Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Vấn đề nữ quyền trong sáng tác của một số nhà văn dân tộc thiểu số (khu vực miền núi phía bắc việt nam) (luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

DƯƠNG THỊ THÚY HẰNG

VẤN ĐỀ NỮ QUYỀNTRONG SÁNG TÁC
CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN DÂN TỘC THIỂU SỐ
(KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2020


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

DƯƠNG THỊ THÚY HẰNG

VẤN ĐỀ NỮ QUYỀNTRONG SÁNG TÁC
CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂNDÂN TỘC THIỂU SỐ
(KHU VỰCMIỀN NÚI PHÍA BẮCVIỆT NAM)
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. CAO THỊ THU HOÀI


THÁI NGUYÊN - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Hoàn toàn
không sao chép của bất kì ai.Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin
được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí, các website theo danh mục tài liệu tham
khảo.
Nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm!
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020
Tác giả luận văn

Dương Thị Thúy Hằng

i


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn, em đã nhận được sự
giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè. Với lòng biết
ơn sâu sắc em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới:
TS. Cao Thị Thu Hoài, người thầy đã hướng dẫn em thực hiện luận văn
trên. Sựchỉ bảo tận tình, chu đáo vànhiều ý kiến quý báu của cô đã giúp đỡ em
rất nhiều trong suốt thời gian thực hiện luận văn.
Ban giám hiệu, phòng Đào tạo sau Đại học, Khoa Ngữ Văn cùng toàn thể
các thầy cô đã giảng dạy chuyên ngành Văn học Việt Nam trường ĐHSP Thái
Nguyên đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em hoàn thành khóa học.
Xin cảm ơn sự động viên, khích lệ của người thân, bạn bè, đồng nghiệp.
Dù rất cố gắng nhưng luận văn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được ý kiến đóng góp để luận văn thêm hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020
Tác giả luận văn

Dương Thị Thúy Hằng

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC ..........................................................................................................iii
DANH MỤC VIẾT TẮT ..................................................................................... v
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 6
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 7
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 8
7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 8
Chương 1:KHÁI QUÁT VỀ VĂN XUÔI DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN
NÚIPHÍA BẮC VÀ GIỚI THUYẾT VỀ NỮ QUYỀN TRONG VĂN
HỌC .................................................................................................................... 9
1.1. Khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc .......................... 9
1.1.1. Lịch sử hình thành, phát triển .................................................................... 9
1.1.2. Đặc điểm nội dung, nghệ thuật ................................................................ 14
1.2. Giới thuyết về nữ quyền trong văn học ...................................................... 20
1.2.1. Khái niệm nữ quyền ................................................................................ 20

1.3. Mạch nguồn cảm hứng về nữ quyền trong văn xuôi dân tộc thiểu số
miền núi phía Bắc .............................................................................................. 28
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .................................................................................... 31
Chương 2:VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ
NHÀ VĂN DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮCNHÌN TỪ
GÓC ĐỘ NỘI DUNG ...................................................................................... 32
2.1. Nữ quyền trong cuộc chiến chống lại những hủ tục lạc hậu ...................... 33
iii


2.2. Nữ quyền trong khát khao hạnh phúc đời thường ...................................... 43
2.3. Nữ quyền trong bản năng tính dục ............................................................. 50
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .................................................................................... 59
Chương 3:VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ
NHÀ VĂN DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮCNHÌN TỪ
GÓC ĐỘ NGHỆ THUẬT ............................................................................... 60
3.1. Nghệ thuật xây dụng nhân vật nữ ............................................................... 60
3.1.1. Xây dựng nhân vật qua ngoại hình và hành động ................................... 60
3.1.2. Xây dựng nhân vật qua đời sống nội tâm ................................................ 65
3.2. Sử dụng ngôn ngữ giàu tính nữ .................................................................. 68
3.2.1. Ngôn ngữ giản dị, thông tục .................................................................... 69
3.2.2. Ngôn ngữ thẳng thắn, quyết liệt .............................................................. 71
3.2.3. Vận dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ và lối ví von, so sánh ..................... 73
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .................................................................................... 78
KẾT LUẬN....................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 81
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 85

iv



DANH MỤC VIẾT TẮT
DTTS

:

Dân tộc thiểu số

TK

:

Thế kỉ

v


MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
1.1.Làmột bộ phận quan trọng trong nền văn học Việt Nam, văn học dân
tộc thiểu số (DTTS) đã đi vào đời sống cộng đồng và mang những giá trị nhân
văn cao cả. Trong bộ phận văn học này, thể loại văn xuôi chiếm một vị thế đặc
biệt,làm nên những nét đặc sắc tiêu biểu và riêng biệt.Như GS. Phong Lê đã từng
nhận xét:“Văn xuôi miền núi chiếm lĩnh được một vẻ đẹp riêng không thay thế
được, không ai bắt chước được”. Trải qua một quá trình tự mình vận động và
vươn ra hòa cùng đại dương văn học Việt, đến nay, văn xuôi dân tộc thiểu số đã
đạt được rất nhiều thành tựu lớn và có chỗ đứng trên khắp các vùng miền của cả
nước. Trong đó, tập trung chủ yếu ở ba khu vực: miền núi phía Bắc, Tây Nguyên
và Tây Nam Bộ.
1.2.Khu vực miền núi phía Bắc là một địa bàn rộng lớn và là nơi sinh sống

của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Dao, Mường, H’Mông… Mỗi
dân tộc lại ghi dấu một nét văn hóa riêng tạo nên bức tranh miền núi phong phú,
đa dạng, giàu bản sắc dân tộc. Văn xuôi khu vực này cũng tiêu biểu và khởi sắc
hơn cả về số lượng tác phẩm cũng như đội ngũ các tác giả như: Nông Minh Châu,
Vi Hồng, Triều Ân, Bùi Thị Như Lan, Nông Viết Toại, Vi Thị Kim Bình, Cao
Duy Sơn, Ma Trường Nguyên, Hữu Tiến, Mã A Lềnh, Vương Trung… Các nhà
văn khi viết về miền núi đều có những tìm tòi, khám phá hết sức mới mẻ mà vẫn
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Đặc biệt, các nhà văn này đều có một điểm nhìn
chung trong cách xây dựng hình tượng người phụ nữ miền núi trong đời sống
đương đại, có cả sự xót xa, thương cảm và ngợi ca. Dường như với các nhà văn,
được viết, được tả, được thể hiện niềm ưu ái dành cho những người phụ nữ vùng
cao là một niềm “vinh dự” và “tự hào”, bởi qua những trang văn chất chứa bao
tình cảm ấy là cả niềm tin và hi vọng vào một tương lai tươi sáng hơn cho những
thân phận còn đong đầy bất hạnh nơi các bản làng xa xôi.Vượt hơn cả hi vọng và
mong ước, các nhà văn dân tộc miền núi còn hướng đến một vấn đề cao cả, mãnh
1


