Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Đảng bộ tỉnh thái nguyên lãnh đạo công tác thanh niên từ năm 2010 đến năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.52 KB, 115 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

DƯƠNG MẠNH HÀ

ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN
LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC THANH NIÊN
TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2019

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Thái Nguyên, năm 2020


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

DƯƠNG MẠNH HÀ

ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN
LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC THANH NIÊN
TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2019
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 8229015

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Hằng Nga


Thái Nguyên, năm 2020


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

7

5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

7

6. Đóng góp của luận văn


8

7. Kết cấu của luận văn

8

Chương 1: ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO CÔNG

9

TÁC THANH NIÊN TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2015
1.1. Một số vấn đề lý luận về thanh niên và công tác thanh niên

9

1.1.1. Thanh niên

9

1.1.2. Công tác thanh niên

14

1.2. Những yếu tố tác động đến công tác thanh niên tỉnh

15

Thái Nguyên
1.2.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên


15

1.2.2. Tình hình thanh niên tỉnh Thái Nguyên

19

1.2.3. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo công tác thanh niên trước

21

năm 2010
1.3. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên về công tác thanh

28

niên từ năm 2010 đến năm 2015
1.4. Quá trình chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên và một số kết

36

quả đạt được trong công tác thanh niên từ năm 2010 đến năm 2015
1.4.1. Quá trình chỉ đạo thực hiện

36

1.4.2. Một số kết quả đạt được

42

Tiểu kết chương 1


49

Chương 2: ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO ĐẨY

51

MẠNH CÔNG TÁC THANH NIÊN TỪ NĂM 2015 ĐẾN NĂM 2019
2.1. Yêu cầu mới đối với công tác thanh niên tỉnh Thái Nguyên và

51

chủ trương của Đảng bộ tỉnh
2.1.1. Yêu cầu mới đối với công tác thanh niên tỉnh Thái Nguyên

51


2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên về công tác thanh niên
từ năm 2015 đến năm 2019

58

2.2. Quá trình chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên và một số kết
quả đạt được trong công tác thanh niên từ năm 2015 đến năm 2019

63

2.2.1. Quá trình chỉ đạo thực hiện


63

2.2.2. Một số kết quả đạt được

66

Tiểu kết chương 2

76

Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT, KINH NGHIỆM VÀ GIẢI

78

PHÁP 3.1. Một số nhận xét

78

3.1.1. Ưu điểm

78

3.1.2. Hạn chế

82

3.2. Một số kinh nghiệm

84


3.3. Khuyến nghị một số nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới

88

3.3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với công tác thanh
niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

88

3.3.2. Chính sách đối với thanh niên

90

3.3.3. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ
làm quản lý nhà nước về công tác thanh niên

93

3.3.4. Nâng cao chất lượng tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, phát huy
vai trò xung kích, tình nguyện trong thanh niên

96

Tiểu kết chương 3

98

KẾT LUẬN

10

0

TÀI LIỆU THAM KHẢO

103


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Nội dung

ĐCS

Đảng Cộng sản

ĐVTN

Đoàn viên, thanh niên

TNCS

Thanh niên Cộng sản

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

CNXH


Chủ nghĩa xã hội

CNH, HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

BCH

Ban Chấp hành

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

CT

Chỉ thị

NQ

Nghị quyết

C.Tr

Chương trình

KH

Kế hoạch


ĐA

Đề án

GDP

Thu nhập bình quân trên đầu người

NXB

Nhà xuất bản

KHKT

Khoa học kỹ thuật

NCKH

Nghiên cứu khoa học

QLNN

Quản lý Nhà nước


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao vai
trò, vị trí của thanh niên, xác định thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng.

Các thế hệ thanh niên Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn thử thách, không
ngại hy sinh gian khổ lập nên những chiến công hiển hách, viết nên những trang
sử vàng chói lọi, tô đẹp truyền thống hào hùng của dân tộc Việt Nam. Trong
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
thanh niên vẫn là lực lượng xung kích, tình nguyện mang trí tuệ và sức trẻ cống
hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, là lực lượng chủ đạo
thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, Đảng và
Nhà nước ta luôn coi trọng việc tổ chức, phát huy vai trò của lực lượng thanh
niên, đề ra nhiều chủ trương, chính sách, cơ chế để phát huy tính xung kích, sức
sáng tạo và tiềm năng to lớn của thanh niên trong phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò của thanh niên trong sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Tháng 01/1946,
trong thư gửi thanh niên toàn quốc, Người đã viết: “Một năm khởi đầu từ mùa
xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” [60, tr. 69].
Nhìn nhận vai trò, khả năng cống hiến to lớn của thanh niên trong tiến trình cách
mạng, Người luôn động viên, khích lệ kịp thời làm cho thanh niên thêm phấn
khởi, tự tin, rèn luyện phấn đấu. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn coi công tác thanh niên là một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược nhằm
phát huy vai trò làm chủ, tiềm năng to lớn của thanh niên trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương Đảng
khoá VII khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước
bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không,
cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường XHCN hay không, phần lớn
là tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng rèn luyện thế hệ
thanh niên. Công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong
những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng” [17, tr. 2].
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đạt được
nhiều thắng lợi to lớn, tạo ra những tiền đề cần thiết để đưa đất nước chuyển
sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH với sự phát triển mạnh mẽ của

nền kinh tế tri thức. Trong những thắng lợi đó có sự đóng góp không nhỏ của
thanh niên. Thanh niên chính là lực lượng xung kích cách mạng, là nguồn nhân


2

lực quyết định thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH. Tuy nhiên, những biến đổi
của tình hình trong nước và quốc tế tác động mạnh mẽ đến cơ cấu xã hội, địa vị
kinh tế, học vấn, tư tưởng, tâm lý, lối sống của thanh niên. Vì vậy, công tác
thanh niên hiện nay đang đặt ra những vấn đề mới, đòi hỏi phải tiếp tục có
những chủ trương và giải pháp hợp lý, kịp thời nhằm đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Yêu cầu thực tiễn của sự nghiệp cách mạng đòi hỏi Đảng không ngừng
đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác thanh niên. Đây là vấn đề
vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn sâu sắc, đáp ứng yêu cầu cấp bách
trong giai đoạn hiện nay. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về công
tác thanh niên, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã có nhiều cố gắng trong lãnh đạo
công tác thanh niên, động viên thu hút đông đảo thanh niên tham gia sự nghiệp
cách mạng, tạo môi trường kinh tế - văn hóa - xã hội lành mạnh, văn minh cho
thanh niên rèn luyện, cống hiến và trưởng thành, góp phần xây dựng quê hương
Thái Nguyên ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Tuy nhiên, công tác thanh niên trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên vẫn còn bộc
lộ một số tồn tại, yếu kém, chưa đáp ứng được ở mức cao yêu cầu của giai đoạn
cách mạng mới. Vì vậy, nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên
đối với công tác thanh niên trong giai đoạn 2010 - 2019, từ đó rút ra những kinh
nghiệm, gợi mở một số suy nghĩ có thể vận dụng vào thực tiễn lãnh đạo công tác
thanh niên ở tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay, góp phần hình thành thế
hệ thanh niên tương lai “vừa hồng, vừa chuyên” đáp ứng yêu cầu phát triển của
thời kỳ mới là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn và khoa học sâu sắc.
Xuất phát từ ý nghĩa trên, tôi chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh

