụng, thuế thu nhập
doanh nghiệp, lãi (lỗ) từ kinh doanh chứng khoán và lãi (lỗ) bất thường.
Tương đương:
ROA = Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên + Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên – Mức độ
tác động của các giao dịch đặc biệt tới thu nhập ròng
Thông qua các thành phần cấu tạo ROA, nhà quản trị ngân hàng nhận biết được
nguyên nhân làm ROA biến động tăng/giảm nằm ở nhân tố nào, từ đó ngân hàng sẽ có
các biện pháp hữu hiệu để điều chỉnh ROA phù hợp với kế hoạch đã định.
- Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE: Return On Equity)

Lợi nhuận ròng
ROE =
Vốn chủ sở hữu
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu cho biết lợi nhuận kiếm được từ một đơn
vị vốn đầu tư, nó đo lường hiệu quả đầu tư vốn của các cổ đông ngân hàng.
ROE được xây dựng bởi 3 tỷ số cấu thành như sau:
Lợi nhuận ròng
Lợi nhuận ròng
=
Vốn chủ sở hữu
Tổng thu nhập

x

Tổng thu nhập
Tổng tài sản

x

Tổng tài sản
Vốn chủ sở hữu


20

Tương đương:
ROE =

Tỷ lệ sinh lời
hoạt động


Tỷ lệ hiệu quả
sử dụng tài sản

x

x

Tỷ trọng
vốn chủ sở hữu

Từ công thức này có thể giúp ngân hàng nhận biết được các yếu tố làm cho
ROE tăng lên hoặc giảm xuống.
Trong đó:
Tỷ lệ sinh lời hoạt động

Lợi nhuận ròng
Tổng thu nhập

=

Tỷ lệ hiệu quả sử dụng tài sản

Tỷ trọng vốn chủ sở hữu

=

=

Tổng thu nhập

Tổng tài sản

Tổng tài sản
Vốn chủ sở hữu

Tỷ lệ sinh lời hoạt động phản ánh tính hiệu quả của việc quản lý chi phí và các
chính sách định giá dịch vụ. Ngân hàng có thể tăng thu nhập của cổ đông bằng cách
tăng cường kiểm soát chi phí và tối đa hóa các nguồn thu.
Tỷ lệ hiệu quả sử dụng tài sản phản ánh các chính sách quản lý danh mục đầu
tư, đặc biệt là cấu trúc và thu nhập của tài sản. Thông qua việc phân bổ nguồn vốn của
ngân hàng cho khoản mục tín dụng và đầu tư vào các tài sản sinh lời với tỷ lệ sinh lời
cao nhất trên cơ sở mức độ rủi ro hợp lý, ngân hàng có thể tăng khả năng tạo ra thu
nhập trên một đơn vị tài sản, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản.
Tỷ trọng vốn chủ sở hữu phản ánh chính sách đòn bẩy tài chính, ngân hàng sử
dụng nợ và vốn chủ sở hữu ở mức độ nào để tài trợ cho tổng tài sản; cho biết bao
nhiêu đồng giá trị tài sản được tạo ra từ một đồng vốn chủ sở hữu. Tỷ trọng này càng
cao cho thấy tiềm năng tạo ra thu nhập cho cổ đông của ngân hàng càng lớn, đồng thời
đi kèm với rủi ro phá sản của ngân hàng càng cao.
Các cổ đông khi góp vốn đầu tư vào ngân hàng đều mong muốn đạt được hệ số
ROE ở mức tối đa, tuy nhiên nếu ROE quá lớn so với ROA chứng tỏ vốn chủ sở hữu
chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, ngân hàng đã huy động nguồn vốn bên


21

ngoài nhiều để cho vay và đầu tư, điều này ảnh hưởng đến khả năng an toàn vốn của
ngân hàng, từ đó làm suy giảm khả năng chống đỡ, bù đắp rủi ro và niềm tin của người
gửi tiền vào uy tín của ngân hàng. Do đó, không nên đánh giá chỉ tiêu ROE một cách
riêng biệt, mà cần có sự kết hợp với việc đánh giá chỉ tiêu ROA để có kết luận bao
quát về khả năng sinh lời, hiệu quả kinh doanh và khả năng an toàn vốn của NHTM.

