Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.75 KB, 18 trang )

GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TRUNG
VÀ DÀI HẠN TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ
PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
3. 1. Định hướng phát triển của Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam trong năm tới
3. 1. 1. Định hướng phát triển của SGD ( 2000-2005):
Toàn cầu hoá, tự do hoá đang là xu thế phát tiển tất yếu của nền kinh tế thế giới trong giai đoạn hiện nay,
trong đó có nền kinh tế Việt Nam. Trước bối cảnh đó, hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam sẽ có những
thời cơ mới song cũng phải đối phó với những thách thức mới. SGD nhận thấy để đáp ứng CNH, HĐH đất nước và
hội nhập quốc tế, Ngân hàng đang đứng trước một số khó khăn lớn
- Nguồn vốn còn nhỏ bé, cơ cấu chưa hợp lý.
- Công nghệ còn nghèo nàn, lạc hậu.
- Khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế còn thấp.
- Tụt hậu luôn là nguy cơ nếu SGD không có bước đi đúng hướng và sự phấn
đấu nỗ lực liên tục.
Để nâng cao sức mạnh cạnh tranh, làm tốt vai trò chủ đạo trên thị trường vốn
đầu tư và phát triển, để hội nhập, phát triển và để trở thành Tập đoàn Tài chính-
Tín dụng mạnh ở Việt Nam trong thời gian tới, SGD đã rà soát đánh giá lại thực
trạng hoạt động, xây dựng chiến lược phát triển bền vững; hoàn thiện giai đoạn 1
đề án củng cố SGD, và đã hoàn chỉnh vào tháng 6 năm 2001, trong đó xác định rõ
hướng đi như sau:
* Định hướng chung:
Giai đoạn từ năm 2001-2005 có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội đất nước nói chung cũng
như hệ thống NHTM Việt Nam nói riêng. Đối với hệ thống SGD, định hướng phát triển trong giai đoạn này là:
+Tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động Ngân hàng phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.
+Xây dựng Ngân hàng theo hướng phát triển bền vững, phát huy vai trò chủ đạo
của NHTMQD.
+Kinh doanh đa năng tổng hợp, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ và
hiệu quả kinh doanh Ngân hàng nhằm góp phần phát huy nội lực nền kinh tế, phục
vụ đắc lực cho CNH, HĐH đất nước, chủ động hội nhập với các ngân hàng trong
khu vực và trên thế giới.


* Các quan điểm phát triển cơ bản:
a- Xây dựng SGD thành một Ngân hàng đa năng ( đa khách hàng, đa thị phần, đa
thị trường, đa sở hữu trong đó sở hữu Nhà nước là chủ đạo). Với mô hình tổ chức
phù hợp, có Trung tâm điều hành và các đơn vị thành viên hợp lý- tổ chức theo
nhóm khách hàng lớn, theo nhóm sản phẩm ở những địa bàn cần thiết.
b- Quản trị điều hành hoạt động Ngân hàng đúng pháp luật, từng bước theo thông
lệ ( theo các nguyên lý quản lý Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường)
c- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả
kinh doanh, tăng trưởng liên tục phi hợp với tốc độ phải kinh tế đất nước, có cơ
cấu hợp lý và bảo đảm an toàn hệ thống.
d- Tiếp tục phát huy kinh nghiệm, Ngân hàng truyền thống theo đòi hỏi của cơ chế
thị trường, phục vụ đắc lực cho đầu tư phát triển.
e- Phát huy nội lực và truyền thống; tranh thủ sự hợp tác chặt chẽ toàn diện, cùng
phát triển và hội nhập của hệ thống Ngân hàng trong và ngoài nước, đổi mới mạnh
mẽ để hội nhập.
3.1.2.Định hướng huy động vốn trung và dài hạn của SGD:
Trên cơ sở định hướng phát triển chung của toàn hệ thống, công tác huy động vốn trung và dài hạn của
SGD cũng hướng tới một tầm cao mới nhằm tạo ra một cơ cấu vốn hợp lý và đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
SGD chủ trương coi khâu vốn là khâu mở đường, tạo ra nguồn vốn vững chắc, ngày càng tăng trưởng cả VND và
ngoại tệ. Đa dạng các hình thức, biện pháp, các kênh huy động từ mọi nguồn, xác định “ vốn trong nước là quyết
định, vốn ngước ngoài là quan trọng”. Với định hướng không ngừng tăng tỷ trọng ốn trung và dài hạn thông qua huy
động dưới các hình thức phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và tiết kiệm có thời hạn dài; đề nghị Nhà nước cấp bổ sung
vốn điều lệ,. . . Mặt khác, tiếp tục tăng trưởng nguồn tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức kinh tế, khai thác triệt để, nguồn
vốn nước ngoài thông qua vai trò Ngân hàng đại lý, Ngân hàng phục vụ để tiếp nhận ngày càng nhiều vốn trung và
dài hạn từ các nguồn tài trợ, uỷ thác đầu tư các quỹ các tổ chức quốc tế, các Chính phủ và phi Chính phủ cho đầu tư
phát triển.
Trong thời gian tới, SGD vẫn xác định phát hành trái phiếu là một nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn
có hiệu quả và chủ yếu là bằng phát hành đợt trái phiếu qua TTGDCK. Bên cạnh đó, các nghiệp vụ huy động vốn
trung và dài hạn khác cũng được SGD chú trọng và từng bước hoàn thiện, phấn đấu mức tăng trưởng vốn trung và
dài hạn trong giai đoạn 2001-2010 đạt 20%- 25%/năm. Qua đó nhằm nâng cao một bước tiềm lực tài chính của

