Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.6 KB, 24 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN VỐN ĐẦU
TƯ VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG VỐN CHO ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN.
I. ĐẦU TƯ VÀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN:
I. 1.Khái niệm, đặc điểm và vai trò của đầu tư phát triển.
I. 1.1. Khái niệm đầu tư
Thuật ngữ “đầu tư” được hiểu với nghĩa chung nhất là sự bỏ ra, sự hy sinh
những cái gì đó ở hiện tại ( tiền, của cải vật chất, sức lao động, trí tuệ...) nhằm đạt
được các kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Đó có thể là các mục tiêu
kinh tế , xã hội, văn hoá,chính trị...
Đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo
ra tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua bán, phân phối lại, chuyển giao
tài sản hiện có giữa các cá nhân, các tổ chức, không phải là đầu tư với nền kinh tế.
Còn trong hoạt động kinh doanh, đầu tư là sự bỏ vốn( tiền, nhân lực, nguyên
liệu, công nghệ vào các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ nhằm mục đích thu
lợi nhuận. Đây được xem như bản chất cơ bản của các hoạt động đầu tư. Kinh
doanh cần nghiên cứu đầy đủ các khía cạnh khác nhau của hoạt động đầu tư như :
bản chất, đặc điểm, phân loại, vai trò... để có những đối sách thích hợp đối với các
đối tác đầu tư khác nhau.
Mặt khác, có thể hiểu đầu tư là việc đưa ra một khối lượng lớn vốn nhất
định vào qúa trình hoạt động kinh tế nhằm thu được một khối lượng lớn hơn sau
một khoảng thời gian nhất định.
Khái niệm đầu tư còn được hiểu theo quan niệm tái sản xuất mở rộng, đầu tư
thực tế là quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra năng
lực tái sản xuất, tạo ra những yếu tố cơ bản, tiên quyết cho quá trình sản xuất. Đây
là hoạt động mang tính chất thường xuyên của nền kinh tế ...
Với đầu tư phát triển thì đây là hình thức đầu tư quan trọng và chủ yếu. Loại
đầu tư này, người có tiền bỏ tiền ra để xây dựng , sửa chữa nhà cửa và kết cấu hạ
tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng nguồn nhân
lực thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này.
Hoạt động đầu tư này nhằm nâng cao năng lực hiện có của các cơ sở sản xuất hiện


có cả về số lượng và chất lượng, tạo ra năng lực sản xuất mới. Đây là hình thức tái
sản xuất mở rộng. Hình thức đầu tư này tạo việc làm mới, sản phẩm mới và thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
Tóm lại, hoạt động đầu tư vốn là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn
vốn phục vụ sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm cung cấp dich vụ đáp ứng
nhu cầu cá nhân và xã hội.
I. 1.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển:
Đầu tư phát triển có những điểm khác biệt so với đầu tư tài chính và
đầu tư thương mại ở các điểm sau:
Thứ nhất : Tiền, vật tư, lao động cần cho công cuộc đầu tư là rất lớn.
Thứ hai : Thời gian cần thiết cho công cuộc đầu tư dài, do đó vốn ( tiền, vật
tư, lao động ) đầu tư phải nằm khê đọng, không tham gia vào quá trình chu chuyển
kinh tế và vì vậy, trong suốt thời gian này không sinh lời cho nền kinh tế.
Thứ ba : Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi đủ lượng
vốn đã bỏ ra hoặc thanh lý tài sản do vốn tạo ra cần và có thể thường là vài năm, có
khi hàng chục năm và có nhiều trường hợp là hoạt động vĩnh viễn.
Thứ tư : Nếu thành quả đầu tư là các công trình xây dựng thì nó sẽ được sử
dụng ngay tại nơi nó tạo ra.
Thứ năm : Các kết quả là hiệu quả hoạt động đầu tư chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố không ổn định trong tự nhiên, trong hoạt động kinh tế xã hội như các
điều kiện địa lý, khí hậu, chính sách, nghiên cứu thị trường và quan hệ quốc tế. Vì
vậy, độ mạo hiểm của loại hình này cao.
Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư phát triển đạt hiệu quả kinh tế xã hội
cao, trước khi tiến hành đầu tư phải làm tốt công tác chuẩn bị. Sự chuẩn bị này thể
hiện trong việc soạn thảo các dự án đầu tư và mọi công cuộc đầu tư phải tiến hành
theo dự án.
I.1.3 Vai trò của đầu tư phát triển:
Lý thuyết kế hoạch hoá tập trung và lý thuyết kinh tế thị trường đều coi đầu
tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng
trưởng. Nó thể hiện các mặt sau:

Trên giác độ nền kinh tế:
-Đầu tư vừa có tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu : Đầu tư
là yếu tố chiếm tỷ trong lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Đối với tổng
cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn, tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của
đầu tư làm cho tổng cầu tăng. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các
năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung dài hạn tăng lên.
-Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định và phát triển kinh tế : Sự tác
động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cung và tổng cầu
của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng
một lúc vừa là yếu duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh
tế của mỗi quốc gia. Chẳng hạn, khi đầu tư tăng, cần các yếu tố của đầu tư tăng
làm cho giá trị các hàng hoá liên quan tăng đến mức độ nào đó dẫn đến tình trạng
lạm phát. Đến lượt mình lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống người lao
động khó khăn... Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu các yếu tố có liên quan tăng,
sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tệ nạn xã hội.
Còn khi giảm đầu tư thì tác động ngược lại với hai chiều hướng trên.
Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên
cứu của các nhà kinh tế cho thấy muốn giữ tốc độ tăng trưởng trung bình thì tỷ lệ
đầu tư phải đạt được tù 15-25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.
ICOR = Vốn đầu tư / Mức tăng GDP.
Từ đó suy ra :
Mức tăng GDP = Vốn đầu tư / ICOR.
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
- Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn là tăng
cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Vì các ngành nông, lâm, ngư nghiệp bị hạn chế về đất đai và khả năng sinh học.
Do đó chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các
quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Bên cạnh đó đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển

giữa các vùng, lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói
nghèo, phát huy tối đa lợi thế so sánh về tài nguyên, kinh tế, chính trị...
-Đầu tư tác động tới việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ đất
nước: Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước.Đầu
tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường công nghệ của nước ta
hiện nay.
Như chúng ta đã biết có 2 con đường cơ bản để công nghệ là nghiên cứu phát
minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù tự nghiên cứu hay nhập
từ nước ngoài vào cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư.
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ:
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn,
để tạo dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần
phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị... và thực
hiện chi phí khác với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất, kỹ
thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản
xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại : sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật
chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn hư hỏng. Để duy trì hoặc đổi mới cũng có
nghĩa là đầu tư.
Như vậy, đầu tư có vai trò rất lớn không chỉ với nền kinh tế mà còn đối với
các cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Tuy nhiên, khi đầu tư ta thường đặt câu
hỏi : vốn đầu tư lấy từ đâu ra và sử dụng vốn như thế nào ? Có rất nhiều cách và
con đường để có vốn và sử dụng vốn em xin đề cập ở phần sau.
I. 2.Vốn và nguồn vốn đầu tư:
I. 2.1.Nguồn vốn đầu tư:
Trong nền kinh tế mở nguồn vốn đầu tư được hình thành từ 2 nguồn đó là
nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài.
-Nguồn vốn trong nước: đó là nguồn vốn được hình thành và huy động trong
nước nó bao gồm 3 bộ phận: tiết kiệm của nhà nước (Sg), tiết kiệm của các tổ chức
doanh nghiệp ( Sc), tiết kiệm của khu vực dân cư ( Sh).
+ Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước: Đó là phần còn lại của thu ngân sách