liệt và cũng vô cùng chính đáng: vấn đề nữ quyền cho người phụ nữ vùng cao.
1.3.Vấn đề nữ quyền đang là xu hướng của thời đại hiện nay, nhận được sự
quan tâm của toàn xã hội. Từ xa xưa, ý thức nữ quyền đã có ở Việt Nam trong cội
nguồn nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, được thể hiện qua tín ngưỡng thờ Mẫu,
việc tôn thờ nữ thần, thờ mẫu thần, thờ mẫu tam phủ, tứ phủ với quyền năng sinh
sôi và che trở cho con người xuất hiện khá phổ biến và có nguồn gốc lịch sử lâu
đời. Trong thời kì phong kiến, chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo với quan
điểm “trọng nam - khinh nữ”, hay là “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, có thể
thấy, người đàn ông được coi trọng, được nắm quyền hành trong xã hội còn người
phụ nữ chỉ là cái bóng mờ nhạt, không được coi trọng. Người phụ nữbị bủa vây
bởi tập tục lạc hậu, họ chỉ biết sống cam chịu và phục tùng, số phận chịu nhiều
đắng cay và ngang trái. Bởi vậy, dấu hỏi lớn ở đây là làm sao để người phụ nữ có

được quyền bình đẳng trong cuộc sống?
Khi xã hội bước vào thời kì đổi mới, đời sống kinh tế xã hội và tư tưởng
có nhiều thay đổi, chủ nghĩa nữ quyền lúc này giải thích nguyên nhân tại sao phụ
nữ bị áp bức trong xã hội và làm thế nào để nâng cao địa vị của phụ nữ. Vì thế
tiếng nói đòi quyền bình đẳng và quyền sống của người phụ nữ được chú trọng
hơn. Trong văn học, hình tượng người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng bất tận,
vừa quen thuộc, vừa mới mẻ của những văn nghệ sĩ và là hình tượng nghệ thuật
tiêu biểu cho văn học dân tộc. Cuộc đấu tranh vì bình đẳng giới đã diễn ra đồng
loạt trên mọi phương diện của đời sống xã hội, trong đó có văn học nghệ thuật.
Lúc này, vấn đề về nữ quyền được nhắc đến nhiều trong đời sống văn học nước
ta, chi phối diện mạo văn xuôi Việt Nam trong đó có văn xuôi dân tộc thiểu số.
1.4. Qua những sáng tác văn xuôi, các nhà văn dân tộc thiểu số thấu hiểu
được số phận của người phụ nữ miền núi còn chịu nhiều thiệt thòi, áp bức nên
bằng các phương thức khác nhau, họ đã đưa vào tác phẩm của mình hình ảnh
người phụ nữ và cuộc sống của họ trên muôn nẻo cuộc sống với sự đồng cảm, yêu
thương, trân trọng. Âm hưởng về nữ quyền tuy còn mơ hồ nhưng tiếng vọng
của nó đã vang lên thể hiện ở việc người phụ nữ dân tộc thiểu số dám đứng lên
2


chống lại những phong tục, tập quán đã lỗi thời, lạc hậu, mang màu sắc mê tín,
những thói hư, tật xấu làm xã hội trì trệ, trở thành vật cản, là gánh nặng đối với
các cộng đồng người dân tộc thiểu số. Dù luôn phải đối mặt với những khó khăn,
thử thách trong cuộc sống nhưng thẳm sâu trong tâm hồn, họ luôn khát khao về
cuộc sống hạnh phúc - đời thường giản dị, tươi đẹp.Đọc những sáng tác của Vi
Hồng, Bùi Thị Như Lan và Cao Duy Sơn… Ta có thể thấy các tác giả đều chú ý
khắc họa thành công hình tượng nhân vật nữ dân tộc thiểu số, dành cho họ nhiều
trangviết tâm huyết trong sáng tác của mình với những phát hiện về những khát
vọng cao đẹp của người phụ nữmang âm hưởng nữ quyền rất đậm nét. Từ đó, có
thể khẳng định, các nhà văn dân tộc thiểu số đã góp tiếng nói của mình để tôn vinh

những người phụ nữ, những người mà ở bất cứ thời đại nào,quốc gia dân tộc nào
cũng giữ vai trò trọng yếu trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống của mỗi dân tộc.
1.5.Vấn đề nữ quyền là đề tài có ý nghĩa sâu sắc, có sức lôi cuốn đặc biệt
và cũng rất thiết thực với bản thân vì sự yêu thích và muốn khám phá về người
phụ nữ dân tộc thiểu số. Chính vì những lí do trên đã thôi thúc tôi chọn “Vấn đề
nữ quyền trong sáng tác của một số nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc”
làm đề tài nghiên cứu. Hi vọng đề tài thành công sẽ là một tài liệu tham khảo hữu
ích cho những người muốn tìm hiểu về văn xuôi miền núi nói chung và vấn đề
nữ quyền trong văn xuôi dân tộc thiểu số nói riêng.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
ỞViệt Nam, vấn đề nữ quyền được manh nha trong lý luận phê bình văn
học đầu TK XX, nhưng phải từ năm 1986 trở đi, âm hưởng nữ quyền trong văn
học mới thực sựđược chú ý. Vấn đề nữ quyền đã được một số nhà nghiên cứu đề
cập đến như: Trong bài báo Về tinh thần nữ quyền trong tiểu thuyết, truyện ngắn
Việt Nam sau 1986, Nguyễn Mạnh Hà cho rằng: “Tinh thần nữ quyền (…) biểu
hiện nổi bật ở những điểm sau: đả phá trật tự nam quyền, tìm lại chính mình,
khẳng định những ưu việt”. Châm Khanh chủ yếu lý giải sự xuất hiện mạnh mẽ,