đạo công tác thanh niên từ năm 2010 đến năm 2019” làm luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Công tác thanh niên là một bộ phận quan trọng trong công tác vận động
quần chúng của Đảng. Do vậy, vấn đề sự lãnh đạo của Đảng với công tác thanh
niên đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu.
2.1. Các công trình nghiên cứu về vấn đề Đảng lãnh đạo công tác thanh niên
Các công trình thuộc nhóm này có số lượng khá lớn, thuộc nhiều thể loại
khác nhau: Sách chuyên khảo, báo cáo khoa học tại hội thảo, bài nghiên cứu,
luận án, luận văn. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như sau:


3

Ở thể loại sách, cuốn "Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác vận động
thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước" của
tác giả Nguyễn Văn Hùng (chủ biên) đã trình bày khái quát về vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác vận động thanh niên - những chủ
nhân tương lai của đất nước [56].
Cuốn “Giáo dục rèn luyện thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam” của Nguyễn Hữu Đức và các cộng sự
trình bày xoay quanh 3 nội dung cơ bản: Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt
Nam với thanh niên và công tác thanh niên; Một số gương tuổi trẻ tiêu biểu
trong lịch sử Việt Nam và Thanh niên thời đại Hồ Chí Minh [54].
Cuốn “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác thanh niên trong giai
đoạn hiện nay” do tác giả Lâm Quốc Tuấn - Phạm Tất Thắng đồng chủ biên đã
làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác
thanh niên giai đoạn hiện nay; thực trạng Đảng lãnh đạo công tác thanh niên,
những ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm; từ đó, đề xuất
phương hướng và những giải pháp chủ yếu để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

đối với công tác thanh niên trong giai đoạn hiện nay [92].
Cùng với các sách nghiên cứu được xuất bản, nhiều hội thảo khoa học về
công tác thanh niên đã được tổ chức. Năm 2006, hội thảo khoa học Phát huy vai
trò của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng đất nước tổ chức tại Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh đã thu hút sự quan
tâm của nhiều nhà khoa học, sinh viên, học sinh. Nhiều báo cáo khoa học được
trình bày tại hội thảo cho thấy phải tăng cường giáo dục cho giới trẻ trách nhiệm
xây dựng đất nước ngay ở "thì hiện tại". Chúng ta đang có những lớp trẻ dám
nghĩ, biết hành động để làm cho đất nước ngày càng tốt đẹp hơn, nhưng số này
chưa nhiều. Thực tế, không ít các bạn trẻ đang thờ ơ với vận mệnh của đất nước.
Số người này sẽ làm gì khi trọng trách quốc gia dân tộc đặt lên vai họ? Hội thảo
đi đến thống nhất quan điểm: Đất nước đang đặt niềm tin vào thế hệ trẻ, thanh
niên cần khẳng định vai trò của mình, phát huy hết tiềm năng sẵn có, để xây
dựng đất nước ngày càng giàu mạnh và phát triển bền vững.
Ở thể loại công bố báo chí, nhiều bài nghiên cứu về về vấn đề Đảng lãnh
đạo công tác thanh niên được đăng tải trên tạp chí Cộng sản, tạp chí Quản lý
Nhà nước, tạp chí Tổ chức Nhà nước, …, như: “Công tác thanh niên trong tiến
trình hội nhập” của Nguyễn Văn Trung; “Một số kiến nghị về việc kiện toàn tổ
chức bộ máy quản lý Nhà nước về công tác thanh niên đáp ứng yêu cầu giai
đoạn cách mạng mới” của Vũ Đăng Minh; “Quản lý Nhà nước về công tác
thanh niên” của Nguyễn Thị Thùy Linh; “Công tác thanh niên trong giai đoạn


4

mới - Nhìn từ góc độ quản lý Nhà nước” của Nguyễn Hải Anh; “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên theo tinh thần Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XII” của Nguyễn Thái Sơn;...
Bài viết “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của tác giả Trương Tấn

Sang đã nêu lên vị trí, tầm quan trọng của thanh niên và công tác thanh niên
trong hơn 20 năm đổi mới. Tác giả cho rằng: Thực tế vẫn còn một bộ phận thanh
niên sống thiếu lý tưởng, giảm sút niềm tin và ít quan tâm đến tình hình đất
nước, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, dễ bị kích động, lôi kéo tham gia các
hoạt động trái pháp luật; sống thực dụng, quá coi trọng vật chất, thiếu kính trọng
người lớn tuổi, ít quan tâm tới gia đình. Một bộ phận thanh niên nông thôn,
thanh niên dân tộc thiểu số có trình độ học vấn thấp; thiếu kiến thức, kỹ năng
trong lao động và hội nhập quốc tế. Tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội trong
thanh niên, đặc biệt là tệ nạn ma túy, mại dâm có chiều hướng gia tăng. Tác giả
chỉ ra những nguyên nhân chủ quan và khách quan của những tồn tại, hạn chế
đó. Trên cơ sở phân tích thực tiễn, tác giả đã đưa ra năm quan điểm chỉ đạo
xuyên suốt và chín nhóm nhiệm vụ, giải pháp nhằm lãnh đạo phong trào thanh
niên trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế [72].
Bài viết “Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với 10 năm thực hiện
Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về công
tác thanh niên” của Lê Quốc Phong đã đánh giá: Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
các cấp bộ Đoàn toàn quốc đã đạt được những kết quả quan trọng trên các mặt
công tác, công tác thanh niên được quan tâm trên mọi lĩnh vực, từ đó đã phát
huy vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [69].
Ngoài ra, vấn đề Đảng lãnh đạo công tác thanh niên còn là đề tài nghiên
cứu của nhiều luận án, luận văn, trong đó những luận án, luận văn nghiên cứu
theo từng địa bàn cụ thể chiếm số lượng lớn. Có thể kể đến: Luận văn "Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay"
của tác giả Nguyễn Thọ Ánh; “Tỉnh ủy Bến Tre lãnh đạo công tác thanh niên
trong giai đoạn hiện nay” của Phạm Hùng Minh; “Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh
đạo công tác thanh niên từ năm 1998 đến 2011” của Nguyễn Công Oanh;
“Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lãnh đạo công tác thanh niên từ năm 2000 đến
năm 2010” của Trần Thị Mai Thu; “Đổi mới phương thức lãnh đạo của các
Tỉnh ủy vùng Bắc Trung Bộ đối với công tác thanh niên giai đoạn hiện nay” của

Lê Thị Hà; “Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lãnh đạo công tác thanh niên từ năm 2006
đến năm 2016” của Hà Thọ Tiến; v.v..