1.2.3.5. Nhóm các chỉ tiêu khác
Ngoài hoạt động kinh doanh chính là cho vay, thu nợ thì dịch vụ cũng đóng góp
vào kết quả kinh doanh của NHTM. Vì vậy, đánh giá hiệu quả kinh doanh không thể
không đánh giá hiệu quả hoạt động dịch vụ. Hoạt động dịch vụ bao gồm ủy nhiệm chi,
ủy nhiệm thu, séc, chuyển tiền, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ,... Để đánh giá hiệu quả
hoạt động kinh doanh thường đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau:
- Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi so với tài sản có
Thu nhập ngoài lãi so với tài sản có

=

Thu nhập ngoài lãi
Tổng tài sản có

Chỉ tiêu này đo lường thu nhập ngoài lãi được tạo ra từ một đơn vị tài sản có,
xác định hiệu quả sử dụng tài sản thông qua việc phân bổ vốn của ngân hàng cho hoạt
động dịch vụ so với các hoạt động kinh doanh khác.
- Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi so với chi phí ngoài lãi
Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi so với chi phí ngoài lãi

=

Thu nhập ngoài lãi
Chi phí ngoài lãi

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng tạo ra thu nhập của một đơn vị chi phí ngoài lãi
đã bỏ ra. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hoạt động kinh doanh càng có hiệu quả.
1.2.4. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại
Bất kỳ doanh nghiệp, NHTM nào muốn hoạt động kinh doanh ngày càng phát
triển trong nền kinh tế thị trường thì đòi hỏi khả năng cạnh tranh luôn được cải thiện hay

nói cách khác hiệu quả hoạt động kinh doanh ngày càng được nâng cao hơn nữa. Vì vậy,
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh mang tính tất yếu đối với mọi doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường. Khái quát lại, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM
xuất phát từ những yêu cầu sau:


22

Thứ nhất, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh là do yêu cầu hoạt động
kinh doanh của NHTM. Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM là
nhằm đảm bảo cho NHTM thực hiện tốt chức năng kinh doanh tiền tệ gắn liền với các
nghiệp vụ trong kinh doanh, đảm bảo ngân hàng tồn tại và phát triển.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh là đòi hỏi của sự phát
triển nền kinh tế - xã hội. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng cho thấy vai
trò quan trọng của nó đối với nền kinh tế. Cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu
thông hàng hóa, hoạt động kinh doanh ngân hàng ngày càng phát triển, đã cung cấp thêm
các phương tiện thanh toán đáp ứng nhu cầu giao dịch trong xã hội. Trong điều kiện đó,
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng là vấn đề ngày càng được quan tâm.
- Đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh là điệu kiện để ngân hàng làm tốt
chức năng trung gian thanh toán, vì khi chất lượng kinh doanh được đảm bảo sẽ tăng
vòng quay vốn tín dụng, tạo điều kiện cho ngân hàng làm tốt chức năng trung gian tín
dụng trong nền kinh tế quốc dân, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, góp phần điều
hoà vốn trong nền kinh tế.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM sẽ làm giảm đáng kể lượng
tiền thừa trong lưu thông, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh
tế.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM góp phần tăng hiệu quả
sản xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng trong cả nước,
nền kinh tế phát triển bền vững.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh sẽ đảm bảo sự tồn tại và

phát triển của NHTM.
Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng không những có tác
dụng đối với sự phát triển nền kinh tế - xã hội, mà còn đảm bảo cho chính ngân hàng
tồn tại và phát triển. Bởi vì, thông qua nó:
- Là điều kiện mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng, làm tăng khả năng
cung cấp dịch vụ của NHTM do tạo thêm được nguồn vốn và thu hút thêm nhiều khách