3


đông đảo của các tác giả nữ từ sau năm 1975 và tìm những cơ sở đểxác địnhlối
viết văn đặc trưng của phụ nữ trong tiểu luận Phụ nữ và vănchương.Trên
trang báo vnca.cand.com.vn, bài viết Phụ nữ - nguồn cảm hứng sáng tác của văn
xuôi Việt Nam thời kì đổi mới của Đào Đồng Điện, người viết đặt người phụ
nữ ở vị trí đối tượng sáng tạo để khám phá diện mạo của hình tượng nhân vật nữ.
Phụ nữ là một nội dung nổi bật của văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổimới.Nguyễn
Thị Thanh Xuân với tham luận “Xét lại thế giới đàn ông bằng cái nhìn đàn bà”,
tham dự tọa đàm khoa học “Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn học Việt Nam đương

đại”, đã khái quát những nét cơ bản về âm hưởng nữ quyền trong văn học từ năm
1986 trởđi.
Năm 1990, bài viết: Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết
Tự lực văn đoàn (Tạp chí văn học, số 5), nhà nghiên cứu Trường Chính đã thể
hiện những kiến giải của mình về ý thức nữ quyền trong tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn. Từ giữa năm 1999, nhiều chuyên đề liên quan đến phái tính trong văn học
có sức lan tỏa rất nhanh trên văn đàn, nhất là ở ngoài nước. Do có sự tiếp xúc với
chủ thuyết nữ quyền, dòng văn học hải ngoại có bước đột phá rất ngoạn mục
trong việc nghiên cứu về phái tính. Những chuyên đề như Tình yêu, tình dục và
phái tính trong văn học, Tình yêu tình dục của Tạp chí Việt, chuyên đề Văn học
nữ quyền, chuyên đề Giới tính trên trang DaMau.org… liên tiếp mở ra nhiều
khám phá.Năm 2006, trong bài viết tham dự hội thảo quốc tế về văn học tại Viện
văn học có nhan đềVấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt
Nam đương đại, nhà nhiên cứu Nguyễn Đăng Điệp đã giới thiệu khái quát về vấn
đề phái tính trong văn học ở từng giai đoạn và đưa ra nhìn nhận ban đầu về vấn
đề tính nữ trong văn học Việt Nam. Năm 2013, Đặng Thị Vân Chi trong bài viết:
Vấn đề nữ quyền ở Việt Nam đầu TK XXtham dự Hội thảo Quốc tế Việt Nam học
lần thứ nhấtcó nhận xét: “Sự tự nhận thức của phụ nữ đối với vấn đề nữ quyền
cũng như sự phát triển của quá trình nhận thức tư tưởng này trong xã hội Việt
Nam đã từng bước mang lại sự thay đổi thực sự cho phụ nữ cũng như sự phát

4


triển của phong trào phụ nữ, thúc đẩy phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã
hội, vào phong trào đòi quyền bình đẳng nam nữvà giải phóng phụ nữ, giải
phóng dân tộc và góp phần vào thành công của cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở Việt Nam”. Với bài viết này đã cho thấy sự phát triển nhận thức về vấn đề
nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Năm 2017, Lê Thị Thanh Xuân trong bài
viết: Xu hướng nữ quyền trong sáng tác của các nhà văn nữ dân tộc thiểu số

(Tạp chí khoa học - ĐH Huế) đã gửi tới thông điệp về hình ảnh người phụ nữ
luôn là đề tài hấp dẫn đối với các nhà văn để đi sâu khai thác vấn đề nữ quyền.
Ngoài ra còn một số nghiên cứu về vấn đề nữ quyền như: Hồ Khánh Vân trong
Từ lý thuyết phê bình nữ quyền nghiên cứu một số tác phẩm văn xuôi của các tác
giả nữ Việt Nam từ năm 1990 đến nayvà Ý thức nữ quyền và sự phát triển bước
đầu của văn học nữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đạihóa văn học dântộc đầu thế
kỉ XX;Nguyễn Thị Thanh Xuân trong Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền
trong văn học Việt Nam đương đại (qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu
biểu) cho thấy sự quan tâm đến giới nữ từ nữ quyền luận đan xen với lý thuyết
về giới, đôi chỗ còn trộn lẫn với thi pháp học, phong cách học. Trần Nho Thìn
trong Từ thực tiễn Việt Nam, góp thêm một tiếng nói phương pháp luận vào cuộc
thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và nữ quyền, tiếp cận vấn đề từ góc độ văn
hóa học, nữ quyền luận xen với phê phán tư tưởng hệ.
Qua tìm hiểu bước đầu, các nhà văn dân tộc thiểu số luôn muốn hướng tới
sự công bằng, bình đẳng cho nữ giới, xóa bỏ định kiến vô thức hay những khuôn
phép giáo điều xưa cũ áp đặt cho người phụ nữ trong các sáng tác văn xuôi dân
tộc miền núi. Đã có một số công trình mang tính tập hợp, tuyển chọn và giới
thiệu về văn học dân tộc thiểu số trong đó có đưa vào hình ảnh người phụ nữ dân
tộc như: Tuyển tập văn học các dân tộc thiểu số (Nxb văn hóa, 1995); Tuyển tập
văn học và miền núi (Nxb Giáo dục, 2007); Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu
số Việt Nam 1945-1985 (Nxb Văn hóa, 1981)… Ngoài ra còn một số công trình
nghiên cứu, đánh giá về văn học dân tộc thiểu số trong đó có hình tượng người

5


phụ nữ dân tộc như: Một vườn hoa nhiều hương sắc (Nxb Văn hóa, 1997); 40
năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (1945-1985) (Nxb Văn
hóa, 1985); Văn hóa các dân tộc -từ một diễn đàn (1999) của Hội văn học nghệ
thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam; Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam truyền

thống và hiện đại (Nxb Đại học Thái Nguyên); Bản sắc văn hóa dân tộc trong
văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam ( Nxb Đại học Thái Nguyên);
Nửa thế kỷ phát triển văn xuôi các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt
Nam(từ 1960 đến nay) (Nxb Hội nhà văn)… Nhìn chung những nguồn tài liệu
trên đã cung cấp những nhận định khái quát về người phụ nữ dân tộc thiểu số,
thấy được hình ảnh người phụ nữ luôn là đối tượng thẩm mĩ đáng được chú ý
trong mọi lĩnh vực văn chương.
Điểm qua một số công trình nghiên cứu và các bài viết có thể thấy rằng,
lý thuyết về nữ quyền đã được vận dụng vào nghiên cứu văn học Việt Nam, tuy
nhiên chưa có công trình nào đề cập đến vấn đề nữ quyền trong sáng tác của một
số nhà văn dân tộc thiểu số. Do đó, đây sẽ là hướng mở để chúng tôi thực hiện
đề tài này. Đề tài thành công sẽ góp một cái nhìn mới mẻ nhằm giáo dục nhận
thức về các giá trị bình quyền, thúc đẩy bình đẳng giới nói chung và sự tiến bộ
của người phụ nữ vùng cao nói riêng.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Vấn đề nữ quyền trong sáng tác của
một số nhà văn dân tộc thiểu số (khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề nữ quyền trong sáng tác của các nhà
văn DTTSkhu vực miền núi phía Bắc như: Vi Hồng, Cao Duy Sơn,Bùi Minh
Chức, Hữu Tiến, Bùi Thị Như Lan…
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Có cái nhìn tổng thể và khái quát về văn học dân tộc thiểu số, góp phần

