Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Báo cáo kiến tập tại trường chính trị tỉnh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.64 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
Ngày 11 tháng 4 năm 2012, Học viện Báo chí và Tuyên truyền ra Quyết
định số 830 QĐ/HVBCTT về việc cử đoàn sinh viên đi kiến tập. Trong đó sinh
viên các lớp Triết học, Kinh tế chính trị, Quản lý kinh tế, Chủ nghĩa xã hội khoa
học, Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, Lịch sử Đảng, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, Giáo dục chính trị khóa 29 đi kiến tập sư phạm tại các trường chính trị
tỉnh, thành phố và các trường Đại học, Cao đẳng từ ngày 23.04.2012 đến ngày
18.05.2012. Mục đích của đợt kiến tập là :
Thứ nhất là tiếp cận thực tế giảng dạy trên lớp và các hoạt động
chuyên môn của giảng viên các trường chính trị tỉnh, thành phố, trường
Đại học, Cao đẳng.
Thứ hai là tìm hiểu các hoạt động của khoa, nhà trường để hiểu biết về
nhiệm vụ và các quan hệ công tác của giảng viên tạo cơ sở cho đợt thực tập
nghiệp vụ cuối khóa và công tác cuối khóa sau khi tốt nghiệp.
Thứ ba là nâng cao ý thức học tập và rèn luyện, bồi dưỡng tinh thần say
mê nghề nghiệp.
Thực hiện quyết định này 17 sinh viên của các lớp trên đã có mặt tại
trường chính trị tỉnh Tuyên Quang vào 7 giờ sáng ngày 23.04.2012. Dưới sự chỉ
đạo của Ban chỉ đạo trường chính trị tỉnh Tuyên Quang, đoàn được phân về 2
khoa: Khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và khoa Xây dựng
Đảng. Các sinh viên trong đoàn và bản thân cá nhân em đã được tham dự các
buổi nghe giảng, tham gia các hoạt động của nhà trường và được đi thực tế tại
địa phương. Sau đây là bản báo cáo kiến tập của em về việc thực hiện nội dung
kiến tập trên:

I. TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HOÁ, XÃ HỘI TỈNH
1


TUYÊN QUANG.
1. Vị trí địa lý:


Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía Bắc, nằm ở giữa Tây Bắc và Đông Bắc
của Việt Nam, phía Bắc giáp tỉnh Hà Giang, phía Đông giáp tỉnh Bắc Cạn, Cao
Bằng và Thái Nguyên. Phía Tây giáp tỉnh Yên Bái, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ
và Vĩnh Phúc.
Tuyên Quang nằm ở trung tâm của lưu vực sông Lô, sông Gâm chảy qua
tỉnh theo hướng bắc nam và nhập vào sông Lô ở phía tây bắc huyện Yên Sơn
chỗ giáp gianh giữa 3 xã Phúc Ninh, Thắng Quân và Tân Long.
Tuyên Quang có các dân tộc Kinh, Tày, Dao, Cao lan, Nùng, Hoa,
H’Mông, Sán Dìu, Sán Chay… dân số: 727.751 người.
Dưới đời vua Trần Hiến Tông( niên hiệu Khai Hữu) châu Tuyên Quang
đổi thành trấn rồi thành phủ Tuyên Hóa dưới thời Minh thuộc.
Sau khi vua Lê Thái Tổ đuổi xong giặc Minh, ngài đặt phủ Tuyên Hóa
thuộc Tây Đạo. Đời vua Lê Thánh Tông, Tuyên Quang gồm một phủ và năm
huyện và trở thành phủ Minh Quang dưới thời vua Lê Uy Mục. Đời vua Lê
Trang Tông đổi Minh Quang thành doanh An Toại, cho họ người Vũ người Thái
làm doanh trưởng.
Ðịa hình: Tuyên Quang bao gồm vùng núi cao chiếm phần lớn diện tích
toàn tỉnh gồm toàn bộ huyện Na Hang, 11 xã vùng cao của huyện Chiêm hoá và
02 xã của huyện vùng cao Hàm Yên; vùng núi thấp và trung du chiếm khoảng
50% diện tích của tỉnh, bao gồm các xã còn lại của 02 huyện Chiêm Hoá, Hàm
Yên và các huyện Yên Sơn, Sơn Dương. Ðiểm cao nhất là đỉnh núi Chạm Chu
(Hàm Yên) có độ cao 1.587 m so với mực nước biển.
Khí hậu: Mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của
2


khí hậu lục địa mưa nhiều; mưa bão tập trung từ tháng 5 đến tháng 8 và
thường gây ra lũ lụt, lũ quét. Các hiện tượng như mưa đá, gió lốc thường xảy
ra trong mùa mưa bão với lượng mưa trung bình hàng năm đạt từ 1.500 1.700 mm. Nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 22 - 24 độ C. Cao nhất trung
bình 33 - 35 độ C, thấp nhất trung bình từ 12 - 13 độ C; tháng lạnh nhất là

tháng 11 và 12 (âm lịch), hay có sương muối.
Về tài nguyên: với tổng diện tích tự nhiên 586.800 ha, tỉnh Tuyên Quang
có quy mô diện tích ở mức trung bình so với cả nước, bình quân diện tích tự
nhiên theo đầu người là 0,87 ha/người (năm 2004). Đất đai Tuyên Quang tương
đối tốt, có thể tạo ra vùng chuyên canh chè, mía, lạc cung cấp nguyên liệu cho
công nghiệp chế biến. Diện tích đất nông nghiệp: 70.195 ha, chiếm 11,96%, đất
lâm nghiệp có rừng 445.848 ha, chiếm 76,16%, đất ở 5.156 ha và đất chưa sử
dụng 26.765 ha.
Đất đai Tuyên Quang được phân chia làm các khu vực sau:
- Khu vực núi cao phía Bắc: Gồm toàn bộ huyện Na Hang và các xã
vùng cao của các huyện Chiêm Hoá, Hàm Yên, Yên Sơn. Diện tích toàn khu
vực này chiếm khoảng trên 50% diện tích tự nhiên của tỉnh, phù hợp với việc
khoanh nuôi rừng tự nhiên và trồng rừng, phát triển kinh tế lâm – nông nghiệp.
- Khu vực núi thấp: Gồm các xã phía Nam của các huyện Chiêm Hoá,
Hàm Yên, Yên Sơn và Sơn Dương. Diện tích khu vực này chiếm 40% diện tích
tự nhiên của tỉnh. Đồi núi ở đây có độ dốc phổ biến 100 đến 250 độ, thích hợp
cho trồng cây công nghiệp dài ngày, cây lương thực và cây ngắn ngày khác.
- Khu vực đồi và thung lũng dọc sông Lô, sông Phó Đáy gồm Thành
phố Tuyên Quang và phần còn lại của các huyện Yên Sơn, Sơn Dương với diện
tích khoảng 10% diện tích tự nhiên của tỉnh. Khu vực này đang và sẽ là địa bàn
trọng điểm sản xuất công nghiệp, phát triển các trung tâm kinh tế - xã hội lớn
của tỉnh. Lâm nghiệp là tiềm năng, thế mạnh để phát triển kinh tế của tỉnh. Độ
3


