VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ XUÂN DŨNG
SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG DỰ ÁN
PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
HÀ NỘI, 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ XUÂN DŨNG
SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG DỰ ÁN
PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM TIẾN NAM
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội về “ Sự tham
gia của người dân trong dự án phát triển cộng đồng từ thực tiễn huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi
dưới sự hướng dẫn của TS Phạm Tiến Nam. Số liệu và kết quả nghiên cứu
trong luận văn là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác
trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Vũ Xuân Dũng
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Công tác xã
hội với đề tài “Sự tham gia của người dân trong dự án phát triển cộng đồng từ
thực tiễn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội” ngoài sự nỗ lực của bản thân,
tôi còn nhận được rất nhiều sự giúp đỡ tận tình của thầy cô, chính quyền và
người dân huyện Chương Mỹ, gia đình và bạn bè.
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới TS Phạm
Tiến Nam, Đại học Thăng Long là người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và
giúp đỡ trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô, nhà khoa học đang công tác tại
Học viện Khoa học Xã hội đã tạo điều kiện về thời gian cũng như hỗ trợ các
tài liệu học tập cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới UBND huyện Chương Mỹ, UBND xã Thụy
Hương, cán bộ dự án, cán bộ địa phương và người dân huyện Chương Mỹ,
thành phố Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi khảo sát, nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các bạn đồng nghiệp đã nhiệt tình
hỗ trợ trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Dù đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót.
Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy giáo, cô giáo, các
nhà khoa học để luận văn của tôi được hoàn chỉnh.
Hà Nội, tháng 12 năm 2016
Tác giả luận văn
Vũ Xuân Dũng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA CỦA
NGƯỜI DÂN TRONG DỰ ÁN PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG ................... 12
1.1. Hệ thống khái niệm nghiên cứu ........................................................... 12
1.2. Lý luận dân chủ cơ sở trong dự án phát triển cộng đồng ..................... 18
1.3. Lý luận về các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia của người dân trong dự
án phát triển cộng đồng ................................................................................ 23
1.4. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về dân chủ cơ sở trong phát triển cộng
đồng ............................................................................................................. 30
Chương 2: THỰC TRẠNG SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG TẠI HUYỆN CHƯƠNG MỸ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................................................................ 38
2.1.Tổng quan về địa bàn và khách thể nghiên cứu....................................... 38
2.2.Thực trạng sự tham gia của người dân trong dự án phát trển cộng đồng tại
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội .......................................................... 43
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia của người dân trong dự án phát
triển cộng đồng tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội............................ 59
Chương 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM THÚC ĐẨY SỰ THAM
GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG DỰ ÁN PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI. ......... 64
3.1. Đối với nhà tài trợ ................................................................................ 64
3.2. Đối với chính quyền địa phương.......................................................... 64
3.3 Đối với tác viên cộng đồng ................................................................... 65
3.4. Với nhân dân địa phương ..................................................................... 66
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Người dân biết đến dự án PTCĐ qua các kênh thông tin ................. 44
Bảng 2.2: Người dân biết đến những nội dung của dự án ................................. 45
Bảng 2.3: Người dân biết về mức độ cần thiết biết đến dự án ........................... 46
Bảng 2.4: Những hình thức tham gia bàn bạc ................................................... 48
Bảng 2.5: Bàn bạc những nội dung công việc trong dự án ............................... 49
Bảng 2.6: Mức độ cần thiết tham gia bàn bạc dự án......................................... 51
Bảng 2.7: Người tham gia dự án ....................................................................... 52
Bảng 2.8: Thành phần tham gia quyết định triển khai dự án ............................. 54
Bảng 2.9. Mức độ cần thiết khi tham gia đóng góp trong dự án ........................ 55
Bảng 2.10: Tham gia đóng góp trong dự án ...................................................... 56
Bảng 2.11: Mức độ cần thiết của việc kiểm tra/giám sát dự án ......................... 57
Bảng 2.12: Thành phần tham gia kiểm tra/giám sát dự án ................................ 58
Bảng 2.13: Những yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia của người dân ............... 59
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới công tác xã hội đang là ngành phát triển mạnh đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. CTXH đối với các cộng đồng yếu thế là
một lĩnh vực không còn xa lạ ở các cộng đồng Việt Nam cũng như các nước
trên thế giới. Phát triển cộng đồng hiểu đơn giản là một tiến trình giải quyết
một số vấn đề khó khăn của cộng đồng, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng,
hướng tới sự phát triển không ngừng về đời sống vật chất và tinh thần của
người dân thông qua việc nâng cao năng lực, tăng cường sự tham gia, đoàn
kết, phối hợp chặt chẽ giữa người dân với nhau, giữa người dân với các tổ
chức và giữa các tổ chức với nhau trong phạm vi một cộng đồng. Phương
pháp phát triển cộng đồng trong công tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao năng
lực cho người dân tại các cộng đồng ở Việt Nam trong hơn hai thập niên đã
đạt được nhiều thành tựu, được cộng đồng quốc tế ghi nhận là một trong số ít
các nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất thế giới. Trong vài thập kỷ gần
đây với những chính sách đổi mới của Chính phủ trong đường lối phát triển
kinh tế đó là “Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, với các chính sách hỗ
trợ tích cực của Chính phủ cho các lĩnh vực giảm nghèo, xây dựng nông thôn
mới, cùng sự mở cửa và hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới
đã mang lại những thành tựu nhất định cho Việt Nam trong các lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, xã hội như thu nhập bình quân đầu người tăng từ mức dưới 100
USD lên khoảng 2.025 USD vào năm 2014, tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ 58%
năm vào năm 1993 – 1994 xuống 8,4% năm 2014. (Nguồn tổng cục thống kê
năm 2015). Đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt. Nhà nước đã chăm
lo đến đời sống của nhân dân bằng nhiều chính sách an sinh xã hội. Song bên
cạnh đó mặt trái của quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước
ta đã bộc lộ nhiều vấn đề xã hội bức xúc như: Sự phân hóa giàu nghèo ngày
càng rõ rệt làm một bộ phận người dân rơi xuống dưới lưới an sinh xã hội, sự
1
phân hóa giữa vùng miền. Thực tế cho thấy rằng, phát triển cộng đồng ở Việt
Nam vẫn còn chứa đựng nhiều khó khăn và thách thức, làm thế nào để tăng
năng lực cho người nghèo, phát huy thế mạnh nội lực, giúp người nghèo loại
bỏ tâm lý trông chờ, ỷ lại, an phận.