6


tìm hiểu và soi sáng về thể loại văn xuôi dân tộc thiểu số trong bức tranh văn học

các dân tộc thiểu số Việt Nam.
- Qua việc nghiên cứu vấn đề nữ quyền trong sáng tác của một số nhà văn
dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, luận văn sẽ phân tích, lý giải, đưa ra được
những nhận định nhằm chứng minh những nét riêng về vấn đề nữ quyền trong
các sáng tác của một số nhà văn dân tộc thiểu số ở hai phương diện nội dung và
nghệ thuật. Từ đó khẳng định những thành tựu, những đóng góp mới mang tính
hiện đại, những giá trị mới mang tính nhân văn của văn xuôi dân tộc thiểu số
miền núi phía Bắc Việt Nam.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài.
- Phân tích nhằm làm rõ những biểu hiện của vấn đề nữ quyền trong sáng
tác của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc ở hai phương diện nội
dung và nghệ thuật.
- Khẳng định những đóng góp của các nhà văn dân tộc thiểu số trong việc
tạo dựng bức tranh về người phụ nữ dưới cái nhìn về giới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Qua phân tích một số dẫn chứng tiêu
biểu của các nhà văn DTTS viết về vấn đề nữ quyền, luận văn đưa ra những đánh
giá và phân tích cụ thể.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu để làm sáng tỏ những đặc điểm, dấu hiệu
mang âm hưởng nữ quyền cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật trong sáng tác
của một số nhà văn DTTS, qua đó khẳng định những đóng góp riêng của họ trong
tiến trình văn học Việt Nam.
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp lịch sử văn học. Nghiên cứu lịch sử văn học để thấy được
sự manh nha của văn học nữ quyền từ dân gian cho đến hiện đại.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (Văn hóa học, dân tộc học…)
7



6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về vấn đề nữ quyền trong sáng
tác của một số nhà văn dân tộc thiểu số.
- Khẳng định ý thức về nữ quyền trong dòng chảy văn học của dân tộc và
ưu thế của dòng văn học viết về nữ quyền, nói lên tiếng nói về bình đẳng giới.
- Khẳng định sự đóng góp của những nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam hiện
đại cho thành tựu chung của văn học nước nhà trên con đường hiện đại hóa.
- Bổ sung tài liệu tham khảo về văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc và
giới thuyết về nữ quyền trong văn học
Chương 2: Vấn đề nữ quyền trong sáng tác của một số nhà văn dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc nhìn từ góc độ nội dung
Chương 3: Vấn đề nữ quyền trong sáng tác của một số nhà văn dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc nhìn từ góc độ nghệ thuật

8


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ VĂN XUÔI DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI
PHÍA BẮC VÀ GIỚI THUYẾT VỀ NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC
1.1. Khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, là nơi sinh sống của 54 dân tộc anh
em trên dải đất hình chữ S. Mỗi dân tộc đã có đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp
phát triển văn học nước nhà. Văn học dân tộc thiểu số là bộ phận nằm trong dòng
chảy của văn học ViệtNam, nó bao gồm sáng tác của tác giả người dân tộc thiểu

số viết về dân tộc mình và những trăn trở của họ về các vấn đề về đời sống, xã
hội. Qua đó để thấy được “Quá trình nỗ lực tự hoàn thiện về tất cả mọi mặt của
văn học DTTS để có thể hòa nhập và trở thành bộ phận quan trọng của nền
vănxuôi Việt Nam hiện đại”. [58, tr.162]
Đầu TK XX, cùng với sự hình thành và phát triển của nền văn học chữ
quốc ngữ, văn học DTTS cũng đã xuất hiện và dần khẳng định vị thế của
mình.Trong đó phải kể đến văn xuôi dân tộc thiểu số, đó là một bức tranh muôn
màu, đầy đủ và sát thực về hiện thực cuộc sống miền núi và đồng bào các dân
tộc thiểu số.“Từ những tác phẩm được trau chuốt, chọn lọc trong nghệ thuật biểu
hiện, đề tài mở rộng ở cả chiều rộng và chiều sâu,cách nhìn con người và cuộc
sống đa diện nhiều chiều…Nó cho thấy sự trưởng thành thục sự của một nền văn
học được đánh dấu bằng những thành tựu, thể hiện một cách nhìn, một sự khẳng
định giá trị văn học đối với một nền văn xuôi giàu sức phát triển” [13, tr.8586].Cũng kể từ đó, văn học đã góp phần xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội miền núi ngày một giàu đẹp hơn. Nhất là trong giai đoạn hội nhập hiện
nay,cần sự khẳng định về bản sắc văn hóa của dân tộc nếu như không muốn hòa
tan nền văn hóa của dân tộc mình với dân tộc khác.
1.1.1. Lịch sử hình thành, phát triển
Đời sống và nền văn hóa dân tộc thiểu số với những sắc diện riêng biệt là
nguồn cảm hứng bất tận cho văn học nghệ thuật phát triển đặc biệt là văn
9


xuôi.Văn xuôi chỉ tổ chức ngôn ngữ như lời nói thường, như một dòng ngôn từ
tuôn chảy không ngừng (chỉ tạm dừng ở chỗ ngắt ý, ngắt giọng, ngắt câu thông
thường), không bị rằng buộc bởi quy luật số lượng hay vần điệu, nhịp điệu. Văn
xuôi khai thác mạnh mẽ khả năng mô tả của ngôn từ để khái quát hiện thực đời
sống“Miêu tả cuộc sống trong những hình thức vốn có của nó”và chính chất liệu
ngôn từ đã giúp văn xuôi đạt được tính vạn năng trong việc chiếm lĩnh đời sống,
thể hiện sự nhận thức và sáng tạo của con người.
Vốn văn học dân gian của dân tộc thiểu số rất đa dạng và phong phú gồm