che phủ của rừng năm 2005 đạt 63 %. Đặc biệt rừng Tuyên Quang có một hệ
thực vật rất phong phú với 760 loài của 349 chi, 126 họ thuộc 8 ngành thực vật
bậc cao có mạch, đó là: hạt kín, thông, tuế, thông đất, khuyết lá thông, cỏ tháp
bát, dương xỉ, dây gắm. Ngoài ra, còn có 207 loài cây gỗ cao từ 10 mét trở lên
thuộc 60 họ, các loài dây leo thuộc 17 họ và có trên 20 loài thực vật bậc cao,

thuỷ sinh thuộc các họ hoà thảo, cói, rong, tóc tiên, rong mái chèo,… Theo
danh mục trong sách đỏ Việt Nam, tỉnh Tuyên Quang có 18 loài thực vật quý
hiếm như: Trầm hương, nghiến, lát hoa, tuế đá vôi, hoàng đàn, pơ mu…
Tài nguyên khoáng sản: Theo sổ mỏ và điểm quặng tỉnh Tuyên Quang
do Cục Địa chất Việt Nam – Bộ Công nghiệp biên soạn năm 1994 và tài liệu
của các ngành hữu quan, tỉnh Tuyên Quang có 163 điểm mỏ với 27 loại khoáng
sản khác nhau được phân bố ở các huyện trong tỉnh. Trong đó đứng hàng đàu
về trữ lượng và chất lượng là quặng sắt, barit, cao lanh, thiếc, mangan, chì-kẽm,
angtimon...là yếu tố hết sức thuận lợi cho phát triển công nghiệp khai thác , chế
biến khoáng sản và công nghiệp chế biến vật liệu xây dựng.Trữ lượng, chất
lượng của từng loại khoáng sản được đánh giá như sau:
* Mỏ kim loại:
- Sắt: Đã phát hiện 17 điểm mỏ quặng với tổng trữ lượng dự báo khoảng 7
triệu tấn. Một vài điểm quặng có trữ lượng đáng kể như điểm Phúc Ninh, điểm
Tân Tiến, điểm Cây Nhãn (huyện Yên Sơn), trữ lượng lần lượt khoảng 2,4 triệu
tấn, 2,2 triệu tấn và 0,5 triệu tấn; điểm Cây Vầu (huyện Hàm Yên) trữ lượng
lkhoảng 1,5 triệu tấn
- Thiếc: Đã phát hiện 12 điểm có quặng, tập trung ở huyện Sơn Dương.
Tổng trữ lượng cả quặng gốc và quặng sa khoáng đạt xấp xỉ 28.239 tấn SnO2.
- Mangan: Có 8 điểm mỏ tập trung chủ yếu ở huyện Chiêm Hoá (7 điểm)
và huyện Na Hang (1 điểm). Đã có 2 điểm được thăm dò là Nà Pết, Phiêng
Lăng (huyện Chiêm Hoá) với trữ lượng dự báo khoảng trên 2,416 triệu tấn.
4


- Chì - kẽm: Có 24 điểm mỏ, tập trung ở thành phố Tuyên Quang, huyện
Yên Sơn, Sơn Dương, Chiêm Hoá và Na Hang. Mới có 6 điểm mỏ được đánh
giá trữ lượng ở cấp C2 = 195.927 tấn Pb Zn. Hàm lượng Pb<10%; Zn<30%.
Tổng trữ lượng cả cấp dự báo là 1.590.000 tấn chì - kẽm kim loại. Quặng kẽm
dùng để luyện ô xít kẽm ZnO phục vụ công nghệ hoá chất, công nghệ nhẹ và y

tế và luyện kẽm kim loại.
- Angtimoan: Đã phát hiện 15 điểm, trong đó Chiêm Hoá có 10 điểm, Na
Hang 4 điểm, Yên Sơn 1 điểm. Có 4 điểm là Khuôn Phục, Hoà Phú, Làng Vài,
Cốc Táy (Chiêm Hoá) đã được thăm dò với trữ lượng khoảng 1,2 triệu tấn.
* Mỏ không kim loại:
- Barit : Đã phát hiện 24 điểm quặng thuộc các huyện Sơn Dương, Yên
Sơn và Chiêm Hoá. Các điểm thăm dò gồm: Ao Sen, Hang Lương, Thiện Kế,
Ngòi Thia, Đùng Bùng (Sơn Dương); Làng Chanh, Xóm Hoắc, Xóm Húc (Yên
Sơn) và Hạ Vị (Chiêm Hoá), có trữ lượng trên 2 triệu tấn và hầu hết là mỏ lộ
thiên, điều kiện khai thác khá thuận lợi. Đây là loại khoáng sản có tiềm năng và
ý nghĩa xuất khẩu lớn đối với nền kinh tế của Tuyên Quang.
- Đá vôi xây dựng: Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang có rất nhiều điểm mỏ
đá vôi đạt chất lượng tốt trong xây dựng. Theo tài liệu địa chất đánh giá tại 9
điểm mỏ đá vôi (Tràng Đà - thành phố Tuyên Quang; ...) có tổng trữ lượng cấp
P2: 783 triệu m 3, chất lượng tốt, trữ lượng tập trung, cho khả năng sản xuất xi
măng, vật liệu xây dựng quy mô lớn và tại chỗ.
- Cao lanh – fenspat: Có nhiều điểm rải rác như Hào Phú, Vân Sơn (Sơn
Dương), Nghiêm Sơn (Yên Sơn). Lớn nhất là điểm mỏ Đồng Gianh (Sơn
Dương) có 11 thân quặng với trữ lượng dự báo khoảng 5 triệu tấn. Điểm mỏ
cao lanh Hào Phú (Sơn Dương) trữ lượng dự báo 1,411 triệu tấn. Điểm mỏ cao
lanh Thái Sơn (Hàm Yên) trữ lượng dự báo 1,075 triệu tấn.
5


- Nước khoáng – nước nóng: Có 2 điểm đáng chú ý là Bình Ca và Mỹ
Lâm. Trong đó mỏ nước khoáng Mỹ Lâm có trữ lượng nước khoáng là là 1.474
m3/ngày cấp B C1 C2, trong đó cấp B: 492 m 3/ngày; cấp C 2: 248 m 3/ngày.
Ngoài các loại khoáng sản trên, Tuyên Quang còn có nhiều loại khoáng sản
khác như vônfram, pirit, kẽm, chì, đất sét, vàng, cát sỏi,… nằm rải rác cũng là
tiềm năng để phát triển các điểm công nghiệp gắn với vùng nguyên liệu.