5

2.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề Đảng lãnh đạo công
tác thanh niên tỉnh Thái Nguyên
Vấn đề công tác thanh niên tỉnh Thái Nguyên và Đảng lãnh đạo công tác
thanh niên tỉnh Thái Nguyên đã được đề cập với những mức độ khác nhau ở một
số công trình.
Cuốn “Lịch sử Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào
thanh niên tỉnh Thái Nguyên (1938 - 2012)” do Tỉnh đoàn Thái Nguyên khóa
XII tổ chức biên soạn và xuất bản đã dựng lại một cách khách quan, trung thực
chặng đường hơn 70 năm xây dựng và trưởng thành của Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh và phong trào thanh niên tỉnh Thái Nguyên từ năm 1938 đến năm 2012.
Cuốn sách tổng kết những thành tựu mà các thế hệ đoàn viên thanh niên tỉnh
Thái Nguyên đã đạt được qua các giai đoạn lịch sử cụ thể. Trên cơ sở đó, bước
đầu rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác tổ chức quản lý và chỉ đạo
thực hiện của Ban Chấp hành Tỉnh đoàn. Cuốn sách cũng dự báo tình hình thanh
niên tỉnh Thái Nguyên và chỉ ra những giải pháp nhằm đưa phong trào thanh
niên tỉnh Thái Nguyên tiếp tục phát triển [47].
Luận văn Thạc sĩ “Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo phong trào thanh
niên từ năm 1997 đến năm 2013” của Vũ Văn Lương bảo vệ tại Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã nghiên cứu quá
trình Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên quán triệt và vận dụng đường lối, chủ trương
của Trung ương Đảng để lãnh đạo phong trào thanh niên từ năm 1997 đến năm
2013; đánh giá những kết quả đã đạt được và những hạn chế, yếu kém; từ đó rút
ra những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo phong trào thanh niên của các cấp
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên nhằm đẩy mạnh phong trào thanh niên của tỉnh. Tuy

nhiên, công trình nghiên cứu trên mới chỉ đề cấp đến quá trình cụ thể hóa các
chủ trương của Đảng vào quá trình lãnh đạo phong trào thanh niên nói chung,
hoạt động công tác Đoàn, Hội và phong trào thanh niên nói riêng chứ chưa đề
cập một cách cụ thể, chi tiết tới các hoạt động của công tác thanh niên trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh. Đặc biệt là việc cụ thể
hóa chủ trương của Đảng bộ tỉnh đối với công tác thanh niên với sự vào cuộc
của cả hệ thống chính trị, được thể hiện ở các điểm cơ bản sau:
Một là: Việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật đối với thanh niên như: Thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên tỉnh
Thái Nguyên; Việc tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống lý
tưởng đạo đức và lối sống, pháp luật cho thanh niên; Tạo điều kiện thuận lợi cho
thanh niên học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; Công tác
đào tạo nghề, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh


6

niên; Tạo điều kiện cho thanh niên nâng cao thể chất và đời sống văn hoá tinh
thần; Công tác chăm lo, phát triển và phát huy tài năng trong thanh niên, chú
trọng bố trí và sử dụng cán bộ trẻ có năng lực trên các lĩnh vực; Phát huy vai trò
của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và toàn xã hội trong việc chăm lo
giáo dục, đào tạo và phát triển thanh niên; Quản lý và thực hiện các hoạt động
đối ngoại về thanh niên…
Hai là: Việc xây dựng tổ chức bộ máy thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước về công tác thanh niên; đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và quản lý đội ngũ
cán bộ, công chức thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về công tác thanh niên
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên nhằm đưa chủ trương của Đảng bộ tỉnh vào quá
trình thực thi lãnh đạo công tác thanh niên.
Như vậy, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề Đảng
lãnh đạo công tác thanh niên trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Tuy nhiên, với giới

hạn thời gian nghiên cứu từ năm 2010 đến năm 2019, vấn đề Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên lãnh đạo công tác thanh niên vẫn chưa được làm sáng tỏ một cách hệ
thống ở một công trình riêng biệt. Vì vậy, trên cơ sở xử lý những tư liệu mới,
khai thác những tài liệu, tham khảo và kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác
giả đi trước, luận văn “Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo công tác thanh niên
từ năm 2010 đến năm 2019” là công trình đầu tiên nghiên cứu về đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo công tác
thanh niên, nêu lên những thành tựu chủ yếu, chỉ ra những hạn chế và bước đầu
đúc rút một số kinh nghiệm trong lãnh đạo công tác thanh niên trên địa bàn tỉnh
từ năm 2010 đến năm 2019.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Sưu tầm, tập hợp các tài liệu liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến công
tác thanh niên tỉnh Thái Nguyên từ năm 2010 đến năm 2019, đồng thời khai thác
triệt để các thông tin lịch sử có trong các tài liệu này để phục vụ cho đề tài
nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề Đảng lãnh đạo công tác
thanh niên.
- Hệ thống hóa các chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong lãnh
đạo công tác thanh niên từ năm 2010 đến năm 2019.
- Nghiên cứu biện pháp chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên,
những kết quả đạt được trong công tác thanh niên từ năm 2010 đến năm 2019.


7

- Phân tích những ưu điểm và hạn chế của quá trình trên, chỉ ra những
nguyên nhân, đồng thời đúc rút những kinh nghiệm, giải pháp hiệu quả lãnh đạo
công tác thanh niên của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên đối với công tác thanh niên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả tập trung nghiên
cứu và trình bày về quá trình Đảng lãnh đạo công tác thanh niên về mọi mặt và
trực tiếp lãnh đạo Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, xây dựng tổ chức Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh tỉnh Thái Nguyên vững mạnh là nội dung quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trước một bước; Sự vào cuộc của cả hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với công tác thanh niên đặc biệt
là việc cụ thể hóa chủ trương của Đảng bộ tỉnh vào công tác quản lý Nhà nước
về công tác thanh niên trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên; Hệ thống hóa kết quả đạt
được về công tác thanh niên trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên dưới sự lãnh đạo của
Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh.
- Về không gian: Nghiên cứu vấn đề Đảng lãnh đạo công tác thanh niên ở
tỉnh Thái Nguyên (gồm 2 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện).
- Về thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2019, qua 2 nhiệm kỳ Đại hội của Đảng
bộ tỉnh Thái Nguyên, các khóa XVIII (2010 - 2015) và khóa XIX (2015 - 2020).

5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu chủ yếu là các văn kiện của BCH Trung ương Đảng; Các
văn bản của Nhà nước; Các nghị quyết, đề án, chương trình, kế hoạch, báo cáo
tổng kết của Đảng bộ, UBND tỉnh Thái Nguyên; Các văn bản của Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh tỉnh Thái Nguyên, Ủy ban Hội LHTN tỉnh Thái Nguyên và các số
liệu khảo sát ở tỉnh Thái Nguyên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic là chủ yếu.
Phương pháp lịch sử được sử dụng để tái hiện lại quá trình Đảng bộ tỉnh đưa ra
các Chủ trương, Nghị quyết, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể; phục dựng lại

quá trình lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác thanh niên trên địa bàn tỉnh Thái


8

Nguyên từ năm 2010 đến năm 2019 với những kết quả quan trọng trên các mặt
công tác. Phương pháp logic được sử dụng để đưa ra đánh giá, nhận xét quá
trình Đảng bộ tỉnh lãnh đạo công tác thanh niên qua từng giai đoạn, từ đó rút ra
những kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo công tác thanh niên những năm tiếp
theo của Đảng bộ tỉnh.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như: Phương
pháp thống kê, so sánh, tổng hợp, khảo sát... nhằm làm rõ thực tiễn lãnh đạo
công tác thanh niên của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên những năm 2010 - 2019.
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ những đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên tác động
đến quá trình lãnh đạo công tác thanh niên của Đảng bộ tỉnh.
- Hệ thống hoá nguồn tư liệu về công tác thanh niên của Đảng bộ tỉnh
Thái Nguyên.
- Phân tích chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đối với
công tác thanh niên và làm rõ vai trò của các cấp ủy đảng tỉnh Thái Nguyên
trong lãnh đạo công tác thanh niên (2010 - 2019).
- Khẳng định thành tựu, hạn chế trong lãnh đạo công tác thanh niên của
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên từ năm 2010 đến năm 2019, từ đó đúc kết một số
kinh nghiệm, giải pháp từ thực tiễn.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp thêm luận cứ khoa học và gợi
mở một số suy nghĩ có thể vận dụng vào thực tiễn lãnh đạo công tác thanh niên
ở tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn được chia làm ba chương.