nhiều thể loại như: Sử thi, dân ca, truyện cổ, thành ngữ- tục ngữ, truyện thơ,
trường ca…Đây cũng là nguồn sữa mẹ nuôi dưỡng văn xuôi dân tộc thiểu số phát
triển. Bên cạnh đó thì những tác phẩm văn xuôi của các tác giả người Kinh viết
về đề tài miền núi như Truyện Tây Bắc (Tô Hoài), Ở rừng(Nam Cao), Đất nước
đứng lên (Nguyên Ngọc) cũng là nguồn cảm hứng cho những nhà văn DTTS viết
văn. Khu vực văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại bắt đầu hình thành
từ những năm 50 của thế kỉ XX và là một nền văn học trẻ. Tuy hình thành muộn,
chủ yếu đươc hình thành và phát triển từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945,
đặc biệt nở rộ từ những năm 60 trở lại đây,trải qua hơn một nửa thế kỉ phát triển,
văn xuôi các DTTS đã có nhiều khởi sắc từ đội ngũ sáng tác ngày càng đông đảo,
thể loại ngày càng phong phú tới số lượng và chất lượng tác phẩm ngày càng
nhiều, hay và hấp dẫn hơn, gặt hái được nhiều thành tựu và đã phổ biến rộng
khắp trên mọi vùng miền của tổ quốc.
Trên thực tế, với điều kiện địa lý và tự nhiên xã hội khác nhau, văn xuôi
DTTS Việt Nam hiện đại tồn tại ở 3 khu vực chính đó là: miền núi phía Bắc, Tây
Nguyên và Tây Nam Bộ. Tuy vậy ở mỗi khu vục này có sự phát triển khôngđồng
đều. Nói đến khu vực Tây Nguyên, vào những năm 70,80 của TKXX mới xuất
hiện tác giả Y Điêng, một người con của đồng bào dân tộc Ê đê, ông được coi là
người giữ hồn văn hóa Ê đê trong văn chương nghệ thuật với tác phẩm như:
Chuyện bên bờ sông Hinh (tiểu thuyết 2 tập), Drai Hlinh đi về phía sáng (truyện

10


ngắn), Hờ Giang (truyện dài)…Nối tiếp ông xuất hiện thêm nhiều cây bút mới
như: Hlinh Niê (Ê đê), Niê Thanh Mai (Ê đê), Hồ Thao Khằm (Vân Kiều)… Đến
khu vực Tây Nam Bộ, cũng có sự xuất hiện của một số tác giả như:Lý Lan (Hoa),
Inrasara và Trà Vigia (Chăm)...Phát triển rực rỡ nhất phải kể đến văn xuôi khu
vực miền núi phía Bắc, đây là khu vực mang màu sắc khác biệt với văn học và
văn xuôi các khu vực khác: sự hiểm trở của địa hình núi cao, sự khắc nghiệt của

thiên nhiên lạnh giá nhưng thiên nhiên nơi đây cũng chứa đựng cả sự hùng vĩ và
thơ mộng. Cư dân chủ yếu là người dân tộc thiểu số như: Tày, Nùng, Mường,
Dao, Mông… Đây cũng là khu vực có những sáng tác được cho là mở đường
cho sự phát triển mạnh mẽ của văn xuôi hiện đại các DTTS như Ché Mèn được
đi họp (1958), Muối lên rừng (1964) của Nông Minh Châu…Đến đội ngũ nhà
văn đông đảo là người dân tộc Tày, Thái, Mường, Dao, Nùng như: Triều Ân,
Hoàng An, Vi Thị Kim Bình, Nông Quốc Chấn, Vi Hồng, Nông Minh Châu, Nông
Ích Đạt, Bế Dôn, Mai Liễu, Ma Trường Nguyên, Bế Sĩ Uông, Dương Thuấn, Cao
Duy Sơn, Nông Viết Toại, Bùi Thị Tuyết Mai, Bùi Thị Như Lan, Vương
Trung,Cầm Biêu, La Quán Miên, Hoàng Nó, Mào Văn Ết, Lò Văn Cậy, Sa Phong
Ba, Bàn Tài Đoàn, Bàn Thị Cúc, Mã Thế Vinh, Mã A Lềnh…Qua đó có thể thấy
rằng, văn xuôi phát triển mạnh mẽ ở khu vực miền núi phía Bắc, chứa đựng
những điểm độc đáo, hấp dẫn, khẳng định được bước đi vững chắc trên văn đàn
với một thế hệ nhà văn tài năng và nhiệt huyết, để lại dấu ấn đậm nét.
Trải qua quá trình hình thành, cho đến nay, văn xuôi DTTS trải qua 3 giai
đoạn, mỗi giai đoạn đều đánh dấu sự phát triển vượt bậc và đáng ghi nhận. Giai
đoạn hình thành (từ năm 1958 đến 1965), quá trình hình thành và phát triển
chừng trên 70 năm kể từ sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công và
cách mạng đã làm sống lại vốn văn học truyền thống của các dân tộc thiểu số
“Chế độ ta không những đã làm nảy nở những tài năng mà còn chú trọng khai
thác những di sản văn học nghệ thuật quý báu của các dân tộc bấy lâu nay bị
mai một dưới ách thực dân phong kiến…” [56, tr.138].Khi mà văn xuôi Quốcngữ

