Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.69 KB, 26 trang )

: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động vốn, cho vay đầu tư
và cung cấp các dịch vụ khác.Do đó vốn dóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt
động của ngân hàng. Nhìn chung có thể hiểu vốn là khoản hình thành nên tài sản
của ngân hàng, giúp cho ngân hàng hoạt động một cáh hiệu quả , nó có thể hình
thành từ nhiều nguồn khác nhau, có thể tăng giảm tùy theo tình hình hoạt động của
ngân hàng trong từng thời kỳ.

1.1.2. Phân loại nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại
Khi bàn về nguồn vốn của ngân hàng thương mại, chúng ta có nhiều cách
tiếp cận khác nhau, có nhiều cách phân chia nguồn vốn ngân hàng thương mại
khác nhau. Có thể phân chia nguồn vốn theo thời gian( ngắn hạn, dài hạn), phân
chia theo loại tiền ( nội tệ, ngoại tệ), hoặc theo đặc điểm của nguồn( tiền nợ, tiền
vay) nhưng ta có thẻ tiếp cận theo bảng tổng kết tài sản. Theo bảng tổng kết tài sản
thì nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
Bảng tổng kết tài sản của ngân hàng thương mại

Tài sản Nguồn vốn
- Dự trữ
- Các chứng khoán
- Cho vay
- Tài sản khác
- Tiền gửi
- Tiền vay
- Vốn của ngân hàng
- Nguồn khác
1.1.2.1- Tiền gửi
Tiền gửi của ngân hàng tạo ra từ dịch vụ ngân hàng cung cấp, đó là dịch vụ


nhận gửi tiền.
• Tiền gửi thanh toán
Tiền gửi thanh toán hay còn gọi là tiền gửi có thể phát séc (tiền gửi giao dịch,
tiền gửi theo yêu cầu). Tiền gửi thanh toán gửi vào ngân hàng nhằm sử dụng các
tiện ích do ngân hàng cung cấp như thanh toán hộ, chi trả hộ, thu hộ. Ngân hàng
thương mại buộc các khách hàng muốn được ngân hàng cung cấp các loại dịch vụ
ngân hàng thì cần phải có một lượng tiền kí quỹ tối thiểu, điều này giúp cho ngân
hàng có thể sử dụng lượng vốn này. Tiền gửi thanh toán có số dư tại ngân hàng,
thời kì đầu có thể bị thu phí, về sau để khuyến khích khách hàng gửi tiền, ngân
hàng không thu phí cho các số dư. Về sau, các ngân hàng thương mại cạnh tranh
với nhau, từ việc thu phí, đến không thu phí, ngân hàng thương mại còn trả lãi cho
các số dư tại ngân hàng. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng ở tài khaonr này
không nhằm mục đích thu lãi, mà là sử dụng các tiện ích do các ngân hàng cung
cấp. Ngân hàng thường trả lãi rất thấp cho số dư từ tài khoản tiền gửi thanh toán vì
vậy chi phí huy động vốn thấp. Đây là ưu điểm của nguồn vốn này. Đây là nguồn
vốn có chi phí huy động thấp nhất. Nhưng tính ổn định của nó là thấp nhất, do
khách hàng gửi vào đây với mục đích thanh toán nên họ có thể rút ra để chi trả,
thanh toán bất cứ lúc nào, mà ngân hàng không được phép từ chối. Biến động của
tiền gửi thanh toán phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời vụ, hoặc địa
bàn hoạt động của ngân hàng. Để đo độ biến động phức tạp của nguồn vốn này, ta
có thể đo tần suất biến động hoặc số vòng quay, hoặc dựa vào các con số thống kê
trong lịch sử mà ngân hàng đưa ra kết luận. Sử dụng nguồn vốn tiền gửi thanh toán
là ngân hàng phải thận trọng, nếu không rủi ro chi trả sẽ xảy ra, điều này có thể
làm giảm uy tín của ngân hàng, hoặc phải tốn quá nhiều chi phí để đi vay, thậm chí
có thể là bị phá sản. Để huy động tiền gửi thanh toán, ngân hàng thương mại cần
khuyến khích các cá nhân và tổ chức kinh tế mở tài khoản. Lãi suất đôi khi cũng
không phải là yếu tố quan trọng, mà ngân hàng cần chú ý tới những tiện ích và dịch
vụ do ngân hàng đem lại cho khách hàng.
• Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn (chiếm 40% tổng số tiền gửi) là loại tiền gửi có sự thỏa

thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi tiền. TRong khoảng thời gian
thỏa thuận đó, ngân hàng tùy ý sử dụng số tiền do khách hàng ký gửi, khi khách
hàng cần rút tiền thì phải báo trước cho ngân hàng và phải được sự đồng ý của
ngân hàng. Tiền gửi có ký hạn do các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
tạo ra, từ các quỹ như quỹ khấu hao, quỹ đầu tư, từ các nguồn thu nhập của doanh
nghiệp. Khi họ biết trước được thời điểm sử dụng tiền, họ gửi những khoản tiền
nhàn rỗi này vào ngân hàng nhằm mục đích thu lợi và an toàn. Ngân hàng thường
phải trả lãi cao cho số dư tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, nên chi phí huy động
thường cao, nhưng bù lại, tính ổn định lại cao. Ngân hàng có thể yên tâm sử dụng
mà không sợ bị rủi ro về chi trả.
Việc huy động tiền gửi có kỳ hạn là nguồn có chi phí cao song ổn định. Vì
vậy, lãi suất cho số dư tiền gửi là rất có ý nghĩa cho việc huy động vốn ở ngân hàng
thương mại. Ngân hàng thương mại có thể tăng lượng vốn bằng cách tăng lãi suất
cho số dư ở tài khoản tiền gửi có kỳ hạn.
• Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm do dân cư gửi vào ngân hàng với mục đích an toàn và sinh
lợi. Đây là loại tiền gửi có tỷ trọng cao nhất trong tổng số tiền gửi của ngân hàng.
Người gửi tiền nhằm mục đích thu lợi, vì vậy lãi suất là yếu tố rất được người gửi
tiền quan tâm. Lãi suất huy động tỷ lệ thuận với thời gian gửi tiền sẽ khuyến khích
khách hàng gửi tiền với thời hạn dài hơn.
Lãi suất chi trả cho tiền gửi tiết kiệm là cao nhất, huy động nguồn vốn này sẽ
có chi phí huy động lớn nhất. Song tiền gửi tiết kiệm lại rất ổn định, ổn định nhất
trong các loại tiền gửi. Để huy động nguồn vốn này, ngân hàng cần chú ý tới nhu
cầu tiết kiệm từ dân cư, lượng tiền gửi phụ thuộc vào thu nhập của dân cư, vào xu
hướng tiết kiệm, các đặc tính về dân số- xã hội, tình hình kinh tế xã hội. Muốn huy
động nguồn tiền gửi tiết kiệm, ngân hàng cần phải chú ý đến các yếu tố thuộc về
khách hàng này và điều chỉnh lãi suất huy động cho phù hợp.
1.1.2.2-Tiền vay
Tiền gửi là nguồn tiền do khách hàng chủ động mang đến cho ngân hàng,
ngân hàng sử dụng nguồn vốn này để kinh doanh tiền tệ như cho vay. Nếu sau khi

cho vay mà còn thiếu, ngân hàng vẫn cần tiền mặt, tiền gửi không đáp ứng nhu cầu
của ngân hàng thương mại thì ngân hàng thương mại có thể đi vay. Ngân hàng đi
vay để đáp ứng nhu cầu về vốn của mình như cho vay, chi trả cho người gửi tiền.
Ngân hàng thương mại có thể vay từ các nguồn sau:
• Vay từ ngân hàng trung ương
Ngân hàng thương mại có thể vay từ ngân hàng trung ương qua các hình thức
như hình thức chiết khấu, tái chiết khấu. Hình thức vay này thông qua thị trường
mở. Ngân hàng thương mại thường nắm giữ một lượng giấy tờ có giá, khi cần tiền
mặt, ngân hàng thương mại đưa lượng giấy tờ này cho ngân hàng trung ương, ngân
hàng trung ương sẽ cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức cầm cố các giấy
tờ này. Thông qua lãi suất chiết khấu mà ngân hàng trung ương có thể điều chỉnh
được cung tiền tệ cũng như cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại còn có thể vay từ các nguồn ngắn hạn như vay để bù
đắp dự trữ thiếu hụt, nâng cao khả năng thanh toán, nân cao thanh khoản. Các
khoản vay thường rất ngắn hạn.
Vay ở ngân hàng trung ương để cho vay ở các dự án mà chính phủ chỉ định.
Lãi suất vay từ ngân hàng trung ương thường thấp, nhưng để vay được nguồn
vốn này lại phụ thuộc vào chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ.
• Vay từ các tổ chức tín dụng khác
Khi thị trường tiền tệ liên ngân hàng phát triển, ngân hàng thương mại có thể
vay từ các tổ chức tín dụng khác. Nghiệp vụ này sẽ tạo ra thị trường liên ngân hàng
trong nước và quốc tế. Lãi suất đi vay thường cao hơn vay từ ngân hàng trung
ương. Quy mô của các món vay phụ thuộc vào thị trường liên ngân hàng tức là khả
năng cho vay của các liên ngân hàng. Về kì hạn có thể co giãn, có thể rất ngắn
hoặc có thể tới 3-5 năm.
Nói chung, nguồn tiền đi vay khá ổn định so với nguồn tiền gửi, không phải
dự trữ bắt buộc, không cần bảo hiểm tiền gửi, nhưng lãi suất lại cao, song quy mô
và thời gian xác định trước, ngân hàng có thể vay từ việc phát hành các giấy tờ có
giá như phát hành các trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, CDs; Vay từ phát hành các
giấy tờ có giá chiếm tỷ trọng ngày càng lớn so với tổng lượng tiền đi vay. Lãi suất