sau khi đã trừ đi các khoản chi thường xuyên của nhà nước:
Sg= T - G.
Trong đó: Sg là tiết kiệm của nhà nước.
T là tổng thu ngân sách nhà nước.
G là các khoản chi thường xuyên của nhà nước.
+Nguồn vốn từ các tổ chức doanh nghiệp: Đó là nguồn vốn được tạo ra từ
các tổ chức doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó bao
gồm lợi nhuận để lại doanh nghiệp ( lợi nhuận sau khi đã trừ đi các khoản thuế và
các khoản phải nộp khác ) và quỹ khấu hao của doanh nghiệp.
Sc = Dp + Pr.
Trong đó : Sc : là tiết kiệm của các doanh nghiệp.
Dp: là quỹ khấu hao của doanh nghiệp.
Pr : là lợi nhuận để lại doanh nghiệp.
+Nguồn vốn từ khu vực dân cư : Đó là nguồn vốn được hình thành từ thu
nhập sau thuế của dân cư sau khi đã trừ đi các khoản chi phí thường xuyên.
Sh = DI - C.
Trong đó : Sh : là tiết kiệm từ khu vực dân cư.
DI : là thu nhập sau thuế của khu vực dân cư.
C : là chi thường xuyên của khu vực dân cư.
-Nguồn vốn nước ngoài: Bao gồm 2 hình thức chính là vốn đầu tư trực tiếp
và vốn đầu tư gián tiếp.
+ Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Đó là nguồn vốn đầu tư của các tổ
chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam trong đó người bỏ vốn và người sử dụng
vốn là một chủ thể . Hình thức này hình thành các doanh nghiệp liên doanh, doanh
nghiêp 100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh.
+ Vốn đầu tư gián tiếp (Ví dụ: ODA): Đó là nguồn viện trợ phát triển chính
thức, là nguồn tài chính mang tính chất hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội của các
nước hiện nay các tổ chức tài chính quốc tế cho các nước thuộc thế giới thứ ba.
Trong đó các tổ chức, các quốc gia bỏ vốn không trực tiếp sử dụng vốn đầu tư. Các
hình thức của đầu tư gián tiếp nước ngoài là viện trợ kinh tế không hoàn lại và viện

trợ có hoàn lại với lãi suất ưu đãi.
I.2.2. Vốn và vai trò của vốn đối với sự phát triển kinh tế .
-Vốn đầu tư:
Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh,
dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử
dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm
lực mới cho nền sản xuất xã hội. Vốn đầu tư tạo điều kiện cho sự bắt đầu hoạt động
của các cơ sở vật chất kỹ thuật mới hoặc được đổi mới, nâng cấp hiện đại hoá đồng
thời tạo ra các tài sản lưu động lần đầu tiên gắn liền với các tài sản cố định mới tạo
ra hoặc được đổi mới.
-Vai trò của vốn đầu tư với sự phát triển kinh tế:
Vốn là yếu tố quan trọng nhất trong qúa trình phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia.ở Việt nam, để đảm bảo cho nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng và phát triển đạt 7-
8% trong gia đoạn tới, vốn đầu tư là một trong các yếu tố hết sức quan trọng. Theo
tính toán của các nhà kinh tế , nguồn vốn cho đầu tư phát triển gia đoạn 2002-2006
phải đạt ít nhất 58-59 tỷ USD : trong đó nguồn vốn trong nước chiếm tỷ trọng
60%, cơ cấu nguồn vốn cho đầu tư phát triển bao gồm vốn đầu tư từ ngân sách,
vốn đầu tư tín dụng, vốn đầu tư của doanh nghiệp, vốn đầu tư dân cư và vốn đầu tư
nước ngoài. Dự tính trong vòng 5 năm tới vốn của các doanh nghiệp tự đầu tư
chiếm tỷ trọng 14-15% tổng số vốn đầu tư xã hội, chủ yếu đầu tư vào đổi mới công
nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ngoài ra theo tính toán của các
nhà kinh tế trong giai đoạn 2002-2006, đòi hỏi tỷ lệ tiết kiệm nội địa phải đạt đến
25-26% GDP, trong đó tiết kiệm từ khu vực ngân sách khoảng 6%, tiết kiệm từ
khu vực dân cư và doanh nghiệp là 19-20% GDP.Nguồn vốn huy động từ tiết kiệm
trong nước để cho đầu tư đạt 75% tổng tiết kiệm. Theo kinh nghiệm phát triển của
thế giới, các nước có đạt mức tăng trưởng kinh tế cao đều có mức huy động vốn
đầu tư so với GDP khá lớn. Nói cách khác là đều có tỷ lệ đầu tư phát triển trong
GDP lớn hơn những nước có tốc độ phát triển bình thường và chậm biểu sau đây
có thể minh hoạ ý kiến trên.
Quốc gia Thời kỳ Mức tăng