Một yếu tố chủ yếu trong chiến lược phát triển cộng đồng là “sự tham
gia của người dân”. Nó đã chứng tỏ là một trong những thành tố chính của
phát triển trong thời gian gần đây vì nhiều lý do.
Một là, sự tham gia của người dân là phương tiện hữu hiệu để huy động
tài nguyên địa phương, tổ chức và tận dụng năng lực sự khôn ngoan, tính sáng
tạo của người dân vào các hoạt động phát triển.
Hai là, nó giúp xác định nhu cầu khởi đầu của cộng đồng và giúp
tiến hành những hoạt động phái triển để đáp ứng những nhu cầu này. Quan
trọng hơn cả là sự tham gia của người dân giúp cho dự án hay hoạt động
được công nhận, khuyến khích người dân tham gia thực hiện, và đảm bảo
khả năng bền vững.
Từ đó tạo ra sự thay đổi trong cộng đồng thông qua việc xây dựng năng
lực cộng đồng và việc thu hút sự tham gia ở mọi cấp độ của người dân trong
các hoạt động cộng đồng là nguyên tắc giúp cho người dân được nâng cao
năng lực, tiến tới tự lực.
Sự tham gia của người dân trong dự án phát triển cộng đồng là một
trong những biểu hiện của dân chủ cơ sở qua việc triển khai quy chế DCCS,
tạo một nền tảng bền vững, hiệu quả và khả thi cho các chương trình, dự án
giảm nghèo tại Việt Nam. Nó là khung pháp lý nhằm mở rộng cơ hội tham gia
cho người dân vào quá trình đưa ra quyết định về các công việc của cộng
đồng cơ sở, thúc đẩy sự phát triển của xã hội, hướng tới phát triển bền vững.
Việc tham gia của người dân tham gia vào các hoạt động cộng đồng chịu tác
động bởi nhiều yếu tố, trong đó có những yếu tố từ bản thân người dân, tác
2
viên cộng đồng, lãnh đạo địa phương, nhà tài trợ và về văn hóa – phong tục
tập quán.
Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã triển khai hàng loạt các
chương trình, dự án nhằm hướng tới mục tiêu phát triển cộng đồng bền vững
trong đó nhấn mạnh đến các yếu tố dân chủ. Dân chủ trong phát triển cộng
đồng là nhân tố quan trọng đánh giá thành công của các dự án. Đảm bảo dân
chủ là huy động sự tham gia của người dân trong việc bàn bạc, lập kế hoạch,
triển khai và giám sát công việc của dự án, góp phần phát huy nội lực, tinh
thần sáng tạo của người dân trong giải quyết các vấn đề của cộng đồng.
Quan trọng hơn, đó là việc trao quyền tự quyết và tiến tới cộng đồng tăng
năng lực.
Hiện nay, chưa có nhiều nghiên cứu về sự tham gia của người dân
trong dự án phát triển cộng đồng dưới góc độ công tác xã hội. Vì vậy,
nghiên cứu về thực trạng sự tham gia của người dân trong dự án phát triển
cộng đồng và các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng là hết sức cần thiết. Qua
đó, góp phần nâng cao hiệu quả, tính chuyên nghiệp trong các dự án phát
triển cộng đồng tại địa phương. Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài:
“Sự tham gia của người dân trong dự án phát triển cộng đồng từ thực tiễn
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, các cách tiếp cận phát triển cộng đồng dựa
trên nội lực của cộng đồng và sự tham gia của người dân nhận được sự quan
tâm đặc biệt của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các chuyên gia, học giả
trong và ngoài nước. Trong phạm vi nghiên cứu luận văn này, tác giả lựa
chọn và phân tích một số công trình nghiên cứu, bài viết, tạp chí tiêu biểu.