của hình thức vay này khá cao (cao nhất trong các nguồn tiền, song nguồn tiền lại
ổn định, ngân hàng chỉ hoàn lại tiền cho người nắm giữ các giấy tờ có giá vào thời
điểm đáo hạn.
1.1.2.3-Nguồn ủy thác
• Nguồn ủy thác cho vay.
Đây là nguồn được hình thành do các tổ chức, cá nhân, ủy thác tiền, tài sản
vào ngân hàng, nhờ ngân hàng để cho vay. Nguồn này khá ổn định, ngân hàng thực
hiện hộ khách hàng và thu hoa hồng.
• Nguồn ủy thác đầu tư.
Ngoài các nguồn trên, ngân hàng thương mại còn nhận được các nguồn ủy
thác đầu tư. Nguồn này hình thành trên cơ sở các tổ chức cá nhân, ủy thác tiền bạc,
tài sản vào ngân hàng. Do ngân hàng có lợi thế về thông tin, công nghệ. Ngân hàng
đầu tư vào các dự án khả thi, ngân hàng thẩm định, thực hiện dự án, ngân hàng thu
hoa hồng từ tiền lãi đầu tư.
• Các nguồn khác
Các nguồn này được hình thành từ các nghiệp vụ mua, bán, quản lý tài sản hộ.
Khi ngân hàng thương mại càng phát triển, nghiệp vụ trung gian càng lớn, thì
nguồn này chiếm tỷ trọng ngày càng lớn và quan trọng.
1.1.2.4-Vốn và quỹ
Vốn tự có của ngân hàng bao gồm 2 phần vốn tự có cơ bản và vốn tự có bổ
sung. Vốn tự có cơ bản gồm có cổ phần thường, cổ phần ưu đãi dài hạn, thặng dư
vốn, lợi nhuận chưa chia, dự phòng chung, các khoản dự trữ vốn khác, các phương
tiện ủy thác có thể chuyển đổi và dự phòng rủi ro. Vốn tự có bổ sung bao gồm cổ
phần ưu đãi có thời hạn, các trái phiếu bổ sung và các giấy nợ.
Vốn tự có của ngân hàng thương mại có chức năng bảo vệ, là cái đệm cho
hoạt động ngân hàng. Vốn tự có của ngân hàng còn giúp cho ngân hàng điều
chỉnh các hoạt động của mình, vì vốn tự có quy định quy mô hoạt động của ngân
hàng buộc ngân hàng phải giới hạn quy mô hoạt động. Nguồn vốn của ngân
hàng còn có chức năng hoạt động, tức là nhờ vào nguồn vốn tự có mà tồn tại
dưới hình thức như trụ sở ngân hàng, nhà cửa, xe cộ, các thiết bị máy móc của