Chương 1: Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo công tác thanh niên từ
năm 2010 đến năm 2015.
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo đẩy mạnh công tác thanh
niên từ năm 2015 đến năm 2019.
Chương 3: Một số nhận xét, kinh nghiệm và giải pháp.


9
Chương 1
ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
THANH NIÊN TỪ NĂM 2010 ĐẾN NĂM 2015
1.1. Một số vấn đề lý luận về thanh niên và công tác thanh niên
1.1.1. Thanh niên
Thanh niên là một khái niệm được sử dụng phổ biến với nhiều cách hiểu
khác nhau. Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, là nguồn lực thúc đẩy sự phát
triển xã hội hiện tại và là người chủ tương lai của đất nước. Tùy theo nội dung
tiếp cận, góc độ nhìn nhận hoặc cấp độ đánh giá mà người ta đưa ra những định
nghĩa khác nhau về thanh niên.
Về mặt sinh học, các nhà nghiên cứu coi thanh niên là một giai đoạn xác
định trong quá trình tiến hóa của cơ thể.
Dưới góc độ xã hội học, các nhà nghiên cứu thường nhìn nhận thanh niên
là một giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi thơ phụ thuộc sang hoạt động độc lập và có
trách nhiệm công dân. Dưới góc độ nghiên cứu này, người ta tập trung chú ý vào
vai trò xã hội, vào sự hình thành những định hướng giá trị, vào những vấn đề có
liên quan tới việc chuẩn bị cho thanh niên bước vào cuộc sống và lao động.
Các nhà kinh tế chính trị học mácxít xem thanh niên là một lực lượng lao
động xã hội hùng hậu, là nguồn lực thường xuyên bổ sung cho đội ngũ những
người lao động trên các lĩnh vực sản xuất. Họ coi thanh niên là một bộ phận
quan trọng trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất và là một chủ thể của
các quan hệ xã hội.

Với các triết gia, văn nghệ sỹ, thanh niên lại được định nghĩa bằng cách so
sánh hình tượng “thanh niên là mùa xuân của nhân loại” là “bình minh của
cuộc đời”…
Tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, đặc điểm
truyền thống, tuổi thọ bình quân… mà mỗi quốc gia có quy định độ tuổi thanh
niên khác nhau. Hầu hết các nước trên thế giới thống nhất tuổi thanh niên bắt
đầu từ 15 hoặc 16, còn kết thúc ở tuổi nào thì có sự khác biệt. Có nước quy định
là 25 tuổi, có nước quy định là 30 tuổi và cũng có nước quy định là 40 tuổi.
Nhưng xu hướng chung là nâng dần giới hạn kết thúc của tuổi thanh niên.
Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại vấn đề thanh niên đã
được tất cả các quốc gia, dân tộc coi là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Trong


10

kho tàng trí thức của loài người, nhiều tư tưởng, quan điểm của các nhà khoa
học, nhà sư phạm, các danh nhân văn hoá đã đề cập đến vấn đề thanh niên.
Trong kho tàng trí thức chung đó, học thuyết Mác - Lênin đã nêu nên những
quan điểm lý luận khoa học về vấn đề này. Một trong những học thuyết vĩ đại
nhất của C.Mác là học thuyết về: "Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô
sản hiện đại", một giai cấp tiêu biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất luôn
phát triển cùng với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. Theo C.Mác giai cấp vô
sản chỉ được hình thành với tư cách là một giai cấp khi ý thức được địa vị và
tương lai của nó. "Những công nhân tiên tiến nhất, hoàn toàn hiểu rõ rằng,
tương lai của giai cấp công nhân và do đó tương lai của nhân loại hoàn toàn
phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên", chính C.Mác đã
gọi thanh niên là cội nguồn sự sống của dân tộc và của giai cấp công nhân, là bộ
xương của mỗi cơ thể dân tộc [14, tr. 7-8].
Ph.Ăngghen luôn gắn thanh niên với giai cấp công nhân và đội tiên phong
chiến đấu của nó. Ph.Ăngghen là người đầu tiên đưa ra các quan niệm như: "Đội

quân xung kích", "Quyết định của đông đảo quân vô sản quốc tế",“Đội hậu bị
của Đảng" để nói về thanh niên. Vào năm 1853, Ph.Ăngghen đã viết "Chính thế
hệ trẻ sẽ là nguồn lực bổ sung dồi dào nhất cho Đảng” [14, tr. 10].
Phát triển sáng tạo những luận điểm của Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện
lịch sử mới, V.I.Lênin đã coi thanh niên là “nguồn sinh lực chiến đấu của cách
mạng”. Ông đã luận giải những nguyên nhân làm xuất hiện phong trào thanh niên,
phát hiện ra những đặc điểm của nó và xác định mối quan hệ, sự tác động qua lại
giữa các tổ chức thanh niên với các Đảng Cộng sản. Đánh giá cao tiềm năng sáng
tạo của tuổi trẻ, V.I.Lênin khẳng định: "Chúng ta không giây phút nào được nghi
ngờ về khả năng hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ cách mạng của thế hệ trẻ mà
các thế hệ đi trước chưa kịp hoàn thành... Các thế hệ tương lai nhất định sẽ tiếp
tục cuộc đấu tranh để giải phóng nhân loại dưới ngọn cờ chiến đấu của cách mạng
xã hội khoa học" [103, tr. 195]. V.I.Lênin đã sớm nhận thấy vai trò cách mạng to
lớn của thanh niên. Lênin cho rằng thành công của phong trào thanh niên chính là ở
chỗ biết gắn liền nhận thức lý luận của chủ nghĩa C.Mác, tri thức khoa học với sự
tham gia trực tiếp của họ vào cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp vô sản. V.I.Lênin
viết: "Chúng ta mãi mãi là Đảng của thanh niên, của giai cấp tiên phong" và
"Chúng ta đang đấu tranh tốt hơn ông cha chúng ta, con cháu sẽ đấu tranh còn tốt
hơn chúng ta nhiều và chúng ta sẽ chiến thắng". V.I.Lênin còn chỉ rõ "Ai nắm được
thanh niên, người đó sẽ làm chủ được thế giới