23

hàng bởi sự đa dạng của sản phẩm, dịch vụ; tạo ra một hình ảnh tốt về biểu tượng và uy
tín của ngân hàng cùng sự trung thành của khách hàng.
- Tăng khả năng sinh lời của các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng do giảm được sự
chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi
được vốn cho vay. Từ đó, cải thiện được tình hình tài chính của ngân hàng, tạo thế mạnh
cạnh tranh cho ngân hàng.
Như vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM là sự cần thiết
khách quan, vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của chính NHTM.
1.3. KINH NGHIỆM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA MỘT SỐ NGÂN HÀNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG TMCP PHÁT TRIỂN TP.HỒ CHÍ MINH
Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, các ngân hàng trên thế giới đã vận
dụng thành công một số biện pháp, đây có thể coi là những kinh nghiệm mà các ngân
hàng Việt Nam cần chú ý.
1.3.1. Kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài
1.3.1.1. Trung Quốc
Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, các ngân hàng ở Trung Quốc đã
tiến hành các biện pháp sau:
- Tiến hành cắt giảm nhân lực và chi phí, cụ thể trong giai đoạn 1998-2002, bốn
ngân hàng lớn nhất của Trung Quốc đã cắt giảm 250.000 lao động và giải thể khoảng

45.000 chi nhánh hoạt động kém hiệu quả, điều này đã giúp cho những ngân hàng này
hoạt động có hiệu quả hơn.
- Để thực hiện chiến lược bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, các ngân
hàng thương mại quốc doanh của Trung Quốc cũng tăng cường tìm kiếm các đối tác
chiến lược nước ngoài danh tiếng và kết quả là Ngân hàng Phát triển Quảng Đông đã
bán 20% cổ phần cho Citigroup, một tổ chức tài chính lớn nhất của Mỹ. Bên cạnh đó,
các ngân hàng ở Trung Quốc đã phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng thông qua
các Trung tâm giao dịch chứng khoán có uy tín và sau đó là phát hành trái phiếu ra
nước ngoài để tăng vốn.


24

- Về vấn đề xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính, các ngân hàng Trung Quốc
đã khá thành công trong vấn đề giải quyết nợ khó đòi thông qua các công ty quản lý tài
sản (AMC). Trong 6 tháng đầu năm 2004, Ngân hàng Trung Quốc, một trong bốn
ngân hàng lớn nhất Trung Quốc, đã xử lý được 108,4 tỷ CNY nợ khó đòi, đồng thời
bán 149,8 tỷ CNY nợ khó đòi cho công ty quản lý tài sản. Điều này đã làm giảm nợ
khó đòi của Ngân hàng Trung Quốc từ 16,29% vào đầu năm 2004 xuống còn 5,46%
vào cuối năm 2004.
1.3.1.2. Mỹ
Tương tự như ở Trung Quốc, Ngân hàng Bank of New York Mellon
Corporation ở Mỹ đã cắt giảm 3.900 nhân viên và cắt giảm chi phí 700 triệu USD/năm
trong giai đoạn 2002-2010 để tiết giảm bớt chi phí.
Phát triển mạng lưới có ý nghĩa quan trọng trong việc chiếm lĩnh thị phần, nâng
cao sức cạnh tranh nhằm cung cấp tối đa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến với
đông đảo khách hàng. Ngân hàng Bank of America hiện có khoảng 5.722 chi nhánh
trên toàn nước Mỹ.
1.3.1.3. Hàn Quốc
Cũng như các ngân hàng Trung Quốc, các Ngân hàng ở Hàn Quốc cũng nhanh

chóng bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài. Đến cuối năm 2001, các nhà đầu tư
nước ngoài nắm giữ 51% cổ phần ở Ngân hàng Korea First và 40% cổ phần Ngân
hàng KorAm tại Hàn Quốc.
1.3.2. Kinh nghiệm của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
Chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam hoạt động khá hiệu quả.
Họ đã đầu tư và ứng dụng thành công công nghệ ngân hàng hiện đại như hệ thống
chuyển tiền điện tử liên ngân hàng, hệ thống máy ATM, Internet Banking, Phone
Banking,… phục vụ nhu cầu khách hàng. Bên cạnh đó, việc đào tạo những người quản
lý giỏi và đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp luôn được quan tâm. Định hướng của các
ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam là trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu tại nước ta
nên đối tượng khách hàng mục tiêu của họ là khách hàng cá nhân, họ luôn nghiên cứu


×