ngân hàng.
1. 1. 3. Vai trò của nguồn vốn trung và dài hạn trong hoạt động của
ngân hàng thương mại
Thứ nhất : Vốn là cơ sở để ngân hàng thương mại tổ chức mọi hoạt động kinh
doanh.
Bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất kinh doanh phải
có vốn. Bởi vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng của doanh
nghiệp. Riêng đối với ngân hàng, do tính chất đặc thù kinh doanh tiền tệ, vốn là cơ
sở để ngân hàng thương mại tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Nói cách khác
ngân hàng không có vốn thì không thể thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. Bởi
đặc trưng của ngân hàng vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối
tượng kinh doanh chủ yếu. Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh loại hàng hóa đặc
biệt trên thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán. Những ngân hàng trường
vốn là ngân hàng có nhiều thế mạnh kinh doanh. Chính vì vậy, có thể nói vốn là
điểm đầu trong kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng muốn mở rộng kinh doanh,
thu được lợi nhuận, muốn tăng uy tín thì ngoài vốn ban đầu cần thiết- tức là đủ vốn
điều lệ theo luật định thì ngân hàng phải thường xuyên quan tâm tới việc tăng
trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng
Thứ hai, vốn đầu tư của ngân hàng sẽ quy định quy mô hoạt động tín dụng
trung và dài hạn và các hoạt động khác của ngân hàng. Vốn của ngân hàng quyết
định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng. Thông thường, nếu so với
các ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ có các khoản mục đầu tư kém đa dạng
hơn, khối lượn và phạm vi tín dụng cũng nhỏ hơn. Trong các ngân hàng lớn có
nhiều vốn đầu tư trung và dài hạn cho vay được cả thị trường nước và quốc tế, thì
ngân hàng nhỏ thiếu vốn nói chung và vốn trung dài hạn nói riêng sẽ bị giới hạn
cho vay trong phạm vi hẹp, chủ yếu trong cộng đồng. Thêm vào đó khả năng vốn
hạn hẹp nên ngân hàng nhỏ không phản ứng nhạy với những biến độn về lãi suất,
gây ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn từ các thành phần kinh tế và dân cư.
Ngân hàng có vốn ít sẽ hiếm có điều kiện mở rộng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, công
nghệ. Mặt khác, ngân hàng cũng sẽ không tham gia vào các danh mục đầu tư dài

hạn như mua trái phiếu nhà nước, trái phiếu công trình,...đã thu lợi nhuận cao. Với
xu thế ngân hàng đa năng như hiện nay, việc tham gia của ngân hàng vào thị
trường chứng khoán là quan trọng, quy mô về vốn của ngân hàng có ảnh hưởng rất
lớn, thậm chí giữ vai trò quyết định tới sự thâm nhập của ngân hàng thương mại
vào thì trường này.
Thứ ba, vốn quyết định năng lực thanh toán của ngân hàng, đảm bảo uy tín
của ngân hàng trên thương trường từ đó quyết định năng lực cạnh tranh của ngân
hàng đó.
Ngân hàng vừa là chủ nợ, vừa là con nợ. Để đáp ứng nhu cầu chi trả của ngân
hàng cho các khoản vay đến hạn, ngoài dự trữ bắt buộc, ngân hàng còn phải đảm
bảo khả năng thanh toán dưới dạng tiền mặt, tín phiếu kho bạc, các giấy tờ có giá
hoặc các tài sản có tính lỏng hơn.
Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng phải giữ được
chữ tín. Uy tín thể hiện bằng khả năng chi trả của ngân hàng khi đáo hạn. Vốn khả
dụng càng cao thì khả năng thanh toán càng lớn. Nói một cách khác, khả năng
thanh toán tỷ lệ thuận với nguồn vốn của ngân hàng nói chuung và vốn khả dụng
nói riêng. Nguồn vốn lớn sẽ giúp ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, tăng khả
năng cạnh tranh, nâng cao uy tín và vị thế trên thị trường. Tiềm năng vốn lớn là
điều kiện đối với ngân hàng, việc mở rộng quan hệ tín dụng đối với các thành phần
kinh tế, xét về cả quy mô khối lượng tín dụng, chủ động về tiền, thời hạn cho vay,
lãi suất có thể thấp hơn các ngân hàng khác, từ đó ngân hàng sẽ thu hút được nhiều
khách hàng, doanh số kinh doanh tăng, đây là điều kiện làm tăng lợi nhuận của
ngân hàng, dẫn đến làm tăng vốn tự có, tăng quy mô hoạt động vật chất kỹ thuật
của ngân hàng.
Thứ tư, nguồn vốn sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng có đủ khả năng tài chính
vươn tới kinh doanh đa năng.
Với xu hướng ngân hàng đa năng như hiện nay, hoạt động ngân hàng không
chỉ đơn giản như hoạt động của ngân hàng truyền thống, mà ngân hàng đã vươn tới
nhiều lĩnh vực khác như mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, hoạt động thuê
mua, bảo lãnh, mua bán nợ, kinh doanh trên thị trường chứng khoán. . . Hình thức