Ngân hàng, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Định hướng nhìn chung rất rõ ràng, cái khó hiện nay là những bước đi hay
các giải pháp cụ thể. Để có được những giải pháp hữu hiệu cần phải có sự nghiên
cứu, hệ thống hoá các kinh nghiệm từ thực tiễn qua nhiều năm đổi mới, đặc biệt là
trong công tác huy động vốn trung và dài hạn trong cơ chế thị trường ở Việt Nam
hiện nay.
3. 2. Giải pháp
Huy động vốn thông qua hệ thống NHTM là vấn đề quan trọng trong cơ chế thị trường, là một kênh huy động
vốn linh hoạt góp phần đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt ở những quốc gia đang phát triển
như nước ta hiện nay. Muốn thu hút vốn nhàn rỗi của công chúng thì chính NHTM phải tìm hiểu nhu cầu, tâm lý của
công chúng và phải đáp ứng tốt nhất các nhu cầu đó.
Dưới sự tác động của nhiều nhân tố ( tình hình hấp thụ vốn trung và dài hạn của
nền kinh tế, lãi suất. . . ), công tác huy động vốn trung và dài hạn luôn là vấn đề
thách thức đối với hệ thống NHTM Việt Nam. Do đó sự tìm tòi, nghiên cứu đưa ra
những giải pháp huy động vốn trung và dài hạn thiết thực trong thời gian tới là rất
cần thiết với hệ thống NHTM Việt Nam nói chung và với hệ thống SGD nói riêng.
Để góp phần mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại SGD trong thời gian tới,
em xin đề xuất một số giải pháp như sau:
3.2.1. Chú trọng công tác phân tích nguồn vốn trung và dài hạn
Phân tích nguồn vốn nói chung và phân tích nguồn vốn trung và dài hạn nói riêng là việc làm quan trọng và rất cần
thiết, nhằm giúp cho Ngân hàng tiếp cận được nguồn vốn rẻ, có quy mô và cấu trúc đảm bảo cho mục tiêu huy động.
Để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi SGD quan tâm tới một số vấn đề sau:
3. 2. 1. 1. Phân tích quy mô và cấu trúc nguồn vốn
Quy mô và cấu trúc nguồn vốn trung và dài hạn tối ưu là một trong những cơ sở quan trọng đảm bảo mục tiêu an
toàn và sinh lời của SGD. Nó không phải là yếu tố bất biến mà thay đổi cùng với sự phát triển của Ngân hàng trong
mỗi thời kỳ nhất định. Hơn nữa, mỗi nguồn vốn trung và dài hạn đều có những yêu cầu khác nhau về chi phí, thanh
khoản, thời hạn trả,…Do đó, Ngân hàng phải quan sát, đánh giá chính xác từng loại nguồn vốn để kịp thời có những
chiến lược huy động vốn tốt nhất trong từng thời kỳ cụ thể. Muốn vậy, SGD cần chú trọng tới một số yếu tố sau:
* Cần nghiên cứu và thành lập Phòng phân tích hoạt động kinh doanh. Trong
đó, bộ phận chuyên trách về phân tích nguồn vốn phải có khả năng dự báo về sự