2. Phân chia hành chính
Tỉnh Tuyên Quang gồm có 1 thành phố và 6 huyện sau:
1. Thành phố Tuyên Quang (7 phường và 6 xã)
2. Huyện Chiêm Hóa (1 thị trấn và 25 xã)
3. Huyện Hàm Yên (1 thị trấn và 17 xã)
4. Huyện Na Hang (1 thị trấn và 11 xã)
5. Huyện Yên Sơn (1 thị trấn và 30 xã)
6. Huyện Lâm Bình (8 xã)
7. Huyện Sơn Dương (một thị trấn và 33 xã)
3. Khái quát tình hình chung của Tuyên Quang
3.1. Tình hình kinh tế
Phát huy thế mạng của tỉnh, kinh tế tiếp tục phát triển, có những bước tiến
mạnh mẽ, góp phần nâng cao đời sống của đồng bào trong tỉnh.
Trong nông nghiệp chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông
thôn, từ kinh tế thuần nông chuyển sang kinh tế hàng hoá, ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá
thành và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá nông, lâm nghiệp.
6


Hoàn chỉnh hệ thống sản xuất cung ứng giống cây trồng vật nuôi, kiện toàn
hệ thống khuyến nông từ tỉnh đến cơ sở, quy hoạch đồng ruộng, và quy
hoạch nông thôn. Năm 2011, sản lượng lương thực của tỉnh đạt 32,9 vạn tấn.
Trồng rừng tập trung 15.560ha, độ che phủ rừng đạt 64,7%.
Trong công nghiệp thu hút nguồn lực để đầu tư phát triển các ngành công
nghiệp có lợi thế của tỉnh. Xây dựng cụm công nghiệp Long Bình An và 5 cụm
công nghiệp TTCN tại các huyện, thị xã, triển khai đầu tư xây dựng một số dự
án công nghiệp trọng điểm như: Nhà máy giấy An Hoà công suất 130 nghìn tấn
bột giấy / năm, các nhà máy xi măng, nhà máy sản xuất phôi thép công suất 200
nghìn tấn/ năm. Đang tích cực đẩy nhanh tiến độ thi công Nhà máy bột giấy An

Hòa, Nhà máy hợp kim sắt, Nhà máy xi măng Tân Quang. Trong năm 2010, về
công nghiệp, đã đạt những thành tựu lớn: giá trị sản xuất công nghiệp đạt
2.262,3 tỉ đồng. Năm 2011 là năm mà cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và suy
giảm kinh tế trong nước vẫn còn ảnh hưởng xấu tới tình hình sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm của các doanh nghiệp trên địa bàn. Đây cũng là năm khô hạn kéo dài
làm mực nước tại hồ thủy điện Tuyên Quang thấp hơn nhiều so với mọi năm
dẫn đến sản lượng điện sản xuất giảm. Đối với một số doanh nghiệp khai thác,
chế biến khoáng sản, một số điểm mỏ barit, đá trắng… hiên nay cũng đã cạn
kiệt. Những khó khăn, vướng mắc trên của doanh nghiệp được các cấp, các
ngành tích cực vào cuộc tháo gỡ, giúp đỡ. Các địa phương trên địa bàn tỉnh đã
nỗ lực và đạt được những kết quả nhất định: thành phố Tuyên Quang dẫn đầu
với kết quả giá trị sản xuất công nghiệp đạt 864,6 tỷ đồng; tăng 17,3% so với
năm 2009; huyện Na Hang đạt 462 tỷ đồng, tăng 1,5% so với năm 2009; huyện
Yên Sơn đạt 433 tỷ đồng, tăng 35,3% so với năm 2009…Có 8/19 sản phẩm
vượt kế hoạch gồm: gỗ tinh chế, chè chế biến, xi măng, silicomangan, bột
penpat, nước máy thương phẩm, giấy xuất khẩu tăng. Mặc dù khó khăn về
nguồn điện, song công ty Điện lực tỉnh đã thực hiện việc cắt và cung cấp điện
hợp lý, đảm bảo sản xuất kinh doanh ổn định trên địa bàn.Kết quả đạt được trên
7


khích lệ toàn ngành công nghiệp tỉnh vững bước vào năm 2011- năm đầu tiên
thực hiện Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ XV; năm được dự báo là tình
hình kinh tế thế giới và trong nước có bước phát triển với nhiều cơ hội mới.
Toàn ngành đẩy mạnh triển khai thực hiện các quy hoạch về tổng thể phát triển
công nghiệp, quy hoạch phát triển điện lực tỉnh, quy hoạch điều chỉnh, bổ
sung, nâng cấp cụm công nghiệp Sơn Nam(Sơn Dương) thành khu công
nghiệp Sơn Nam. Hoàn thành đưa vào sản xuất nhà máy xi măng Tân Quang;
đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án: Nhà máy thủy điện Chiêm Hóa, Nhà
máy phôi thép Hằng Nguyên, nhà máy hợp kim sắt…Sở công thương và các

ngành chức năng tham mưu cho UBND tỉnh hoàn thiện các thủ tục đề nghị Bộ
Công thương trình Chính phủ hỗ trợ vốn đầu tư hạ tầng kỹ thuật các cụm công
nghiệp: Sơn Nam, huyện Sơn Dương và An Thịnh, huyện Chiêm Hóa (12 tỷ
đồng). Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư, thực hiện Đề án nâng cao hiệu quả quản
lý và phát triển doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế (theo Quyết định
số 34/2006/QĐ-UBND ngày 26-7-2006), đến nay trên địa bàn tỉnh có 835
doanh nghiệp. Trong đó 29 doanh nghiệp mới được cấp đăng ký kinh doanh
trong quý I-2011.
Theo đánh giá của Cục Thống kê tỉnh, trong 5 năm (2006 - 2010) khu vực
doanh nghiệp Nhà nước giảm 6,9%; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước
tăng 17,3%. Phân theo các ngành, công nghiệp khai khoáng tăng 14,6%; công
nghiệp chế biến tăng 16%; xây dựng tăng 11%; thương nghiệp tăng 19%; vận
tải kho bãi tăng 19,3%; dịch vụ ăn uống tăng 16,7%. Riêng lĩnh vực về nông
lâm nghiệp và thủy sản giảm 10%. Hiện nay các doanh nghiệp trên địa bàn
đang thu hút và sử dụng gần 22.000 lao động, tăng 1,5 lần so với năm 2005.
Trong 13 doanh nghiệp nhà nước có tổng nguồn vốn 737,6 tỷ đồng, chiếm
16,3% tổng nguồn vốn, bình quân mỗi doanh nghiệp nhà nước có 56,7 tỷ đồng.
Doanh nghiệp ngoài nhà nước có tổng nguồn vốn 3.790 tỷ đồng, chiếm 83,7%,
bình quân mỗi doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tổng nguồn vốn 4,8 tỷ đồng.
8


Doanh thu của các doanh nghiệp cũng có tốc độ tăng khá. Tính riêng năm 2010,
bình quân mỗi doanh nghiệp ngoài nhà nước có doanh thu từ 500 triệu đồng
đến 7 tỷ đồng. Tỷ lệ nộp ngân sách chiếm 4% doanh thu, mức nộp ngân sách
bình quân của 1 doanh nghiệp sau 5 năm (2006 - 2010) tăng lên trên 100 triệu
đồng so với năm 2005.
Việc thu hút đầu tư phát triển doanh nghiệp đã tạo ra khối lượng hàng hóa,
dịch vụ lớn hơn, phong phú hơn và chất lượng tốt hơn. Nhờ đó đã góp phần
thay thế nhiều mặt hàng trước đây phải nhập từ tỉnh ngoài về, góp phần cải