11

và theo một nghĩa nào đó có thể nói rằng nhiệm vụ thật sự xây dựng một xã hội
Cộng sản cách mạng chính là của thanh niên” [104, tr. 354].
Từ góc độ pháp luật, Điều 01, Luật Thanh niên năm 2005 đã chỉ rõ:
“Thanh niên quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi
đến ba mươi tuổi” [71, tr. 1]. Đây là thời kỳ sung sức nhất của mỗi con người về
thể chất, có sự phát triển mạnh về trí tuệ, nhạy bén, năng động, sáng tạo, có

nhiều ước mơ, hoài bão. Thanh niên nước ta là một tầng lớp xã hội rộng lớn,
luôn có những đóng góp quan trọng trong các giai đoạn lịch sử của đất nước.
Theo thống kê năm 2019, thanh niên Việt Nam chiếm 28,9% dân số cả nước và
chiếm 36,4% lực lượng lao động của toàn xã hội, là nguồn nhân lực dồi dào, có
tiềm năng to lớn trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước [90].
Từ góc độ tâm lý học, thanh niên là một độ tuổi, ở giữa lứa tuổi trẻ em và
tuổi trưởng thành. Ở giai đoạn này, sự phát triển về thể chất đạt đến đỉnh cao,
nhưng các yếu tố tâm lý mới được định hình và ổn định một cách tương đối.
Thanh niên có sự khác biệt lớn về nhiều mặt (tuổi, nơi sinh sống, nghề
nghiệp…), do đó, các đặc điểm tâm lý của thanh niên rất phong phú, đa dạng.
Chúng có một tính chất chung, đó là tính trẻ. Tính trẻ được thể hiện ở sự năng
động, nhiệt huyết, chấp nhận mạo hiểm, giàu mơ ước và hoài bão lớn, thích cái
mới, thích giao lưu, học hỏi và mong muốn có những đóng góp cho xã hội để
khẳng định bản thân.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thanh niên và vai trò của thanh niên:

Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến thế hệ trẻ, coi tuổi trẻ là cái nôi của bản lĩnh cách mạng, những tài
năng khoa học, nghệ thuật. Bác nói: "Một năm mở đầu bằng mùa xuân, cuộc
đời mở đầu bằng tuổi trẻ, tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội... Thanh niên là
người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay
mạnh, phần lớn là do thanh niên, thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng
đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải làm
việc chuẩn bị cho cái tương lai đó" [59, tr. 64]. Và Người còn nhắc nhở:
"Nhiệm vụ của thanh niên là không phải hỏi nước nhà cho mình những gì? mà
phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? mình phải làm như thế nào cho lợi
ích nước nhà nhiều hơn? mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu
chừng nào?" [59, tr. 84]. Một loạt các vấn đề mà người đặt ra cho thanh niên trả
lời và thanh niên chỉ có thể giải đáp bằng chính sự nỗ lực của bản thân mình,
bằng chính kết quả của quá trình học tập và rèn luyện, phấn đấu tu dưỡng mình

thành những người. "Vừa có đức, vừa có tài", "Vừa hồng, vừa chuyên".
Bằng nhiều hình thức, Bác Hồ giáo dục cho thanh niên lòng yêu nước,


12

tinh thần quốc tế vô sản, giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên với quan
điểm "Vì lợi ích trăm năm phải trồng người". Bác luôn khơi dậy những đức tính
tốt đẹp, những khả năng tiềm tàng, khả năng "đào núi và lấp biển" của thanh
niên với khẩu hiệu "Đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên". Người
cũng đã phê phán những thói hư tật xấu của thanh niên như: "bệnh ham chuộng
hình thức, thiếu thực tế, bệnh cá nhân, bệnh anh hùng". Bác nói rõ trách nhiệm
của thanh niên là "Thanh niên có sứ mệnh to lớn thì cũng có trách nhiệm lớn.
Để làm tròn trách nhiệm thanh niên phải nâng cao tinh thần làm chủ tập thể từ
bỏ chủ nghĩa cá nhân, chớ phô trương hình thức, chớ kiêu ngạo tự mãn. Phải
thấm nhuần đạo đức cách mạng tức là học tập lao động, sinh hoạt theo đạo đức
của thanh niên xã hội chủ nghĩa, Cộng sản chủ nghĩa" [61, tr. 93].
Đồng thời Người xác định rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ cho
Đoàn thanh niên qua các thời kỳ cách mạng, Người viết: "Đoàn thanh niên lao
động phải là cánh tay đắc lực của Đảng trong việc tổ chức giáo dục thế hệ
thanh niên và nhi đồng thành những chiến sĩ tuyệt đối trung thành với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản" [63, tr. 248].
Niềm tin của Bác và của Đảng đối với thế hệ trẻ thể hiện trong nhiều
chính sách đào tạo, bồi dưỡng và phát huy sức mạnh vật chất, tinh thần của
thanh niên, làm cho thanh niên gắn bó với Đảng và chế độ. Thực tiễn cho thấy,
quan điểm biện chứng trong việc nhìn nhận, đánh giá thanh niên của Bác Hồ làm
cho thanh niên tự tin hơn, đồng thời lại thấy rõ yêu cầu phải phấn đấu, rèn luyện
để trưởng thành.
Đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, nhà trường, gia đình phải

chăm lo "trồng người". Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên quan điểm nổi tiếng là:
"Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người". Trong bản Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành một phần
nói về vai trò của thanh niên và công tác thanh niên. Người đã dành cho thế hệ
trẻ Việt Nam sự giáo dục ân cần, tình thương yêu sâu sắc và sự quan tâm đặc
biệt. Người đánh giá: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều
hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ”. Đồng thời, Bác đã
căn dặn: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo
họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa
“chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng
và rất cần thiết” [13, tr. 2-3]. Đây chính là sự tổng kết lý luận mà Chủ tịch Hồ


13

Chí Minh rút ra từ lịch sử nhân loại và Việt Nam, từ thực tiễn lãnh đạo công tác
thanh niên của Người qua các thời kỳ cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau là kim chỉ nam để các cấp bộ Đoàn, mỗi cán bộ, đoàn viên vận dụng vào
việc phát động phong trào thi đua yêu nước trong thanh niên.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thanh niên và vai trò của
thanh niên:
Trong tất cả các kỳ Đại hội của Đảng, Đảng đều đánh giá thanh niên, công
tác thanh niên; kiểm điểm công tác Đảng, Nhà nước, các tổ chức quần chúng
nhân dân đối với việc chăm lo, giáo dục thanh niên và xây dựng Đoàn thanh
niên; đề ra phương hướng, nhiệm vụ, chương trình công tác của Đảng về thanh
niên.
Đảng luôn tin tưởng ở thanh niên, luôn quan tâm động viên cổ vũ phong
trào và thường xuyên lãnh đạo Đoàn thanh niên. Nhận thức sâu sắc quan điểm
chủ nghĩa Mác - Lênin và thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đánh