biến động về quy mô và cấu trúc của nguồn vốn, cán bộ phụ trách phải là những
người có năng lực chuyên môn và kinh nghiệm về lĩnh vực này.
* Việc phân tích, đánh giá có thể dựa vào một số chỉ tiêu như: khả năng
cho vay trung và dài hạn( Hệ số sử dụng vốn ), Quy mô tăng vốn và một số chỉ tiêu
khác. Đồng thời phải ứng dụng công nghệ hiện đại trong quá trình phân tích, nhằm
bảo đảm tính chính xác, kịp thời và khoa học.
* Cần gắn chặt hơn nữa giữa công tác huy động vốn và sử dụng vốn. Điều
này không có nghĩa là chỉ có sự phù hợp về kỳ hạn giữa huy động vốn và sử dụng
vốn mà đòi hoỉ có sự linh hoạt của Ngân hàng trong từng trường hợp cụ thể. Ví dụ:
SGD có nguồn vốn trung và dài hạn dư thừa thì có thể cân đối cho vay ngắn hạn
hoặc nếu nguồn ngắn hạn có tính ổn định cao thì lợi dụng để cho vay trung và dài
hạn nhưng phải đề phòng những rủi ro có thể xảy ra.
* Chú trọng phân tích khách hàng tiềm năng. Điều này có nghĩa là SGD cần
có sự quan tâm hơn nữa trong việc nghiên cứu đặc điểm, tính chất của một chủ thể
hay một nhóm người liên quan đến việc ra quyết định giao dịch với Ngân hàng
( gưỉ tiền, cho SGD vay,...).
Tóm lại, phân tích quy mô và cấu trúc nguồn vốn là một giải pháp hữu hiệu giúp
SGD tiếp cận một cách khoa học và hệ thống với các nguồn vốn trung và dài hạn,
là cơ sở để Ngân hàng đưa ra những chính sách huy động vốn phù hợp với đặc
điểm, tính chất của từng nguồn.
3. 2. 1. 2. Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt và hợp lý
Lãi suất là một công cụ quan tọng trong công tác huy động vốn trung và dài
hạn tại SGD, đặc biệt là huy động từ các tầng lớp dân cư. Do đó, một chính sách
lãi suất vừa có sức cạnh tranh vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng là
rất cần thiết, em xin đề xuất một số giải pháp về vấn đề này như sau:
*Định mức lãi suất tiền gửi trung và dài hạn hợp lý để kích thích dân chúng
Mục đích chủ yếu của khách hàng gửi tiền dài hạn vào Ngân hàng là sinh lời. Do
đó với một mức lãi suất thấp sẽ không bù đắp được sự mất giá của khoản tiền gửi.
Vì vậy, lãi suất huy động phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát và lãi suất gửi trung và dài
hạn phải lớn hơn tiền gửi ngắn hạn. Như vậy để kích thích khách hàng gửi tiền dài

hạn, SGD cần tạo một khoảng cách rõ rệt giữa lãi suất huy động dài hạn và ngắn
hạn. Tuy nhiên, đề nghị này không có nghĩa là phải tăng lãi suất huy động vốn
trung và dài hạn, điều mà các nhà sản suất không dễ dàng chấp nhận. Hơn nữa, nếu
lãi suất tiền gửi cao thì họ sẽ không đầu tư trực tiếp vào các phương án kinh doanh
mà gửi tiền vào ngân hàng để lấy lãi. Nếu điều đó xảy ra thì SGD sẽ gặp khó khăn
vì không giải quyết được đầu ra. Vì vậy, SGD cần có sự nghiên cứu, cân đối giữa
lãi suất tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi trung và dài hạn để tạo khoảng cách cần thiết
giữa hai mức lãi suất này.
Ngoài ra, trong lãi suất tiền gửi trung và dài hạn cũng cần định mức lãi suất phù
hợp giữa các kỳ hạn khác nhau, đảm bảo nguyên tắc: Kỳ hạn càng dài thì lãi suất
càng cao, phản ánh được cung cầu về vốn, đảm bảo lãi suất thực dương nhưng
đồng thời phải đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
* Thưởng lãi suất đối với khách hàng duy trì số dư trên tài khoản với kỳ hạn thực dài hơn kỳ hạn danh nghĩa.
Như chúng ta đã có dịp đề cập, đối với khách hàng rút tiền trước hạn thì SGD thường áp dụng mức lãi suất
thấp hơn mức lãi suất của kỳ hạn ban đầu. Vậy trong trường hợp ngược lại, SGD có thể khuyến khích người gửi tiền
trên tài khoản với kỳ hạn thực tế dài hơn kỳ hạn danh nghĩa bằng cách thưởng thêm một tỷ lệ % nào đó tương ứng
với chênh lệch giữa kỳ hạn thực và kỳ hạn danh nghĩa. Cụ thể:
Ví dụ: Lãi suất tiền gửi tiết kiệm 12 tháng là 6%/ năm còn lãi suất huy động 24
tháng là 6,55%/năm thì Ngân hàng có thể thưởng tương ứng 0,1%- 0,3% cho khách
hàng với chênh lệch kỳ hạn thực và kỳ hạn danh nghĩa là 12 tháng.
Như vậy sẽ kích thích được người gửi, đặc biệt là khách hàng có tiền nhưng chưa
xác định được thời gian cần dùng đến. Mặt khác, SGD cũng có một khoản vốn ổn
định với chi phí thấp hơn.
3.2.2. Nâng cao chất lượng phục vụ và đảm bảo các tiện ích cho khách
hàng
Để mở rộng huy động vốn trung và dài hạn trong thời gian tới, ngoài việc
tìm kiếm khách hàng mới thì SGD còn phải duy trì được những khách hàng truyền
thống đã có. Muốn vậy, SGD cần nâng cao chất lượng phục vụ và đảm bảo tiện ích
cho khách hàng thông qua một số nội dung chủ yếu sau:
* Nâng cao chất lượng cán bộ huy động vốn, bảo đảm mỗi cán bộ ngoài việc