thiện, nâng cao mức tiêu dùng của nhân dân trong tỉnh. Đời sống nhân dân cải
thiện là điều kiện thúc đẩy cho kinh tế phát triển đạt tốc độ bình quân
13,5%/năm, giai đoạn 2006 - 2010. Hình thành đội ngũ doanh nhân tiếp cận
kinh tế thị trường nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh và tham gia tích cực
vào các hoạt động xã hội như hỗ trợ xóa nhà tạm, giúp đỡ hộ nghèo, trao học
bổng cho học sinh nghèo vượt khó… Doanh nghiệp phát triển, tác động tích
cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh từ nông nghiệp sang công nghiệp
và dịch vụ. Bằng chính sách thu hút đầu tư, phát triển doanh nghiệp, đến nay
các doanh nghiệp đã có mặt hầu hết ở các ngành, các lĩnh vực từ khai khoáng
đến du lịch dịch vụ. Đây là cơ hội tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người
lao động và nâng cao trình độ từ lao động phổ thông sang lao động kỹ
thuật.Thương mại dịch vụ nâng cao vai trò quản lý của nhà nước đối với hoạt
động thương mại, khuyến khích các thành phần kinh tế hoạt động trong lĩnh
vực thương mại, phát triển các sản phẩm xuất khẩu mới, mở rộng thị trường
xuất khẩu. Quy hoạch chi tiết và huy động vốn đầu tư các công trình trong khu
du lịch điều dưỡng suối khoáng Mỹ Lâm, thực hiện dự án bảo tồn, tôn tạo các
di tích lịch sử việt bắc. Quy hoạch và lập dự án đầu tư các khu du lịch: Tân
Trào-ATK, khu du lịch sinh thái Na Hang gắn với quản lý hồ thuỷ điện Tuyên
Quang. Năm 2010, giá trị các mặt hàng xuất khẩu đạt 27 triệu USD, thu hút
500.000 lượt khách du lịch, doanh thu xã hôi ước đạt gần 500 tỷ đồng, tỷ mức
9


bán lẻ xã hội đạt 5.700 tỷ đồng. Theo Sở Thông tin và Truyền thông, hiện toàn
tỉnh có gần 46.000 thuê bao điện thoại cố định hữu tuyến; hơn 94.000 thuê bao
điện thoại cố định vô tuyến; gần 37.000 thuê bao điện thoại di động trả sau; hơn
362.000 thuê bao điện thoại di động trả trước, 231 điểm giao dịch (đại lý) thông
tin di động… Các nhà mạng như: VNPT, Viettel, EVN đã và đang không ngừng
nỗ lực tăng cường các chiến dịch quảng bá thương hiệu, chăm sóc khách hàng,
đưa ra nhiều sản phẩm dịch vụ nhiều tiện ích... Cuộc chạy đua về chất lượng

giữa các đơn vị cũng đã hết sức quyết liệt và khoảng cách chênh lệch về chất
lượng dịch vụ ngày càng được rút ngắn. Sự phát triển này đã và đang góp phần
đắc lực trong công cuộc xây dựng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh ta.Cùng với
việc chú trọng đến công tác kinh doanh, chăm sóc khách hàng, các đơn vị kinh
doanh dịch vụ viễn thông còn phối hợp với các cơ quan đơn vị trên địa bàn tỉnh
thực hiện nhiều chương trình hợp tác ký kết cung cấp dịch vụ như: VNPT ký
kết cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật phục vụ cải cách hành chính trong lĩnh
vực an ninh - trật tự với Công an tỉnh; Viettel Tuyên Quang phối hợp với Sở
Giáo dục và Đào tạo thực hiện chương trình đưa internet vào trường học... Các
chương trình này không chỉ giúp các đơn vị mở rộng đối tượng khách hàng,
khẳng định chất lượng dịch vụ mà còn khẳng định vai trò của họ trong sự
nghiệp xây dựng nền kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của tỉnh nhà trong
thời kỳ hội nhập và phát triển.Việc thành lập huyện mới Lâm Bình dẫn đến nhu
cầu sử dụng các dịch vụ internet, điện thoạt cố định, di động, Mytv... của các cơ
quan đơn vị và người dân sẽ tăng lên. Các đơn vị đã và đang tập trung xây dựng
hệ thống cơ sở hạ tầng tại 8 xã trên địa bàn. Ông Nguyễn Xuân Trường, thôn
Bản Khiển, xã Lăng Can (Lâm Bình) cho biết, so với trước đây thì hiện nay các
dịch vụ viễn thông cũng đa dạng hơn. Người dân đã có nhiều cơ hội lựa chọn
sử dụng dịch vụ của các nhà mạng khác nhau để phục vụ nhu cầu giao lưu trao
đổi thông tin liên lạc, giải trí. Từ đó đời sống văn hoá tinh thần của bà con cũng
từng bước được nâng cao.Cùng với các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực viễn
thông, Bưu điện tỉnh Tuyên Quang cũng đã và đang không ngừng nỗ lực đưa ra
10


nhiều giải pháp để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy các điểm bưu điện văn hoá xã
(BĐVHX) hoạt động linh hoạt và hiệu quả. Như linh hoạt giờ đóng, mở cửa các
điểm BĐVHX phù hợp với đặc điểm tập quán sinh hoạt của từng địa phương.
Bên cạnh việc cung cấp các dịch vụ công ích thì cũng khuyến khích nhân viên
tại các điểm bưu điện văn hoá xã thực hiện bán sim thẻ điện thoại, bảo hiểm ô

tô xe máy... nhằm nâng cao doanh thu. Ngày 23-2, Bưu điện tỉnh đã có quyết
định chuyển đổi điểm BĐVHX Lăng Can tại thôn Nà Khà, xã Lăng Can (Lâm
Bình) thành bưu cục cấp III. Từ ngày 1-3 bưu cục này đã chính thức đi vào hoạt
động đáp ứng tốt hơn nhu cầu gửi bưu phẩm, bưu kiện, đặt mua báo chí, thư
chuyển tiền, mua sản phẩm bảo hiểm Phi nhân thọ... của bà con nhân dân trên
huyện mới Lâm Bình.
Hệ thống đường giao thông: Tuyên Quang có các đường giao thông quan
trọng như Quốc lộ 2 đi qua địa bàn tỉnh 90 km ( từ xã Đội Bình huyện Yên Sơn
đến xã Yên Lâm huyện Hàm Yên) nối liền Thủ đô Hà Nội, Phú Thọ với Tuyên
Quang và Hà Giang, Quốc lộ 37 từ Thái Nguyên đi qua huyện Sơn Dương, Yên
Sơn đi Yên Bái, Quốc lộ 2C từ thành phố Vĩnh Yên lên Sơn Dương và thành
phố Tuyên Quang. Toàn tỉnh có 340,6 km đường quốc lộ; 392,6km đường
tỉnh; 579,8 đường huyện; 141,71 km đường đô thị; kết cấu mặt đường bao gồm
các loại: cấp phối, thâm nhập nhựa và bê tông. Đến nay, 100% xã, phường, thị
trấn, 96,3% thôn, bản có đường ô tô đến trung tâm.Tỉnh đã hoàn thành quy
hoạch tổng thể mạng lưới giao thông đến năm 2010 và định hướng phát
triển đến năm 2020. Trong tương lai, Tuyên Quang có một hệ thống giao thông
hoàn chỉnh gồm đường bộ, đường thuỷ, đường sắt. Trong đó có những tuyến
giao thông huyết mạch, chiến lược của cả nước đi qua địa phận tỉnh như: đường
Hồ Chí Minh, quốc lộ 279, đường cao tốc Hải Phòng-Côn Minh, đường sắt
Thái Nguyên- Tuyên Quang- Yên Bái, Tuyến đường sông Việt trì- Tuyên
Quang- Hạ lưu thuỷ điện Tuyên Quang. Hệ thống giao thông này sẽ làm thay
đổi một cách căn bản địa kinh tế của tỉnh, tạo điều kiện thu hút đầu tư và mở
11