11


đã phát triển đạt đến đỉnh cao thì nền văn xuôiDTTS Việt Nam mới có những
bước đi đầu tiên. Trước hết là thơ, thời kỳ đầu, thơ các dân tộc thiểusố vẫn chịu
ảnh hưởng nặng nề của thơ ca dân gian. Những người làm thơ xuất thân từ tầng
lớp bình dân nên thơ ca dân tộc là sự kết hợp của cách mạng, nhân dân và văn

hóa dân gian.Từ sau 1945, thơ ca đạt được những thành tựu với các tác giả là: Y
Phương, Dương Thuấn, Lò Ngân Sủn…Tiếp đó là văn xuôi, do điều kiện kinh
tế, văn hóa xã hội, trình độ nhận thức của nhà văn,đối tượng phản ánh nên văn
xuôi DTTS ra đời muộn và phát triển chậm. Phải từ sau cách mạng, từ sự thay
đổi có tính bước ngoặt và căn bản về chất trong toàn bộ lĩnh vực của đời sống xã
hội cuối những năm 50,60 thì tư tưởng dân chủ mới được thể hiện rõ nét, đồng
bào miền núi mới thực sự có ý thức vươn lên làm chủ cuộc sống mới, làm chủ
cuộc đời, dám đấu tranh và phản kháng lại những áp bức, bất công, những phong
tục tập quán nghèo nàn, lạc hậu, những tư tưởng phi dân chủ…Mặc dù quá trình
hình thành và phát triển muộn nhưng thể loại văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc
vẫn tạo được nền tảng vững chắc và quan trọng trong sự phát triển của văn học
Việt Nam. Năm 1958 với sự ra đời truyện ngắn Ché mèn được đi họp của Nông
Minh Châu, tác phẩm văn xuôi viết bằng tiếng dân tộc đầu tiên trong lịch sử văn
học Việt Nam của một tác giả người dân tộc thiểu số ra đời, sau được tác giả tự
dịch ra tiếng phổ thông. Với đứa con đầu lòng này, Nông Minh Châu được những
người trong nghề chào đón, được giải thưởng cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn
Nghệ. Tiếp theo thành công đó là tiểu thuyết Muối lên rừng được Nông Minh
Châu viết bằng tiếng Kinh ấn hành năm 1964 mở ra một thời kỳ mới cho tiểu
thuyết phát triển. Từ ảnh hưởng của Nông Minh Châu mà sau đó, văn xuôi các
dân tộc thiểu số đã xuất hiện thêm các tên tuổi như: Triều Ân, Nông Viết Toại,
Vi Hồng, Lâm Ngọc Thụ, Vương Trung, Hoàng Hạc… Giai đoạn tiếp theo là
giai đoạn phát triển về tầm vóc và chất lượng (từ 1965 đến những năm 70,80 của
thế kỷ XX), văn xuôi miền núi giai đoạn này có điều kiện thuận lợi để phát triển
về số lượng và quy mô tác phẩm, hình thành nên một khu rừng văn xuôi sum suê

12


cành lá với Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Sa Phong Ba, Lò Văn Sỹ, Mã A Lềnh, Lò
Ngân Sủn… Đồng hành với đó là rất nhiều tác phẩm có chất lượng như: Niềm

vui của Vi Thị Kim Bình(1979),Tiếng khèn A Pá của Triều Ân (1980), Cột mốc
giữalòng sôngcủa Mã A Lềnh (1981),Những bông ban tím của Sa Phong Ba
(1981), Chiếc vòng bạc của Lò Ngân Sủn (1987), Đuông thang của Vi Hồng
(1988)…Đặc biệt trong đó Cao Duy Sơn là người đầu tiên viết văn xuôi người
dân tộc được nhận giải thưởng văn học Đông Nam Á, tạo ra một vị thế xứng
đáng góp vào thành tựu chung của nền văn học Việt Nam muôn sắc ngàn
hương.Đến giai đoạn này, có thể khẳng định, văn xuôi khu vực miền núi phía
Bắc đã lớn mạnh, có nhiều thành tựu đáng ghi nhận, là một nền văn học đặc sắc,
đậm đà bản sắc dân tộc. Giai đoạn Đổi mới với những thành tựu nổi bật của văn
xuôi đặc biệt là thể loại tiểu thuyết (từ sau 1990). Giai đoạn này, với sự quan
tâm, chú trọng của Đảng và nhà nước, văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc đặc
biệt phát triển và dần khẳng định được chỗ đứng quan trọng trong nền văn học
hiện đại nước nhà. Thể loại tiểu thuyết đánh dấu sự thành công của Vi Hồng với
sự ra đời của cá tác phẩm như: Người trong ống (1990), Vào hang (1990), Lòng
dạ đàn bà (1992), Dòng sông nước mắt (1993), Tháng năm biết nói (1994), Phụ
tình (1994), Đi tìm giàu sang (1995)…Ma Trường Nguyên vớiMũi tên ám khói
( 1991), Gió hoang (1992), Tình xứ mây (1993), Trăng yêu (1993), Mùa hoa hải
đường (1998)… Cao Duy Sơn với Người lang thang (1992), Cực lạc (1995),
Hoa mận đỏ (1999), Đàn trời (2006)… Bên cạnh tiểu thuyết, truyện ngắn cũng
gặt hái được vô số thành tựu. Triều Ân với Xứ sương mù (2000),Chuyện đời
thường (2010); Cao Duy Sơn với Những chuyện ở lũng Cô Sầu (1996), Những
đám mây hình người (2002)… Mã A Lềnh với Cao nguyên trắng(1992),Có một
con đường(1995), Dấu chân trên đường (1996)… Hà Lâm Kỳ với Kỷ vật cuối
cùng (1991), Chim ri núi (1992), Gió Mù Căng (1994),Những đứa con lên núi
(1994)…Bùi Thị Như Lan với Tiếng chim kỷ giàng (2004),Mùa hoa mắc mật
(2005),Hoa mía (2006)… Có thể nói, những cây bút người DTTS đã gìn giữ và