giá rất cao vai trò, vị trí của thế hệ trẻ trong mọi thời kỳ cách mạng. Trong thời
bình, thời kỳ xây dựng CNXH, thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng định hướng chỉ đạo trong công tác thanh niên
là: "Giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên là
một ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Khuyến khích thanh niên hăng
say lập nghiệp, tự tạo việc làm và giúp nhau tạo việc làm. Nhà nước tổ chức và
huy động thanh niên tham gia xây dựng các công trình, các lĩnh vực, các vùng
kinh tế quan trọng; đầu tư ngân sách thích đáng cho các chương trình giải
quyết việc làm. Mở rộng việc cho các gia đình vay vốn để sản xuất kinh doanh.
Sửa đổi, bổ sung những quy định về quản lý lao động và cư trú để thanh niên dễ
dàng tìm việc làm. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Mở rộng mạng lưới dạy nghề
và giới thiệu việc làm cho thanh niên” [17, tr. 2]. Đảng đặt niềm tin to lớn vào
lực lượng thanh niên và phong trào thanh niên trong công cuộc đổi mới, xây
dựng Việt Nam trở thành quốc gia hùng mạnh.
Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 và
những năm sau, Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng chiến lược phát triển con
người, đặt con người vào vị trí trung tâm. Trong chiến lược phát triển nguồn
nhân lực cho thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng tin tưởng ở khả năng
tiềm tàng của thanh niên và coi trọng việc phát triển tiềm năng to lớn của thế hệ
trẻ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc
lần thứ XI đã chỉ rõ: "Khuyến khích, cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước mơ, hoài
bão lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại. Hình


14

thành lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành và xuất sắc sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, góp phần quan trọng vào sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN” [22, tr. 243].

Như vậy, từ những phân tích và cách nhìn nhận trên đây, có thể rút ra kết
luận: Thanh niên là một phạm trù triết học, chỉ một nhóm nhân khẩu xã hội đặc
thù, ở độ tuổi nhất định (từ 16 đến 30 tuổi) có mặt trong tất cả các giai cấp,
tầng lớp xã hội, dân tộc, các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, có những
đặc điểm chung đặc trưng về tâm lý, sinh lý, nhận thức xã hội, có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc trong cả hiện tại và tương
lai. Khác với một số đối tượng xã hội khác, thanh niên cần được hỗ trợ, định
hướng, giáo dục để tự làm chủ bản thân, tham gia quản lý và đóng góp cho xã
hội.
1.1.2. Công tác thanh niên
Công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Vấn đề thanh niên và công tác
thanh niên luôn được Đảng và Nhà nước hết sức coi trọng. Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn đánh giá công tác thanh niên - một bộ phận quan trọng trong công tác
quần chúng của Đảng, bao gồm toàn bộ những hoạt động của Đảng, Nhà nước
và các chủ thể xã hội khác. Trong đó có Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên
hiệp thanh niên Việt Nam và Hội sinh viên Việt Nam. Tham gia vào công tác
thanh niên có nhiều chủ thể: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội. Do vậy, công tác thanh niên là sự tác động tổng hợp của các
chủ thể xã hội vào một đối tượng cụ thể là thanh niên theo những mục tiêu xác
định.
Theo quy định tại khoản 2, Điều 4, Nghị định số 120/2007/NĐ-CP ngày
23/7/2007 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật thanh niên,
thì “Công tác thanh niên là những hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội
nhằm giáo dục, bồi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên phấn đấu và
trưởng thành; đồng thời phát huy vai trò xung kích, sức sáng tạo và tiềm năng
to lớn của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc” [76, tr. 1].
Bản chất và nội dung cơ bản của công tác thanh niên bao gồm một hệ
thống các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; Nghị
quyết, chương trình, kế hoạch của Đoàn Thanh niên và các chủ thể xã hội khác

cùng với các phương thức, giải pháp thực hiện với sự phân công, phân cấp và


15

phối hợp giữa các chủ thể quản lý nhằm tạo ra những tác động tích cực trong
quá trình tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy thanh niên.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định những quan điểm chỉ đạo của Đảng về
công tác thanh niên gồm hai mặt cơ bản, đó là:
Một là, đánh giá khách quan, đúng bản chất cách mạng của thanh niên, tin
tưởng vào thanh niên là những người kế tục xuất sắc sự nghiệp của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên thành lớp người vừa
hồng, vừa chuyên, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Đảng lãnh đạo công tác thanh niên và trực tiếp lãnh đạo tổ chức Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh, xây dựng tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vững mạnh là
nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trước một
bước.
Hai là, Nhà nước quản lý thanh niên và công tác thanh niên; thể chế hóa
đường lối, chủ trương của Đảng về thanh niên và công tác thanh niên thành pháp
luật, chính sách, chiến lược, chương trình hành động và cụ thể hóa trong các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh
của các cấp, các ngành. Coi trọng sự nỗ lực trong học tập, rèn luyện và phấn đấu
của thanh niên theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là yếu tố quan trọng xây
dựng thế hệ thanh niên thời kỳ mới.
1.2. Những yếu tố tác động đến công tác thanh niên tỉnh Thái Nguyên
1.2.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên
1.2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Thái Nguyên là tỉnh thuộc vùng núi, nằm ở phía Đông Bắc của Tổ quốc,
phía Bắc tiếp giáp với tỉnh Bắc Kạn, phía Đông giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Đông
Nam giáp 2 tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh, phía Tây Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang,

phía Tây Nam giáp tỉnh Vĩnh Phúc và phía Nam tiếp giáp với huyện Sóc Sơn
thuộc ngoại thành Hà Nội. Thái Nguyên có địa hình khá đa dạng, bao gồm:
Vùng cao, vùng giữa và vùng thấp.
Thái Nguyên là trung tâm văn hóa - chính trị, kinh tế - xã hội của khu Việt
Bắc nói riêng, của vùng trung du miền núi Đông Bắc nói chung, là cửa ngõ giao
lưu kinh tế - xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Với diện tích tự nhiên 3.562,82 km2, tỉnh Thái Nguyên có có 9 đơn vị hành
chính cấp huyện (6 huyện, 2 thành phố, 1 thị xã), gồm 180 đơn vị hành chính
cấp cơ sở, trong đó có 140 xã, 30 phường, 10 thị trấn [80, tr. 27].


16

Thái Nguyên có tuyến đường nối liền với thủ đô Hà Nội và với các tỉnh
miền núi Đông Bắc Tổ quốc như: Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang,
Hà Giang, Bắc Giang, Bắc Ninh. Đường thủy có sông Cầu bắt nguồn từ tỉnh Bắc
Kạn, chảy qua Thái Nguyên về Bắc Giang, hợp với dòng sông Thương và sông
Lục Nam, tạo nên hệ thống sông Thái Bình. Ngoài ra, tỉnh Thái Nguyên còn có
tuyến đường sắt Hà Nội - Thái Nguyên dài hơn 80km.
Thái Nguyên có nguồn tài nguyên khoáng sản rất phong phú. Rừng có
nhiều lâm thổ quý như: gỗ các loại, tre, nứa, lá, dược liệu chữa bệnh. Đặc biệt,
cây chè Thái Nguyên vừa là đặc sản trong nước vừa có giá trị xuất khẩu lớn.
Thái Nguyên có nhiều mỏ khoáng sản như: Than đá, quặng sắt, quặng thiếc,
kẽm, chì, vàng, quặng barit, quặng pirit. Mỏ Vônfram tại huyện Đại Từ là mỏ đa
kim có trữ lượng khoáng sản lớn tầm cỡ thế giới. Thái Nguyên cũng có một
lượng đá vật liệu xây dựng khổng lồ... Tất cả các tài nguyên quý hiếm ấy đã và
đang được khai thác, phục vụ sự phát triển của Thái Nguyên.
Về cơ cấu đất đai, Thái Nguyên có tổng diện tích canh tác, trồng trọt các
loại là 343,461 ha. Trong đó, đất nông nghiệp chiếm 76.745 ha; đất đồi rừng là
166.453 ha (trong đó diện tích rừng tự nhiên và rừng trồng là 113.453 ha); đất