rộng giao thương để phát triển.
Hệ thống điện: Tuyên Quang được cung cấp điện mua từ Trung Quốc theo
tuyến điện 110 kV từ cửa khẩu Thanh Thuỷ (Hà Giang) đến trạm 110 kV Hà
Giang, qua trạm Bắc Quang , qua đường dây 110 KV Bắc Quang-Hàm Yên

cấp điện cho 2 trạm biến áp 110 kV của tỉnh là Tuyên Quang và Chiêm Hoá.
Ngoài ra Tuyên Quang có thể nhận nguồn cung cấp dự phòng từ tỉnh Yên Bái
( nhà máy thuỷ điện Thác Bà) và tỉnh Thái Nguyên(trạm 220 KV Thái Nguyên)
qua đường dây 110KV Thác Bà - Thái Nguyên. Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang
có 613 trạm biến áp các loại; 1.447,8 km đường dây tải điện từ 6 KV - 35KV.
Tính đến hết năm 2005 đã có 100% số xã có điện lưới quốc gia, tỷ lệ số hộ
được dùng điện lưới quốc gia đạt 84,5%.Mặc dù chịu ảnh hưởng của thời tiết,
giá cả tăng cao; song kết thúc quý I 2011, nhiều chỉ tiêu kinh tế- xã hội của tỉnh
Tuyên Quang đã và vượt kế hoạch đề ra. Cụ thể giá trị sản xuất công nghiệp
tăng 16% so với cùng kỳ năm ngoái. Một số sản phẩm chủ yếu có mức tăng
trưởng khá là bột barite, xi măng, giấy xuất khẩu, gỗ tinh chế…. Tính đến hết
tháng 3 năm 2011, thu ngân sách trên địa bàn toàn tỉnh đã đạt xấp xỉ 40% kế
hoạch năm, trong đó một số khoản thu đạt khá như khu vực công thương
nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh, thu tiền sử dụng đất, thuế thu nhập cá
nhân… Sản xuất nông nghiệp mặc dù chịu ảnh hưởng của đợt rét đậm rét hại
kéo dài nhưng cũng đã hoàn thành đúng chỉ tiêu kế hoạch đề ra về gieo cấy vụ
xuân, kế hoạch trồng rừng.
Trong quý I, tỉnh Tuyên Quang đã hoàn thành cấp gần 230 nghìn giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức và hộ gia đình. Tổng số vốn
đăng ký kinh doanh trong quý 1 đạt trên 4.500 tỷ đồng. Ngoài ra, đã hoàn thành
dự án đưởng tỉnh ĐT 190 tuyến Yên Hoa – Thượng Giáp, bến thủy vùng lòng
hồ thủy điện Tuyên Quang. Đến nay toàn tỉnh đã thực hiện được gần 70 km
đường giao thông liên thôn theo chương trình bê tông hóa đường giao thông
nông thôn.
12


Triển khai Nghị quyết 11 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập
trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tỉnh
Tuyên Quang đã tiến hành nhiều biện pháp trong đó chú trọng đến các chính

sách về an sinh xã hội.
Quý II, tỉnh Tuyên Quang sẽ tập trung làm tốt công tác bầu cử đại biểu
Quốc hội khóa XIII và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016.
Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để các thành phần kinh tế đẩy mạnh
sản xuất. Rà soát, kiên quyết xử lý nghiêm những dự án đầu tư kém hiệu quả,
không đảm bảo tiến độ. Chú trọng bảo đảm nguyên liệu cho các dự án công
nghiệp trọng điểm của tỉnh. Có phương án điều tiết, sử dụng điện hợp lý.
Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trưởng, kịp thời thực hiện có hiệu quả
các biện pháp bình ổn giá. Tiếp tục thực hiện tốt dự toán thu ngân sách nhà
nước năm 2011.
3.2 Tình hình văn hoá -xã hội
Quan tâm thực hiện các mục tiêu văn hoá xã hội: Ngành giáo dục đã triển
khai cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,
chất lượng dạy và học ở các cấp học được nâng lên. 100% số xã giữ vững được
thành quả phổ cập giáo dục các bậc học.
Năm 2010, toàn tỉnh đã tạo việc làm mới cho trên 14.500 lao động,
6.900 lao động đi làm việc ở các khu công nghiệp trong nước, xuất khẩu 500
lao động. Tỷ lệ nghèo đói giảm xuống còn 14,58%; tỷ lệ số hộ dân được sử
dụng điện lưới quốc gia đạt 94,47%; trên 97% số hộ dân ở thành thị được sử
dụng nước sạch và 67,5% số hộ dân ở nông thôn được sử dụng nước sinh
hoạt hợp vệ sinh.
Đề án điều chỉnh địa giới hành chính huyện Na Hang và huyện Chiêm
Hóa để thành lập huyện Lâm Bình thuộc tỉnh Tuyên Quang được Thủ tướng
Chính Phủ đồng ý về chủ trương.
13


Kết cấu hạ tầng được đầu tư xây dựng nổi bật xây dựng và phát triển thị xã
Tuyên Quang thành thành phố trực thuộc tỉnh, đẩy nhanh tiến độ thi công, hoàn
thành một số công trình trọng điểm như: Trung tâm hội nghị tỉnh, Bảo tàng

tỉnh, Quảng trường tỉnh, cầu Tân Hà, Quốc lộ 37 (giai đoạn thành phố Tuyên
Quang- Đèo Khế), khởi công xây dựng cầu Kim Xuyên, tiếp tục đầu tư xây
dựng Quốc lộ 2C, cầu Tứ Quận, trung tâm huyện Yên Sơn tại địa điểm mới…
Ngành y tế đẩy mạnh công tác tuyên truyền, khởi công nhiều công
trình y tế như khu điều trị bệnh viện đa khoa Tuyên Quang, bệnh viện đa khoa
Sơn Dương, Yên Hoa… Đội ngũ thầy thuốc không chỉ giỏi chuyên môn mà
thực sự là “từ mẫu” đã thắp lên niềm tin yêu cho người bệnh. Các bác sỹ đã tìm
về tận cơ sở, đến vùng sâu, vùng xa chữa bệnh cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Cùng với hoàn thiện cơ sở hạ tầng, Tuyên Quang từng bước được khôi
phục và tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao: điển hình là lễ hội
đường phố của thành phố Tuyên Quang, lễ hội Động Tiên, lễ hội chọi trâu ở
Hàm Yên, lễ hội Lồng Tồng ở Chiêm Hóa, Nà Hang…đã trở thành nét văn hóa
đặc sắc của Tuyên Quang, thu hút sự tham gia của hàng vạn người trong tỉnh và
du khách địa phương. Năm 2010, từ ngày 20/11 đến ngày 24/11 đã diễn ra Tuần
Văn hóa- Du lịch Tuyên Quang, gắn với chương trình hợp tác phát triển du lịch
“Qua những miền di sản” 4 tỉnh Tuyên Quang- Hà Giang- Bắc Kan- Cao Bằng
với nhiều hoạt động phong phú, mang đậm bản sắc, truyền thống văn hóa các
dân tộc. Các hoạt động văn hóa, lễ hội không chỉ làm phong phú đời sống tinh
thần mà còn tạo nên hiệu quả kinh tế, làm thay đổi cách tư duy, mở rộng tầm
nhìn của Tuyên Quang. Với những thay đổi đó đã và đang làm nên diện mạo
mới của Tuyên Quang, tạo nên ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn bè, làm cho
Tuyên Quang gần hơn với cả nước. Tỉnh đã thành lập hồ sơ khu di tích lịch sử
Tân Trào, đề nghị Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch trình Thủ tướng chính phủ
xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Hoàn thành sưu tầm 318 hiện vật, 609 tài
liệu, nâng tổng số lên 15.729 tài liệu, hiện vật. Hoàn thành các công trình: phục
14