13



thổi bùng lên ngọn lửa văn chương của dân tộc mình, văn xuôi DTTS đã từng
bước bắt nhịp vào đời sống của đất nước, cổ vũ, động viên và đi sâu miêu tả số
phận con người miền núi đặc biệt là thân phận, số phận người phụ nữ miền núi,
họ chính là tiêu điểm của bức tranh toàn cảnh về số phận con người, sống ở vùng
núi cao, tồn tại bao hủ tục lạc hậu, bao khó khăn thử thách…Nhưng bên trong
con người họ vẫn sáng lên những phẩm chất tốt đẹp, những khát vọng chính đáng
và vững tin vào một tương lai tươi sáng. Đây cũng là ngọn lửa về vấn đề nữ
quyền được các tác giả DTTS miền núi phía Bắc thắp lên nhằm bênh vực, đòi
quyền lợi cho những người phụ nữ vùng cao.
1.1.2. Đặc điểm nội dung, nghệ thuật
Về nội dung:Vùng miền núi và cuộc sống của đồng bào các dân tộc miền
núi là mảnh đất chứa đựng nhiều tiềm năng cho công việc sáng tạo.Hòa cùng
dòng chảy với văn học dân tộc, từ sau kháng chiến chống thực dân Pháp, văn
xuôi DTTS miền núi phía Bắc đã học tập và kế thừa thành tựu của văn xuôi người
Kinh viết về miền núi, các cây bút văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc đã đem
đến cho độc giả những hiểu biết chân thực, toàn diện và đầy đủ hơn về cuộc sống,
con người, về các phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc ít người qua các
giai đoạn lịch sử của đất nước, luôn gắn liền với sự vận động, sự đổi thay từng
ngày, từng giờ của cuộc sống con người và thiên nhiên miền núi.
Nếu như thơ ca các DTTS đã phản ánh về hiện thực đời sống và con người
vùng cao cả thời kì kháng chiên chống Pháp thì văn xuôi các DTTS lại chủ yếu
phản ánh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cuộc kháng chiến chống Mỹ ở
miền Bắc. Đầu TKXX, xuất hiện một số tác phẩm của nhà văn người Kinh viết
về đời sống sinh hoạt của người dân tộc thiểu số ở miền núi như Thế Lữ với tập
truyện Vàng và máu (1934),Lan Khai với Truyện đường rừng,Dấu ngựa trên
sương (1940), Suối đàn (1942)… Nói vềLan Khai, ông là một cây bút viết về
miền núi gây được sự chú ý đặc biệt của độc giả thời bấy giờ. Sinh ra và găn bó
với chốn sơn lâm trong một gia đình nhà nho kiêm lương y, bằng tài năng và

14



nghị lực, Lan Khai được các nhà phê bình đương thời coi là một trong những nhà
văn mở đường cho một trào lưu văn học mới, là "Nhà nghệ sĩ của rừng núi"
(Trương Tửu). Trong các trang viết của Lan Khai, ta thấy ông hóa thân vào thiên
nhiên rừng núi, phong tục tập quán, phân thân mình vào số phận nhân vật đặc
biệt là người phụ nữ. Nhưng dù thế nào đi nữa, là những nhà văn người Kinh và
giống như những người du khách nếu có gắn bó thì vẫn có cách tiếp cận mang
tính chủ quan với tư cách là người ngoài cuộc.
Trongnhững năm 50 -60 của thế kỷ XX, khi miền Nam đang đấu tranh
chống đế quốc Mỹ xâm lược, miền Bắc đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội thì ở miền núi phía Bắc đã xuất hiện một số tác phẩm của tác giả người
DTTSnhư Nông Viết Toại, Nông Minh Châu, Triều Ân, Vi Thị Kim Bình…Họ
cho ra đời những tác phẩm viết về dân tộc mình với cái nhìn của người trong
cuộc.Các tác giả đều bộc lộ rõ ý thức dùng văn chương làm phương tiện để phục
vụ chính trị, các tác phẩm mang nội dung chủ yếu là phản ánh cuộc đấu tranh
cứu quốc vĩ đại của dân tộc, tuyên truyền cách mạng, ca ngợi quê hương đất nước
và con người miền núi trong giai đoạn mới bám sát đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể như: tổ chức cuộc sống
định canh, định cư, xây dựng hợp tác xã nông nghiệp,xây dựng làng bản quê
hương, xây dựng công trình thuỷ lợi, khai thác mỏ, rồi tòng quân,đánh giặc
“…hình ảnh những người dân tộc quyết tâm bám giữbản làng khỏi sự tàn phá
của kẻ thù đã trở thành những biểu tượng đẹp đẽ của tình yêu nước thiết tha, sâu
nặng. Họ không chỉ là những người trực tiếp cầm súng chiến đấu hay có mặt nơi
chiến trường mà lòng yêu nước ấy còn có ở những người đang ngày đêm lao
động để làm hậu phương vững chắc cho người lính”[13, tr. 130].Đặc biệt là hình
ảnh con người miền núi với khát vọng “đi về phía sáng” trong công cuộc xây
dựng xã hội mới được phản ánh khá rõ nét. Đọc tác phẩm Ché Mèn được đi họp
của Nông Minh Châu, người đọc đã bắt gặp hình ảnh Ché Mèn, một nữ thanh
niên miền núi giác ngộ và trưởng thành trong quá trình xây dựng cuộc sống mới


15


“Mèn nhờ bạn viết giúp lá đơn. Từ đó Mèn là một đoàn viên thanh niên lao động.
Mèn được biết về Đoàn, Mèn càng gần Đảng. Cái hăng hái của Mèn càng rõ
ràng” [37, tr.127]. Ché Mèn dù mới 18 tuổi nhưng cô đã dám chống lại các hủ
tục mê tín, lạc hậu của đồng bào mình, đưa khoa học kĩ thuật vào phát triển sản
xuất mang lại ấm no cho gia đình và làng bản. Quả vậy, sau Ché Mèn là hàng
loạt nhân vật trẻ náo nức, mê say trong công cuộc lao động dựng xây chủ nghĩa
xã hội. Tóm lại văn xuôi thời kỳ này chủ yếu viết về con người, quê hương miền
núi, mang đến hơi thở và nhịp đập của núi rừng. Ngòi bút của họ chạm đến từng
kẽ lá, từng ngọn cỏ, từng mảnh đời, từng số phận nơi miền núi.Khơi thông một
vấn đề tưởng chừng còn xa lạ với tư duy của người miền núi đó là đặt nhân vật
trung tâm là người phụ nữ DTTS dám đứng lên đòi quyền sống, quyền được yêu,
được thỏa mãn khát vọng bản năng.
Từ sau 1975 và đặc biệt là từ sau 1986, đây là thời kỳ mà văn xuôi DTTS
phát triển khá mạnh mẽ“Dưới ánh sáng soi đường của Đảng, cuộc sống của đồng
bào vùng cao từng bước khởi sắc. Vẫn là sự hào hứng của kiến thiết, dựng xây,
đổi mới cuộc sống nhưng hiện thực miền núi có những sắc màu riêng, vấn đề
riêng- chung làm nên chất liệu thực tế của văn xuôi” [13, tr134].Trong không
khí hòa bình và xây dựng cuộc sống mớixuất hiện trong trang viết của các nhà
văn là những con người mới, cuộc sống mới trên tất cả các mặt trận sản xuất và
chiến đấu, ca ngợi sự đổi đời của nhân dân các dân tộc từ cuộc sống nô lệ tối tăm
đã vươn lên làm chủ cuộc đời, làm chủ khoa học kỹ thuật, ca ngợi cuộc đấu tranh
chống những hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan, chống bảo thủ, tham ô, qua các tác
phẩm như:Đất bằng, Vãi Đàng của Vi Hồng. Cảm hứng phê phán cái cũ, cái lạc
hậu còn được thể hiện ở nhiều tác phẩm như: Hai mẹ con của Triều Ân; Gánh
nước cuối cùng của Nông Viết Toại…Sáng tác của Vi Hồng ra đời trong thập
niên chín mươi của thế kỉ XX đã đề cập tới những vấn đề nóng bỏng của xã hội

miền núi đương đại, mà khẩn thiết nhất là cuộc đấu tranh đầy căng thẳng, gay go
giữa hai lực lượng đối lập và thù địch: tốt - xấu, thiện - ác. Vấn đề người cán bộ,