GDP bình
quân năm %
Tỷ lệ đầu tư
phát triển
/GDP%
Số năm tăng
tốc độ cao
Nhật Bản 1964-73 9,28 35,17 10
Singapore 1965-93 8,80 38,32 29
Mỹ 1964-73 3,95 19,18 10
Canada 1964-74 5,55 23,74 10
Thái Lan 1964-90 7,64 25,58 27
Nguồn : Thời báo kinh tế Việt nam số 12 năm 1999.
Theo lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Harrod và Domar thì sự phụ thuộc
giữa mức tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP và hiệu quả và sử dụng
vốn được hiểu theo công thức sau:
G x K= I/K trong đó:
G - Tốc độ tăng trưởng / năm.
K - Hệ số ICOR ( vốn tăng thêm, hiệu quả vốn đầu tư).
I/K - Tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP.
Như vậy, vốn đầu tư là một nhân tố quan trọng thiết yếu trong quá trình phát
triển kinh tế và nhiệm vụ đặt ra đối với các ngân hàng, các tổ chức tín dụng là làm
thế nào để có thể huy động và sử dụng có hiệu quả được các nguồn vốn, phục vụ
cho đầu tư phát triển kinh tế. Đối với Ngân hàng đầu tư nhiệm vụ này càng quan
trọng và khó khăn hơn vì hoạt động chính của Ngân hàng là huy động và cho vay
các nguồn trung, dài hạn là chủ yếu trong khi ngân hàng vẫn phải đảm bảo giữa
hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình và hoạt động đầu tư phát triển.
I. 3.Vai trò hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn cho phát triển kinh
tế.
I.3.1. Vai trò của hoạt động huy động vốn:

Như trên đã phân tích vốn đầu tư có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế,
không những nó tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế, mà còn đưa đất nước phát
triển theo hướng ổn định, cân đối giữa các ngành nghề. Do vậy để phát triển kinh
tế ta phải có vốn đầu tư, vậy vốn đầu tư lấy ở đâu và lấy bằng cách nào ? Câu hỏi
này đã được trả lời một phần ở trên ( bao gồm vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư
nước ngoài ). Muốn có nguồn vốn này, ta phải huy động. Mặt khác mỗi doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế khi thành lập, không phải lúc nào cũng có đủ vốn để hoạt
động sản xuất kinh doanh. Trong những tình huống thiếu vốn thì họ phải huy động
để đáp ứng nhu cầu này. Tuy nhiên, để có thể huy động được số vốn mong muốn
thì các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế phải có các chiến lược huy động phù hợp với
từng tình huống cụ thể, từng thời kỳ ...
Tóm lại hoạt động huy động vốn là rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế
nói chung và đầu tư phát triển nói riêng, nó đẩy nhanh quá trình Công nghiệp hoá
-Hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế hoà nhập với kinh tế thế giới.
Trong hoạt động huy động này thì hệ thống ngân hàng đóng góp một phần
quan trọng đặc biệt là ngân hàng đầu tư và phát triển ngân hàng với nhiệm vụ chủ
yếu là cung cấp vốn cho vay đầu tư phát triển.
I.3.2 Vai trò của hoạt động sử dụng vốn:
Như đã trình bày ở trên vốn và hoạt động huy động vốn cho sự nghiệp phát
triển kinh tế xã hội đất nước là rất quan trọng. Nhưng một phần cũng không kém
phần quan trọng đó là hoạt động sử dụng vốn huy động này sao cho có hiệu quả để
đảm đem lại lợi ích và hiệu quả cao nhất. Nếu chúng ta sử dụng vốn hiệu quả thì
các nguồn lực dành cho đầu tư xẽ phát huy được tối đa lợi ích cho chủ đầu tư nói
riêng và nền kinh tế nói chung và ngược lại nếu chúng ta sử dụng vốn đầu tư không
hiệu quả thì các kết quả của những đồng vốn mà chúng ta bỏ ra sẽ không phát huy
được tối đa cho nền kinh tế. Để làm được vấn này đòi hỏi chúng ta phải làm tốt các
chiến lược sử dụng vốn cho đầu tư như: quản lý đầu tư, kế hoạch hoá đầu tư, cũng
như các công tác thẩm định dự án và quản lý dự án đầu tư.
II. NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ TRONG QUÁ TRÌNH HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG
CHO VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN.