dựng chùa Bảo Ninh Sùng Phúc (huyện Chiêm Hóa, giai đoạn 1), tu bổ chống
xuống cấp di tích thành nhà Mạc. Hoàn thành phục dựng bảo tồn lễ hội đình

làng Minh Cầm, xã Đội Bình (Yên Sơn); bảo tồn lễ hội Lồng tông (Chiêm
Hóa), lễ hội Lồng tông xã Thượng Lâm (Na Hang). Đến nay toàn tỉnh có 3
trung tâm văn hóa cấp tỉnh, 3 nhà văn hóa huyện. Toàn tỉnh có gần 143.000 hộ
gia đình dạt danh hiệu Gia đình văn hóa; 1.476 thôn, bản, tổ nhân dân đạt danh
hiệu thôn, bản, tổ nhân dân văn hóa.
Năm 2011, năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng
bộ tỉnh lần thứ XV. Tỉnh chỉ đạo các ngành liên quan đẩy mạnh và nâng cao
chất lượng thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”. Phấn đấu đạt trên 70% số hộ gia đình đạt danh hiệu Gia đình văn hóa;
70% số thôn, bản, tổ nhân dân đạt danh hiệu thôn, bản văn hóa. Chú trọng
công tác phục hồi, tôn tạo di tích lịch sử, văn hóa, bảo tồn, phát huy giá trị di
sản văn hóa truyền thống các dân tộc gắn với phát triển du lịch. Đổi mới
phương pháp tổ chức, nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, thể thao
phục vụ hiệu quả nhiệm vụ chính trị, hướng hoạt động phục vụ hưởng thụ
văn hóa của nhân dân ở cơ sở.
Toàn tỉnh có 04 trường giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề, gồm :
Trường Cao đẳng Sư phạm Tuyên Quang
Trường Trung học Kinh tế kỹ thuật Tuyên Quang
Trường Trung học Y tế Tuyên Quang
Trường Cao đẳng Kỹ nghệ Tuyên Quang
Hàng năm, các trường có khả năng đào tạo hàng trăm giáo viên, cán bộ
y tế và hàng nghìn cán bộ có trình độ trung học chuyên nghiệp, công nhân
lành nghề.
15


Tỉnh Tuyên Quang đã đưa ra một số chỉ tiêu kinh tế- xã hội năm 2011:
+ Tốc độ tăng trưởng sản phẩm trên địa bàn trên 14%
+ Giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 2.578 tỷ đồng
+ Sản lượng lương thực đạt trên 32,5 vạn tấn

+ Trồng mới hơn 15.000ha rừng
+ Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội đạt trên 6.100 tỷ đồng
+ Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn trên 1039 tỷ đồng
+ Thu hút 600.000 lượt khách du lịch, doanh thu du lịch đạt 550 tỷ đồng
+ Tạo việc làm mới cho 11.500 lao động , xuất khẩu 500 lao động
+ Tỷ lệ hộ dân cư thành thị được sử dụng nước sạch đạt 98%
+ Tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 70%
Với phương châm hành động “ổn định, hài hòa, tập trung đột phá, khai
thác tiềm năng, hội nhập và phát triển”, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc
Tuyên Quang phát huy truyền thống của quê hương cách mạng, Thủ đô khu giải
phóng, Thủ đô kháng chiến, tỉnh Anh hùng, tiếp tục đẩy mạng toàn diện sự
nghiệp đổi mới, sớm đưa Tuyên Quang hoàn thành các mục tiêu, đưa tỉnh ra
khỏi tình trạng kém phát triển.
3.3 Chính trị- An ninh quốc phòng
Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2010- 2015 đã thành công tốt
đẹp. Toàn tỉnh kết nạp 1.999 đảng viên, trong đó 1.022 đảng viên là người dân
tộc thiểu số, chiếm trên 50%; nâng tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ lên
40.583 đồng chí. Thành lập mới trên 10 đảng bộ cơ sở, nâng tổng số tổ chức cơ
sở đảng lên 486; 1.207 đảng viên được tặng Huy hiệu Đảng từ 30 năm tuổi
16


Đảng trở lên. Toàn tỉnh thành lập 123 chi bộ cơ quan xã, phường, thị trấn và
hoàn thành việc thí điểm thành lập 6 chi bộ quân sự xã.
Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục quốc phòng, xây dựng nền quốc
phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững. Hoàn thành quyết tâm
phòng thủ tác chiến cơ bản, đầu tư xây dựng căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu
phương và khu vực phòng thủ then chốt trong khu vực phòng thủ tỉnh, huyện.
Xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh thưỡng xuyên tấn
công ngăn chặn các loại tội phạm nhất là tội phạm ma tuý, giữ vững trật tự an

toàn trên địa bàn tỉnh.
3.4 Di tích lịch sử:
Di tích lịch sử Tân Trào là xã nằm ở đông bắc huyện Sơn Dương, gắn liền
với tên tuổi sự nghiệp vị lãnh tụ vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, danh nhân
văn hoá thế giới, Hồ Chí Minh. Đến nay Tân Trào có trên 17 di tích. Nơi đây đã
ghi lại những sự kiện lịch sử hào hùng của ngày đầu thành lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà. Những di tích chính của Tân Trào gồm: Lán Nà Lừa, cây đa
Tân Trào, đình Tân Trào, đình Hồng Thái… Cùng với những di tích lịch sử ghi
dấu ấn cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta suốt 9 năm trường kỳ. Khu
di tích văn hóa- lịch sử và sinh thái Quốc gia Tân Trào là tâm điểm của những
chuyến du lịch về nguồn.
+ Lán Nà Lừa
Là nơi Bác Hồ ở và làm việc từ cuối tháng 5 đến cuối tháng 8 năm 1945
để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Lán được dựng bằng tre theo kiểu nhà
sàn. Ngày mùng 4 tháng 6 năm 1945, tại nơi đây, Bác Hồ đã triệu tập Hội nghị
cán bộ để chuẩn bị thành lập “Khu giải phóng, Quân giải phóng”, tiến tới Quốc
dân Đại Hội, Tổng khởi nghĩa. Hiện tại lán vẫn được bảo tồn và là điểm du lịch
hấp dẫn du khách thăm quan.
17