chuyên dùng là 19.595 ha; diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản là 3.198 ha;
đất chưa sử dụng là 122.637 ha (trong đó đất có khả năng nông nghiệp là 1.824
ha và đất có khả năng lâm nghiệp là 52.882ha).
Với nhiệt độ trung bình hằng năm xấp xỉ 230C, lượng mưa trung bình
hằng năm xấp xỉ 200mm, khí hậu Thái Nguyên tương đối thuận lợi cho việc phát
triển cây trồng, vật nuôi [80, tr. 35-36].
1.2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Thái Nguyên là trung tâm kinh tế - văn hóa - xã hội của vùng Trung du
miền núi Bắc Bộ, là cửa giao lưu kinh tế xã hội giữa vùng Trung du miền núi
Bắc Bộ với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đây là điều kiện để Thái Nguyên phát triển
thành một trong những trung tâm kinh tế - xã hội của vùng theo tinh thần Nghị
quyết số 37/NQ-TW, ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị đã xác định.
Theo niêm giám thống kê năm 2018, tỉnh Thái Nguyên có trên 1,2 triệu
người. Dân số nam giới chiếm 48,6%, dân số nữ giới chiếm 51,4%. Tỷ lệ tăng
dân số tự nhiên là 7,63%. Tuổi thọ trung bình của dân số toàn tỉnh là 73,5 năm,
trong đó nam là 70,9 năm, nữ là 76,3 năm [15].
Trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có 8 dân tộc anh em cùng chung sống, bao
gồm các dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Mông, Sán Dìu, Sán Chay và người


17

Hoa. Người dân tộc thiểu số chiếm 24,76% dân số. Dân số trong độ tuổi lao
động chiếm 69,4%, trong đó có trên 100.000 người là sinh viên chuyên nghiệp,
học sinh học nghề và học sinh phổ thông (chiếm 14,1% dân số trong độ tuổi lao
động của toàn tỉnh) [15].
Thái Nguyên là cái nôi, cánh chim đầu đàn trong ngành công nghiệp nặng
với trung tâm là Khu liên hiệp Gang thép được thành lập từ năm 1963. Tính đến
năm 2019, Thái Nguyên là tỉnh có nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp lớn của
Trung ương bao gồm: Khu công nghiệp Yên Bình, khu công nghiệp Gang Thép,

nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn, công ty xi măng Quang Sơn, nhà máy cơ khí
Sông Công, Phổ Yên, công nghiệp khai thác mỏ, sản xuất vật liệu xây dựng;
công nghiệp chế biến gia công, các nhà máy quốc phòng...
Tỉnh Thái Nguyên có kết cấu hạ tầng được xây dựng tương đối đồng bộ,
bao gồm mạng lưới nông thôn và đô thị, điện lưới quốc gia, hệ thống thủy lợi,
nước sinh hoạt đô thị, các công trình phúc lợi công cộng về văn hóa - xã hội như
trường học, nhà văn hóa, bảo tàng, bệnh viện, công sở làm việc của các cấp hành
chính từ trung ương, tỉnh và cơ sở.
Cùng với sự tăng trưởng chung của cả nước về kinh tế, trong những năm
2010 - 2015, kinh tế tỉnh Thái Nguyên đạt tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu
chuyển dịch theo hướng công nghiệp, hiện đại. Cụ thể:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm giai đoạn 2011 - 2015
đạt 13,1%, cao hơn 7,28% so với bình quân chung của cả nước; trong đó, công
nghiệp - xây dựng đạt tốc độ tăng trưởng 20,7%, dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng
7,7%; nông - lâm nghiệp - thủy sản đạt tốc độ tăng trưởng 5,1%.
+ Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp
- xây dựng. Năm 2015, tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đạt 83,2%; so
với năm 2010, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng tăng từ 39,5% lên 49%; nông,
lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 21,3% xuống còn 16,9%.
+ GDP bình quân đầu người năm 2015 ước đạt 46,4 triệu đồng (tương
đương hơn 2.100 USD), gấp 2,6 lần so với năm 2010.
+ Thu ngân sách hằng năm tăng khá; thu trong cân đối ngân sách nhà
nước năm 2015 (không bao gồm thu cấp quyền sử dụng đất) ước đạt 6.200 tỷ
đồng, gấp 3,33 lần so với năm 2010, bình quân giai đoạn 2011 - 2015, tăng
27,2%/năm vượt mục tiêu đề ra. Tỷ lệ huy động ngân sách so với GDP bình
quân đạt 12%. Chi đầu tư phát triển trong ngân sách so với năm 2010 tăng từ
34,5% lên 37%.


18


+ Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2014 đứng thứ 8 trong
63 tỉnh, thành phố, tạo điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài
nước. Trong giai đoạn 2011 - 2015, tỉnh đã thu hút được gần 700 dự án đầu tư
với tổng số vốn đăng ký đạt trên 250 nghìn tỷ đồng, trong đó có trên 50 dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài với vốn đăng ký khoảng 7 tỷ USD, vốn thực hiện đạt
4,5 tỷ USD [6, tr. 2].
Bước sang giai đoạn 2015 - 2019, mức độ tăng trưởng kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự phát triển nhanh, được thể hiện thông qua
các yếu tố:
Tổng sản phẩm trong tỉnh năm 2019 ước tăng 9% so với năm 2018. Với
dự ước tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2019 đạt 9%, năm 2020 đạt 7,3% thì tính
chung giai đoạn 2015 - 2020 sẽ đạt mức tăng trưởng bình quân trên 11%/năm,
vượt mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2015 2020 đề ra (mục tiêu từ 10% trở lên).
Về cơ cấu nền kinh tế năm 2019, khu vực công nghiệp xây dựng chiếm tỷ
trọng 58%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 10,3%; khu
vực dịch vụ và thuế sản phẩm chiếm 31,7%.
Tổng thu nhập trong tỉnh (GRDP) bình quân trên đầu người năm 2019
ước đạt 83,5 triệu đồng/người/năm, tăng 6 triệu đồng/người so với năm 2018,
vượt kế hoạch đề ra (bình quân chung cả nước năm 2018 là 58,5 triệu
đồng/người) [102, tr. 3].
Cùng với kinh tế, trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, các mặt xã hội trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên cũng có những khởi sắc.
Thái Nguyên là một trung tâm giáo dục lớn thứ 3 của cả nước. Sự nghiệp
giáo dục và đào tạo tỉnh Thái Nguyên được duy trì củng cố vững chắc, có nhiều
bước phát triển quan trọng và toàn diện trên tất cả các cấp, bậc, ngành học và
trên các lĩnh vực công tác. Hệ thống các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp ở
Thái Nguyên có số lượng khá lớn so với các tỉnh thành trong cả nước. Các cấp
độ và ngành nghề đào tạo tương đối toàn diện. Nhiều trường có uy tín cao trong
đào tạo. Tính đến năm 2019, trên địa bàn tỉnh có 09 trường Đại học. Trong đó,