kinh doanh đa năng giúp ngân hàng phân tán được rủi ro (tránh để nhiều trứng vào
một giỏ) trong hoạt động kinh doanh, tạo thêm vốn, cơ hội lợi nhuận cho ngân
hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Tóm lại, vốn đối với nền kinh tế nói riêng, và nguồn vốn đối với ngân hàng
thương mại nói chung là rất quan trọng. Có thể nói, huy động vốn là việc làm cần
thiết hàng đầu của ngân hàng. Người ta nói “có bột mới gột nên hồ”, nguồn vốn
của ngân hàng thương mại không chỉ giúp ngân hàng thương mại tồn tại, hoạt động
được mà nó còn cho phép ngân hàng thương mại mở rộng quy mô hoạt động, vươn
tới nhiều lĩnh vực mới giúp ngân hàng có đủ uy tín và sức m+ạnh để tồn tại và phát
triển trên thương trường.
1.2 Chính sách huy động vốn trung và dài hạn ở Ngân hàng Thương mại
1.2.1. Nội dung của chính sách huy động vốn
1.2.1.1. Chính sách lãi suất
Điều kiện đầu tiên mà các cá nhân hay bất kỳ một tổ chức kinh tế nào
muốn tham khảo khi gửi tiền vào ngân hàng chính là lãI suất. Lãi suất càng cao thì
người gửi tiền sẽ càng bị hấp dẫn nhưng lãi suất huy động cao cũng có nghĩa là lãi
suất cho vay ra cũng phải cao tương ứng thì ngân hàng mới có lợi.
ĐIều này ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của các doanh nghiệp đi vay vốn và
ngân hàng có thể sẽ không giải quyết được phần vốn đầu ra của mình. Như vậy thì
việc huy động là không có lợi cho ngân hàng. Mức lãi suất huy động ơphảI đủ cao
để thu hút khách hàng nhưng cũng không được cao quá để có thể thu hút khách đi
vay mà không làm giảm đi lợi nhuận của ngân hàng. Mức lãi suất huy động cần
phải thấp hơn lãi suất cho vay để đảm bảo quyền lợi của ngân hàng và cũng cần
phải thấp hơn mức lợi nhuận của doanh nghiệp -để đảm bảo quyền lợi của người đi
vay nhưng mức lãi suất này không được thấp hơn % của tỷ lệ lạm phát để đảm bảo
cho người gửi tiền vẫn còn có được một tỷ lệ lãi suất thực dương hợp lí. Đây là
phần tiền thưởng, tiền động viên, tiền đãi ngộ cho người gửi tiết kiệm. Khách hàng
phải thực sự nhận được phần thưởng này, có như vậy họ mới thấy gửi tiền vào
ngân hàng là một hoạt động có lợi. Ngân hàng phải dự đoán chính xác tỉ lệ lạm
phát trong năm để đưa ra mức lãI suất hợp lí. Nói đến lạm phát là nói đến sức mua

của tiền, là nói đến sựu ổn định tương đối của giá trị tiền tệ mà mỗi đồng tiền lại có
sức mua khác nhau và sự ổn định khác nhau do tỉ lệ lạm phát của các quốc gia
không giống nhau. Lãi suất ở mức hợp lí là cũng là lãi suất huy động đảm bảo cho
sức mua tương đối của các loại tiền không thay đổi. Điều đó có nghĩa là phải cộng
thêm vào đó những yếu tố biến động của tỷ giá hay tốc độ lạm phát của mỗi quốc
gia có loại tiền ngân hàng đang huy động
Chính sách lãi suất là một trong những chính sách quan trọng nhất
trong số các chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại, chính vì vậy mà
ngân hàng phảI có những múc tiêu và chính sách lãi suất cụ thể trong từng thời kỳ.
1.2.1.2 Chính sách sản phẩm
Hình thành một cơ cấu sản sản phẩm đa dạng cũng là một trong chính sách
quan trọng trong thu hút khách của ngân hàng thương mại. Thực tế cho thấy, không
một ngân hàng thương mại nào có thể thành công với một cơ cấu sản phẩm nghèo
nàn. Hầu như bất kỳ ai có tiền cũng đều muốn đồng tiền của mình sinh lợi nhưng
không phải bất kỳ lúc nào họ cũng có thể làm được điều đó. Họ cũng muốn gửi
tiền vào ngân hàng để được hưởng lãi suất nhưng tiền của họ chỉ nhàn rỗi trong
một khoảng thời gian nhất định và do đó không thể gửi kỳ hạn dài vào ngân hàng.

×