II.1.Vai trò và định hướng của ngân hàng đầu tư trong công cuộc đầu tư
phát triển kinh tế .
II.1.1.Vai trò của ngân hàng đầu tư.
Ngân hàng đầu tư là một thể chế tài chính nhằm thu hút, tập trung các nguồn
vốn trung và dài hạn phục vụ cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Mục tiêu của ngân
hàng không phải chỉ là lợi nhuận mà chủ yếu vẫn là :” hiệu quả chung của toàn bộ
nền kinh tế “. Từ những đặc điểm này ngân hàng đầu tư ở Việt Nam và các ngân
hàng đầu tư ở các nước khác có một số nét khác biệt cơ bản như: Trong hoạt động
huy động vốn: Được nhận, vay từ các nguồn tài trợ của chính phủ, các tổ chức
nước ngoài, ngân hàng ĐTTW ... Hoạt động sử dụng vốn cũng chủ yếu tập trung
vào các dự án kinh tế, kỹ thuật có tầm chiến lược, then chốt của quốc gia, chủ yếu
là các lĩnh vực mà tư nhân không đủ sức đầu tư như: Giao thông, năng lượng, xây
dựng thông tin...
Vấn đề đặt ra là ngân hàng đầu tư có nên thụ động dựa vào các nguồn tài trợ
từ ngân sách và các tổ chức quốc tế hay chủ động mở rộng hoạt động tìm cách tạo
nguồn vốn cho mình. Ngoài ra, trong hoạt động sủ dụng vốn ngân hàng đầu tư cần
phải chủ động nâng cao nghiệp vụ, sức cạnh tranh và uy tín để thực hiện chiến lược
phục vụ cho đầu tư phát triển nền kinh tế ngày càng hiệu quả hơn.
II.1.2. Định hướng của ngân hàng đầu tư:
- Đối với việc huy động vốn cho đầu tư phát triển:
Ngân hàng đầu tư và phát triển chủ trương coi khâu tạo vốn là khâu mở
đường, tạo ra một nguồn vốn vững chắc cả VNĐ và ngoại tệ, Đa dạng các hình
thức, biện pháp, các kênh huy động từ mọi nguồn và xác định “ nguồn vốn trong
nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng ”. Với định hướng không
ngừng tăng tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn để phục vụ đầu tư phát triển.
Thông qua huy động dưới các hình thức phát hành trái phiếu, kỳ phiếu và tiền tiết
kiệm có thời hạn dài. Mặt khác, tiếp tục tăng trưởng nguồn tiền gửi có kỳ hạn của
các tổ chức kinh tế, khai thác triệt để nguồn vốn nước ngoài thông qua chức năng
ngân hàng đại lý, Ngân hàng phục vụ để tiếp nhận ngày càng nhiều vốn từ các
nguồn tài trợ, cộng tác đầu tư từ các quỹ, các tổ chức quốc tế, các chính phủ và phi

chính phủ cho đầu tư phát triển.
- Đối với hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển:
Ngân hàng đầu tư phát triển coi việc phục vụ trong sự nghiệp đầu tư phát
triển là một định hướng chính thể hiện vai trò ngân hàng đầu tư của mình. Trong
hoạt động cho vay đầu tư ngân hàng chú trọng quá trình tìm chọn dự án hiệu quả,
thực hiện tốt công tác thẩm định và quản lý dự án sau khi cho vay cũng như thực
hiện công tác tư vấn đầu tư giúp các chủ đầu tư hoạt động tốt nhằm đảm bảo
nguồn vốn cho vay của Ngân hàng.
Như vậy định hướng nhìn chung rất rõ ràng, cái khó hiện nay là các bước đi
và giải pháp cụ thể . Để có được những giải pháp hữu hiệu cần phải có sự nghiên

×