Đại học Thái Nguyên gồm 2 khoa và 7 đại học thành viên; 12 trường Cao đẳng;
08 trường trung cấp chuyên nghiệp và nhiều cơ sở dạy nghề của Trung ương và
tỉnh đóng trên địa bàn. Hằng năm, đào tạo khoảng trên 110.000 người thuộc các
trình độ đào tạo: Nghiên cứu sinh, thạc sỹ, đại học, cao đẳng, trung cấp, nghề dài
hạn, ngành nghề đào tạo thuộc các nhóm kỹ thuật, kinh tế - tài chính, văn hóa,
du lịch…


19

Tuy nhiên, kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh
của tỉnh. Cơ cấu kinh tế tuy có sự chuyển dịch theo hướng tích cực song tốc độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh còn chậm, quy mô của nền kinh tế chưa cao;
năng lực cạnh tranh và hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp còn thấp, trình độ
công nghệ, thiết bị lạc hậu, chưa đồng bộ. Công tác phát triển nhân lực của tỉnh
vẫn còn nhiều bất cập. Mạng lưới cơ sở đào tạo và đào tạo nghề chưa được quy
hoạch đồng bộ. Một số cơ sở đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu về quy mô, năng
lực, chất lượng. Hệ thống cơ sở đào tạo chất lượng cao chưa đồng bộ, chưa đáp
ứng với yêu cầu của xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.
Để khai thác có hiệu quả các lợi thế và nguồn lực sẵn có cũng như tận
dụng được các cơ hội và điều kiện thuận lợi trong hoàn cảnh mới, việc quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011
- 2020 là cần thiết. Trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế - xã hội và quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020, tỉnh
đã hoàn thành "Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2012
- 2020". Trong đó, thanh niên sẽ là đối tượng chủ yếu góp phần tích cực phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Yếu tố con người, trong đó có thanh niên, là khâu
đột phá mang tính quyết định nhất trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến
năm 2020.
1.2.2. Tình hình thanh niên tỉnh Thái Nguyên

Theo niêm giám thống kê năm 2018, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, lực
lượng thanh niên (16 - 30 tuổi) có khoảng 334.000 người, chiếm khoảng 28,47%
dân số toàn tỉnh. Trong đó, thanh niên khu vực nông thôn là 70,48 %, khu vực
thành thị là 29,52%, lao động đã qua đào tạo là 30,7% (Khu vực thành thị là
57,7%, khu vực nông thôn là 19,2%), tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 2,46%, khu
vực nông thôn là 1,46% [15].
Về giới tính, tỷ lệ nam, nữ trên tổng số thanh niên khá cân đối, 49,6% là
nam thanh niên và 50,4% là nữ thanh niên.
Về độ tuổi, lớp tuổi 16 - 24 chiếm 57,73%; lớp tuổi 25 - 29 chiếm
20,73%; lớp tuổi 30 - 35 chiếm 21,54%.
Về nghề nghiệp, thanh niên học sinh sinh viên chiếm 14,56% tổng số
thanh niên. Thanh niên công nhân chiếm 36,4 % so với tổng số công nhân và
9,34% trên tổng số thanh niên. Thanh niên nông thôn chiếm 51,3% trong lực
lượng lao động nông nghiệp. Viên chức trẻ chiếm 24,8% lực lượng công chức,
viên chức, cán bộ trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp [98, tr. 4].


20

Theo báo cáo số liệu công tác tổ chức của Đoàn, đến năm 2019 toàn tỉnh
có 103.986 đoàn viên phân bổ tại 550 cơ sở Đoàn và tham gia sinh hoạt tại
5.592 Chi đoàn. Đối với số liệu tổ chức Hội LHTN Việt Nam tỉnh Thái Nguyên,
theo thống kê đến năm 2019, có 172.885 hội viên thanh niên tham gia vào các tổ
chức thành viên của Hội LHTN Việt Nam tỉnh Thái Nguyên và sinh hoạt tại
5.280 chi hội, tỷ lệ thu hút đoàn kết tập hợp thanh niên đạt trên 70% tham gia
vào tổ chức Hội [46, tr. 1].
Ngày nay, cùng với quá trình đổi mới của đất nước, thanh niên ngày càng
có điều kiện nâng cao trình độ học vấn, tích cực đi trước đón đầu ở những ngành
khoa học, công nghệ mũi nhọn. Các điều kiện thể lực, sức khoẻ của thanh niên
Thái Nguyên đang dần có những bước cải thiện đáng kể. Lực lượng lao động

thanh niên được đào tạo và có tay nghề ngày càng tăng, chiếm tỷ lệ cao trong
một số ngành, lĩnh vực quan trọng. Thanh niên ngày nay năng động hơn trong
tìm kiếm việc làm; biết đề cao ý thức vươn lên tự lập thân, lập nghiệp. Tính tích
cực chính trị xã hội, tinh thần xung kích, tình nguyện, ý thức chia sẻ với cộng
đồng ngày càng được khơi dậy và phát huy mạnh mẽ. Thanh niên được sống
trong môi trường văn hoá và thông tin phong phú; có điều kiện mở mang tri
thức, chủ động tham gia quá trình giao lưu và hội nhập kinh tế quốc tế. Những
thuận lợi đó đã kích thích phát triển tài năng, sáng tạo của tuổi trẻ; góp phần
nâng cao nhận thức, khẳng định vị trí, vai trò và phát huy tiềm năng to lớn của
thanh niên trong xã hội hiện đại.
Phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của tuổi trẻ Việt Nam và quê
hương cách mạng anh hùng, thanh niên Thái Nguyên đã có bước trưởng thành
nhanh chóng. Phần lớn thanh niên sống có lý tưởng, niềm tin vào sự lãnh đạo
của Đảng và sự phát triển của quê hương; không ngừng học tập, rèn luyện, nâng
cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ; sẵn sàng đảm nhận những việc
mới, việc khó, biết sẻ chia, chung sức cùng cộng đồng xã hội. Qua thực tiễn,
xuất hiện ngày càng nhiều thanh niên điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực.
Bên cạnh những mặt tích cực, thanh niên Thái Nguyên hiện nay cũng có
nhưng mặt khó khăn, hạn chế như sau:
Tình trạng thiếu việc làm: Tình trạng thanh niên thiếu việc làm hoặc việc
làm không ổn định đang diễn khá phổ biến, nhất là thanh niên nông thôn. Tình
trạng thiếu việc làm ở thanh niên nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đã
dẫn tới hiện tượng thanh niên ra tỉnh Thái Nguyên, thị xã, khu cụm, công nghiệp
để tìm việc làm, tạo nên các chợ lao động nông thôn ở đô thị.
Tình trạng thanh niên thu nhập thấp: Thanh niên có thu nhập thấp chiếm
một tỷ trọng lớn trong dân số nghèo. Các gia đình trẻ, mới tách hộ, thiếu đất


×