16


người trí thức trong xã hội miền núi hiện thời cũng là những trăn trở và suy nghĩ
đau đáu trong tư duy của nhà văn. Nhân vật như Tú, Quản, On…được nhà văn
Vi Hồng xây dựng như những tấm chân dung điển hình về người trí thức giàunghị
lực, vượt mọi khó khăn để khẳng định mình. Sáng tác của Cao Duy Sơn hấp dẫn
người đọc ở cách cảm nhận mới mẻ và chân thực về tâm hồn và tính cách đồng
bào miền núi, ở ý thức soi chiếu nhân vật dưới góc độ đời tư và một ngôn ngữ
đậm chất văn xuôi.Hiện thực cuộc sống mà nhà văn đề cập đến trong những tác
phẩm của mình là những vấn đề muôn thủa của cuộc đời về số phận con người
đặc biệt là người phụ nữ. Những câu chuyện tình với những mối tình lỡ dở, không
được hưởng hạnh phúc trọn vẹn của Khơ và Dình, Sinh và Ếm, Khuề và
Ban…Mặc dù vậy, trong tâm hồn họ luôn chứa đựng sự chân thành và thủy
chung. Dù cho vật đổi sao dời thì tình cảm thủy chung ban đầu của họ vẫn vẹn
nguyên không thay đổi. Ngoài ra Cao Duy Sơn cũng vẽ lên hiện thực về cuộc
sống đầy gian khổ của những giáo viên cắm bản, với bao gian khó, cực nhọc
nhưng vì tình yêu với núi rừng, vớibà con dân bản mà họ sẵn sang cống hiến sức
trẻ của mình nơi vùng cao…Đó cũng là những hình ảnh đẹp và đầy xúc động
trong những sáng tác của các nhà văn DTTS.
Khi mà đời sống dân chủ cởi mở và cơ chế xuất bản, in ấn, phát hành thuận
lợi khiến cho số lượng tác phẩm xuất bản nhiều chưa từng có trong một thời gian
ngắn. Văn xuôi DTTS thời kì này có nhiều tác phẩm hướng về công cuộc xây
dựng đời sống, phát triển kinh tế ở miền núi và cả những vấn đề cũ mà trước đây
do cái nhìn hạn hẹp và vốn sống chưa phong phú nên văn xuôi DTTS còn chưa
đề cập tới. Các nhà văn hướng ngòi bút của mình phản ánh cuộc đấu tranh gian
khổ trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, xây dựng cuộc sống mới nơi vùng

cao, dám nhìn thẳng vào sự thật để phản ánh những lối sống thực dụng,vô đạo
đức của một bộ phận người dân miền núi đã phá vỡ sự bình yên, trong trẻo vốn
có của núi rừng như: Gió hoang(1992) của Ma Trường Nguyên; Cao nguyên
trắng của Mã A Lềnh; Vùng đồi gió quẩn(1994) của Sa Phong Ba;Đàn trời

17


(2006), Chòm ba nhà(2009)của Cao Duy Sơn…
Nhiều nhà văn DTTS có ý thức đi sâu tìm hiểu cuộc đời và thân phận con
người. Đặc biệt với sự xuất hiện của các nữ nhà văn DTTS, do sự nhạy cảm của
giới mình đã có những trang viết cảm động chia sẻ và cảm thông sâu sắc với số
phận nhiều éo le trắc trở của những người phụ nữ miền núi. Một số tác phẩm đã
thể hiện hạnh phúc cá nhân, đời thường, những câu chuyện về tình yêu nhiều
sóng gió… Đặc biệt là đi sâu khai thác số phận những người phụ nữ để thấy được
bức tranh toàn cảnh về những người phụ nữ vùng cao bao đời bị sự kìm kẹp bởi
những hủ tục lạc hậu, bị đày đọa cùng với bao khó khăn, thử thách trong cuộc
sống nhưng luôn khát khao được hạnh phúc và vươn lên để thể hiện chính mình.
Trong tâm hồn họ vẫn ánh lên những phẩm chất tốt đẹp, những hoài bão ước mơ
về một tương lai tươi sáng.
Về nghệ thuật: Có thể khẳng định, nghệ thuật xây dựng nhân vật và việc
sử dụng ngôn ngữ giản dị, linh hoạt, mang đậm sắc thái dân gian là những hình
thức nghệ thuật độc đáo của văn xuôi DTTS miền núi phía Bắc đã tạo nên một
bản sắc riêng cho bộ phận văn học này. Pautopxki đã nói: "Những nhân vật và
những tính cách sinh động chính là tấm huân chương cao quí của nhà văn", nhân
vật giữ một vai trò hết sức quan trọng trong thành công của một tác phẩm, một
tác giả văn học.
Với các nhà văn DTTS khi xây dựng nhân vật trong các sáng tác của mình
đều chịu ảnh hưởng của thi pháp dân gian, kết thúc đều là kẻ ác bị trừng trị, người
tốt được hưởng hạnh phúc. Khi xây dựng bất kì một loại nhân vật nào, các nhà

văn luôn chú ý tới việc khắc họa tính cách của nhân vật qua đó thể hiện quan
niệm của tác giả và tư tưởng nghệ thuật của nhà văn.Mỗi nhân vật đều được
khám phá trên nhiều khía cạnh về ngoại hình, tính cách, hành động, suy nghĩ,
cảm xúc... Và đặc biệt về thế giới nội tâm nhân vật. Một điều đáng chú ý ở đây
là những sáng tác viết về người phụ nữ miền núi với vẻ đẹp mộc mạc, chân thực
và đặc biệt viết về người con gái đẹp miền núi, các nhà văn thường ưu ái ví họ

18


×