+ Cây Đa Tân Trào
Dưới bóng cây Đa của làng Tân Lập, chiều ngày 16 tháng 8 năm 1945,
quân Giải phóng Việt Nam làm lễ xuất quân trước sự chứng kiến của nhân dân
Tân Trào và 60 Đại biểu toàn quốc về dự Quốc dân Đại hội. Đồng chí Võ
Nguyên Giáp đã đọc Bản Quân Lệnh số 1 và ngay sau đó quân Giải phóng đã
lên đường qua Thái Nguyên tiến về giải phóng Hà Nội.
+ Đình Tân Trào
Là một ngôi đình thờ Thành Hoàng và các vị thần sông, thần núi của làng
Tân Lập. Đình được dựng vào năm Quý Hợi (1923) theo kiểu nhà sàn, cột gỗ 3

gian 2 chái, mái lợp lá cọ, Dưới mái đình này, ngày 16 tháng 8 năm 1945, các
Đại biểu trên khắp mọi miền Tổ quốc đã về họp Quốc dân Đại hội. Tại đây, các
Đại biểu đã tán thành chủ trương tiến hành Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông
qua Lệnh khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Việt Minh, quy định quốc kỳ là
lá cờ đỏ sao vàng, quốc ca là bài Tiến quân ca và cử ra Uỷ ban Giải phóng Dân
tộc Việt Nam tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Sáng ngày 17 tháng 8 năm 1945 thay mặt Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam,
Bác Hồ đã đọc lời thề thiêng liêng trong lễ ra mắt Quốc dân tại nơi đây.
+ Đình Hồng Thái (đình Kim Trận)
Đình thuộc địa phận làng Kim Trận (nay là thôn Cả), xã Tân Trào, huyện
Sơn Dương. Đình cất dựng năm 1919, có kiến trúc thuần gỗ, mái lợp lá cọ, đình
gồm 3 gian 2 chái, dáng dấp nhà sàn miền núi. Đình Hồng Thái cũng như ngôi
đình của Việt Nam với chức năng tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng, thần
Sông, thần Núi và các vị thần xung quanh vùng. Ngoài ra, đình còn thờ một vị
nhân thần là Ngọc Dung Công Chúa. Hơn nữa, đình còn là nơi sinh hoạt văn
hoá, hội họp của làng. Hàng năm dân làng tổ chức nhiều lễ cúng bái tại đình,
các ngày lễ dựa vào mùa vụ trong năm. Ngày lễ lớn nhất là ngày mùng 3 tháng
Giêng âm lịch, trong ngày lễ này, đồng bào tổ chức nghi lễ rước Công chúa
18


Ngọc Dung; phần hội có nhiều trò chơi hấp dẫn như hát then, hát cọi, các trò
chơi dân gian… Ngoài giá trị về mặt văn hoá tín ngưỡng thì ngôi đình còn có
giá trị về mặt lịch sử. Bởi đây là nơi dừng chân đầu tiên của vị lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc khi người từ Pắc Bó, Cao Bằng đến với căn cứ địa Cách mạng Tân
Trào ngày 21/5/1945.
+ Hang Bòng
Là nơi ở và làm việc của Bác Hồ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Hang nằm ở trên lưng chừng núi Bòng, dưới chân núi là dòng sông Phó Đáy
uốn khúc ôm lấy bên hữu dãy núi. Chính tại đây Bác Hồ đã chỉ đạo chiến dịch

Biên giới 1950 và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II vào năm 1951.
+ Ngôi nhà của ông Nguyễn Tiến Sự
Ông Nguyễn Tiến Sự - Chủ nhiệm Việt Minh làng Kim Long (nay là làng
Tân Lập). Ngôi nhà ở vị trí giữa làng Tân Lập, xã Tân Trào. Đây là nơi đã từng
gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng của Bác Hồ khi Người từ Pắc Bó,
Cao Bằng về Tân Trào từ ngày 21/5/1945. Bác ở đây trước khi rời lên lán Nà
Lừa. Hàng ngày Bác Hồ dậy từ 5 giờ sáng, tập thể dục rồi làm việc. Giờ nghỉ,
Bác Hồ rất quan tâm đến thăm hỏi mọi người trong nhà, trong làng. Bác mua
bút, vở tặng con ông Sự, khuyến khích ông cho con đi học. Bác còn dành thời
gian đi thăm đồng, tự tay đắp bờ ruộng để giữ nước, nói chuyện với cán bộ,
chiến sĩ quân Giải phóng, với bà con, chị em phụ nữ. Đến nay, ngôi nhà
không chỉ là một di tích lịch sử Cách mạng mà còn có giá trị kiến trúc nhà
sàn truyền thống tiêu biểu của dân tộc Tày ở Tân Trào, huyện Sơn Dương,
tỉnh Tuyên Quang.
+ Khu di tích Nhà ở và Hầm an toàn của đồng chí Tôn Đức Thắng.
Khu di tích nằm ở thôn Chi Liền (nay là thôn Đồng Mà), xã Trung Yên,
huyện Sơn Dương. Nơi đồng chí Tôn Đức Thắng quyền Trưởng Ban Thường
19


trực Quốc hội, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt sinh hoạt và làm việc từ cuối năm
1952 đến năm 1954.. Cũng từ đây Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao Phạm Văn Đồng đi dự hội nghị Giơ- ne- vơ. Khu di tích đã đựơc Bộ Văn
hoá- Thông tin xếp hạng là di tích Quốc gia.
+ Điểm du lịch văn hoá- lịch sử và sinh thái Nha Công an: Thuộc xã Minh
Thanh, huyện Sơn Dương, nằm trong quần thể Khu di tích Cách mạng Tân
Trào; được tu bổ tôn tạo, khánh thành vào dịp kỷ niệm 55 năm ngày thành lập
Công an nhân dân Việt Nam (19/ 8/1945- 19/8/2000) Từ tháng 4/1947 đến
tháng 9/1950, nơi đây là trụ sở của Nha Công an Trung ương và các đơn vị làm
nhiệm vụ trực tiếp bảo vệ Bác Hồ, Trung ương Đảng, Chính phủ, diễn ra nhiều

sự kiện có ý nghĩa quan trọng, góp phần vào thắng lợi của cuộc Kháng chiến
chống Thực dân Pháp xâm lược.

II. NHẬN THỨC VỀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ HOẠT ĐỘNG
CHUNG CỦA TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH TUYÊN QUANG
Giới thiệu chung:
Trường chính trị tỉnh Tuyên quang trụ sở đặt tại Tổ 10, Phường Ỷ La, TP
Tuyên Quang.
Bộ máy tổ chức: gồm ban giám hiệu và các phòng ban.
Các đồng chí trong ban giám hiệu:
Hiệu trưởng: Đồng chí Ngô Xuân Minh.
Phó hiệu trưởng: Đồng chí Đỗ Cao Quang.
Các phòng, khoa trực thuộc:
Cơ cấu tổ chức gồm 4 khoa, 3 phòng:
20


- Khoa: Lý luận Mác - Lênin - Tư tưởng Hồ Chí Minh
- Khoa Xây dựng Đảng
- Khoa Dân vận
- Khoa Nhà nước pháp luật.
- Phòng đào tạo
- Phòng nghiên cứu khoa học – thông tin – tư liệu
- Phòng tổ chức hành chính - quản trị.