thực hiện tốt các nhiệm vụ chuyên môn còn phải có khả năng thực hiện vai trò tư
vấn giúp đỡ khách hàng tận tình chu đáo trong khi gửi tiền, mua Kỳ phiếu, Trái
phiếu,...Do đó, cần có sự tuyển chọn, bố trí, đào tạo cán bộ huy động vốn có đủ
trình độ chguyên môn, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Nên có sự bổ sung,
xen kẽ những cán bộ có nhiều kinh nghiệm với những cán bộ mới được đào tạo
trong nền kinh tế thị trường.
* Ngân hàng phải giữ được chữ “ tín” với khách hàng. Muốn vậy thì SGD
phải thường xuyên đảm bảo khả năng thanh toán, không được phép khất chi, hoãn
chi với khách vì lý do thiếu tiền. Bên cạnh đó phải thực hiện khâu thanh toán
nhanh chóng thông qua áp dụng công nghệ hiện đại trong giao dịch như: Máy đếm
tiền, máy rút tiền tự động ATM, máy soi tiền,. . . Tham gia thanh toán bù trừ liên
Ngân hàng bằng cách nối mạng với trung tâm thanh toán bù trừ.
* Ngân hàng cần phải công khai các chỉ tiêu tài chính quan trọng thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng để khách hàng có sự hiểu biết về SGD một
cách thuận lợi. Mặt khác, Ngân hàng cũng cần tăng cường mối quan hệ hữu hảo
với cấp uỷ và địa phương nơi hoạt động. Qua đó tranh thủ tối đa sự ủng hộ của các
cấp, các ngành.
* Trong quá trình mở rộng mạng lưới, SGD cần chọn lựa địa thế thuận lợi và
xây dựng cơ sở vật chất khang trang. Một địa điểm giao dịch sang trọng, có nơi đỗ
xe, có sơ đồ hướng dẫn, có dịch vụ tư vấn,. . . là nhân tố quan trọng để thu hút
khách hàng tới giao dịch. Người gửi tiền sẽ cảm thấy an toàn hơn khi có cơ sở vật
chất của Ngân hàng đầy đủ và hiện đại.
* Cải tiến nghiệp vụ thanh toán và thủ tục giấy tờ: Để hấp dẫn người gửi tiền và giảm bớt khối lượng giấy tờ
cần phải xử lý thì SGD cần phải hiện đại hoá, vi tính hoá trong xử lý nghiệp vụ. Trước đây, nhiều người có nhiều
tiền không muốn gửi vào NHTM vì lý do họ cho rằng thủ tục gửi tiền vào và rút tiền ra rất phiền hà. Hơn nữa, là tác
phong giao dịch của nhân viên thiếu mềm mỏng, tận tình, nhiều nơi còn biểu hiện cửa quyền hách dịch. Điều đó đã
gây ra tâm lý ngại tiếp xúc với NHTM trong dân chúng mà đến nay vẫn cờn dư âm. Do đó, NHTM Việt Nam nói
chung và SGD nói riêng phải không ngừng đổi mới toàn diện hoạt động của mình, tổ chức lại bộ máy, đẩy mạnh
ứng dụng khoa học công nghệ vào quy trình nghiệp vụ. Từng bước áp dụng các hình thức thanh toán hiện đại, đồng
thời tiếp tục thực hiện cải tiến các nghiệp vụ thanh toán truyền thống cho phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế.

Mặt khác, các thủ tục giấy tờ trong giao dịch cũng cần được chú trọng hơn,
thực tế khi thấy khách hàng gửi tiền phải mất từ 20-30 phút hoặc lâu hơn nữa.
Thiết nghĩ thời gian thực hiện một nghiệp vụ như thế là dễ dàng chút nào, mà đòi
hỏi SGD phải trang bị những công cụ cần thiết trong công tác huy động. Hơn nữa,
cần có sự thiết kế giấy tờ giao dịch một cách khoa học, dễ đọc, dễ hiểu, ngắn
gọn,. . . đảm bảo mọi khách hàng có thể tiếp cận và hiểu một cách thấu đáo. Bên
cạnh đo, Ngân hàng cần phải bố trí nhiều bàn giao dịch khách nhau tại một quầy
dao dịch, tránh tính trạng khách hàng phải xếp hàng để chờ đến lượt mình giao
dịch.

×