Tổng số cán bộ - giảng viên của Nhà trường gồm có 60 đồng chí, các đồng
chí đều được đào tạo chính quy và có trình độ chuyên môn cao. Đa phần cán bộ
giảng viên đều tốt nghiệp từ Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền và một số trường khác.
2. Chức năng, nhiệm vụ:

a, Chức năng:
Giáo dục, huấn luyện, đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học, tổ chức đời
sống, xây dựng cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu dạy và học của cán bộ, giảng
viên và học viên góp phần xứng đáng vào việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị
của địa phương trong các thời kỳ cách mạng.
b, Nhiệm vụ:
Trường chính trị tỉnh Tuyên Quang có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
lãnh đạo quản lý của Đảng, chính quyền đoàn thể nhân dân cấp cơ sở, trưởng,
phó phòng, ban, ngành đoàn thể cấp huyện và tương đương, trưởng, phó phòng
của sở, ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh và tương đương, cán bộ dự nguồn các
21


chức danh nói trên, cán bộ công chức cấp cơ sở và 1 số đối tượng khác về chủ
nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, chính sách pháp luật nhà nước và một số lĩnh vực khác được tỉnh giao.
Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức kỹ năng lãnh đạo chuyên môn nghiệp
vụ cho các chức danh lãnh đạo, quản lý, cán bộ chuyên môn nhiệm vụ của các
tổ chức Đảng, chính quyền đoàn thể nhân dân cấp cơ sở.
Bồi dưỡng cập nhật kiến thức cho Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã,
huyện. Phối hợp với Ban tuyên giáo tỉnh uỷ hướng dẫn và bồi dưỡng nghiệp vụ,
phương pháp giảng dạy cho đội ngũ giảng viên của Trung tâm bồi dưỡng chính
trị cấp huyện, thị trong tỉnh.
Tổ chức nghiên cứu thực tế, nghiên cứu khoa học phục vụ giảng dạy,
học tập và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn ở địa phương cơ sở, mở các lớp đào
tạo bồi dưỡng theo chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh.
3. Hoạt động chung của trường:
Trường Chính trị Tỉnh Tuyên Quang đã có những hoạt động và mục tiêu
nổi bật như:
+ Quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng về công tác

cán bộ, thực hiện nghiêm túc các Chỉ thị, Nghị quyết của Tỉnh ủy, chức năng,
nhiệm vụ của nhà trường. Trên cơ sở đó, chủ động xây dựng chương trình kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phù hợp với hoàn cảnh địa phương trong mỗi
thời kỳ.
+ Luôn coi trọng đến chất lượng cán bộ và công tác quy hoạch cán bộ,
trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý và đội ngũ giảng viên. Xây dựng lập
trường quan điểm chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng;
nghiêm chỉnh chấp hành các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, tự học, tự rèn, tích cực
22


nghiên cứu khoa học, yêu ngành, yêu nghề, có vốn sống thực tế. Không ngừng
nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, nêu cao tư cách và
vị thế của người giảng viên và công nhân viên chức nhà trường, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong các thời kỳ cách mạng địa phương.
+ Quan tâm xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy, phát huy sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể trong nhà
trường, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị trọng tâm là giảng dạy, nghiên cứu
khoa học, công tác khoa học và phục vụ các lớp học. Chú trọng việc sơ kết,
tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, không ngừng đổi mới và đa dạng hóa nội dung,
chương trình, hình thức đào tạo, phương pháp dạy học, đáp ứng nhu cầu đào
tạo, bồi dưỡng của các đối tượng cán bộ.
+ Chú trọng việc xây dựng cơ sở vật chất nhà trường phục vụ tốt cho
công tác giảng dạy, kết hợp chặt chẽ giữa học với hành; thường xuyên quan tâm
đến đời sống cán bộ giảng viên, công nhân viên, học viên nhà trường.
Nhân sự phân công kiến tập của Học viện Báo chí và Tuyên truyền về
trường Chính trị Tỉnh Tuyên Quang, em được phân công vào khoa Xây Dựng
Đảng. Em được biết khoa Xây Dựng Đảng là khoa chuyên trách đảm nhiệm

công tác giảng dạy các môn: Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam và lý luận cơ bản
về đảng cộng sản; Một số quan điểm, đường lối, chính sách của đảng và nhà
nước về kinh tế văn hoá và đối ngoại; Quốc phòng an ninh; Nghiệp vụ công tác
đảng cấp cơ sở; Tình hình nhiệm vụ địa phương. Khoa Xây Dựng Đảng gồm có
8 giảng viên, trong đó :
Thầy Nguyễn Kim Tuyến – Phó Khoa Xây Dựng Đảng.
Bên cạnh đó còn có các thầy cô giảng dạy các bộ môn lý luận.
Các thầy cô trong khoa giỏi về chuyên môn, đa dạng về phương pháp
23


giảng dạy và nhiệt huyết với nghề, đã giúp em dễ dàng tiếp cận với một môi
trường giảng dạy khoa học, hỗ trợ rất nhiều cho công việc của em sau này.
III. NỘI DUNG KIẾN TẬP.
Dự giờ giảng.
Dự giờ giảng tại lớp trung cấp lý luận chính trị - hành chính hệ tập trung k64 .
Tổng số học viên là 60 đồng chí. Độ tuổi từ 25- 45. Bao gồm các dân tộc :
Kinh, Tày, Cao Lan, Dao....
Đối tượng học viên: 100% là đảng viên
Là cán bộ lãnh đạo quản lý của Đảng, chính quyền đoàn thể nhân dân cấp
cơ sở, trưởng, phó phòng, ban, ngành đoàn thể cấp huyện và tương đương,
trưởng, phó phòng của sở, ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh và tương đương.
Cụ thể nội dung dự giờ giảng như dưới đây:
Thời

Tên

Bài Nội Dung Bài Giảng

gian

Sáng

Giảng
Xây dựng

24/04/20

Đảng.

12

Bài1: Học triển học thuyết Mác- Lênin về pháp

I. Khái quát quá trình ra đời, phát

(từ 7h30 thuyết
-

Đảng cộng sản.

11h Mác

(nghe

Lênin

Phương Pháp Giảng

Sử dụng phương
thuyết


trình

(chủ yếu là dùng lời

- Mác và Ăngghen là những người nói để trình bày),
về đầu tiên xây dựng tư tưởng về đảng giảng

giải

những

sinh viên Đảng

cộng sản và trực tiếp áp dụng vào vấn đề có trong bài

thực tập cộng sản.

công tác xây dựng đảng. Tư tưởng giảng và liên hệ thực

giảng)

về đảng cộng sản được hình thành tiễn rất phong phú.
cùng với quá trình phát triển, hoàn phương pháp thuyết
thiện tư tưởng quan điểm duy vật trình

rất

thuyết


lịch sử về chủ nghĩa cộng sản và sứ phục, thu hút đối với
24


mệnh toàn thế giới của giai cấp người nghe.
công nhân.
2. Lênin kế thừa và phát triển tư
tưởng của Mác và Ăngghen về
đảng cộng sản trong điều kiện chủ
nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn
chủ nghĩa đế quốc
a. Lênin kịch liệt phê phán các
đảng của Quốc Tế II trong thời kỳ
từ sau khi Ăngghen qua đời.
b. Lênin kế thừa và phát triển
những tư tưởng về Đảng cộng sản
của Mác và Ăngghen.
Chủ nghĩa
Sáng



hội

26/04/20

khoa học

12


Bài 3:

(từ 7h30 Chế
– 11h)

độ

dân

chủ

xã hội chủ
nghĩa



nhà nước
xã hội chủ
nghĩa
(

Giảng

viên

Đỗ

Cao
Quang)
25



×