Tác giả Hoàng Anh Dũng (2013), phát triển cộng đồng dựa vào nguồn
lực và tài sản cộng đồng, đã nhấn mạnh về phương pháp tiếp cận dựa vào nhu
cầu và tài sản cộng đồng (Kết nối mạng lưới tổ chức, cá nhân...) để phát triển.
3
Ông xem yếu tố phát huy nội lực cộng đồng là yếu tố quyết định cho sự thay
đổi, phát triển của cộng đồng chứ không phải các yếu tố hỗ trợ từ bên ngoài.
Phát triển cộng đồng dựa vào tài sản và nguồn lực trong cộng đồng khởi điểm
từ các tài sản và sức mạnh hiện có của cộng đồng, đặc biệt sức mạnh vốn có
trong các hội, nhóm cộng đồng và mạng lưới xã hội trong cộng đồng. Tầm
quan trọng của mối quan hệ xã hội trong cộng đồng nhằm kết nối những
hoạt động địa phương để tạo cơ hội cho mọi người dân trong cộng đồng tự
nguyện tham gia. Xây dựng mối quan hệ tài sản và nguồn lực của địa
phương để giải quyết những vấn đề khó khăn và cùng nhau đem đến lợi ích
chung cho cộng đồng
Phát triển cộng đồng ở Việt Nam hiện nay: Một phân tích về các cách
tiếp cận của tác giả Trịnh Văn Tùng & Nguyễn Thu Trang năm 2012 đã phân
tích về các cách tiếp cận khác nhau trong phát triển cộng đồng ở Việt Nam
hiện nay. Tuy nhiên, xét về chiều hướng tiếp cận, có thể phân ra hai cách tiếp
cận chính: tiếp cận từ nội lực cộng đồng (bottom-up) và tiếp cận chủ quan của
chuyên gia (top-down). Hướng tiếp cận áp đặt của các chuyên gia vốn được
ứng dụng nhiều trong giai đoạn trước. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, khi
Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới mạnh mẽ, phát triển nhanh chóng kinh tế
với tốc độ xói đói giảm nghèo lớn của nước có thu nhập trung bình thấp, các
hướng tiếp cận lấy con người làm trung tâm ngày càng có chỗ đứng trong
công tác trợ giúp chuyên nghiêp. Do đó, hướng tiếp cận dựa vào nội lực với
đặc trưng trao quyền cho cộng đồng và sự tham gia của người dân để đảm bảo
đáp ứng nhu cầu cấp thiết của cộng đồng cũng như tính bền vững ngày càng
được chú trọng thay vì cách tiếp cận cũ. Đây cũng được xem là xu hướng chủ
yếu của phát triển cộng đồng trên thế giới.
Phát triển kinh tế cộng đồng (CED) – Từ thực tiễn đến việc triển khai
áp dụng tại Việt Nam của Đỗ Văn Toản (2012) đã giúp chúng ta có cái nhìn
khái quát về phát triển kinh tế cộng đồng cũng như mong muốn hướng đến
4
của cách tiếp cận này áp dụng triển khai tại các cộng đồng, vùng nông thôn tại
Việt Nam, nhằm giúp cho cộng đồng tổ chức các hoạt động kinh tế, mang lại
thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống, tăng cường sự nỗ lực, tính tự chủ
của người dân tại các cộng đồng và vùng nông thôn tại Việt Nam. Cách tiếp
cận này nhấn mạnh đến sự trao quyền và sự tham gia của người dân trong
hoạt động phát triển kính tế cộng đồng. Tác giả cũng đã làm rõ một số yếu
tố ảnh hưởng đến sự tham gia của người dân trong hoạt động phát triển
kinh tế cộng đồng như văn hóa cộng đồng, nhận thức của người dân và
chính quyền địa phương, trình độ chuyên môn của cán bộ thực hiện, và cách
thức thực hiện.
Vũ Hồng Hải (2016) với công trình nghiên cứu “Quản lý thảm họa dựa
vào cộng đồng từ thực tiễn thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh” đã mô tả sự
tham gia của người dân trong chu trình quản lý thảm họa (trước, trong và sau
thảm họa). Sự tham gia của người dân còn mang tính hính thức, chưa thực sự
chủ động, đặc biết nhóm đối tượng yếu thế (người nghèo, người khuyết tật,
người cao tuổi...) còn ít tham gia trong hoạt động quản lý thảm họa tại cộng
đồng. Do đó, khả năng phòng ngừa của nhóm đối tượng này trước những tác
động của thảm họa thiên tai còn hạn chế, dễ rơi vào tình trạng dễ bị tổn
thương. Nghiên cứu cũng đã đề xuất các bên có liên quan trong việc nâng cao
sự tham gia của người dân trong dự án quản lý thảm họa tại cộng đồng.
Theo tài liệu của CFSI (2012), lịch sử phát triển cộng đồng ở Việt Nam
được biết đến PTCĐ từ những thập kỷ 50 thông qua một số dự án “Trường
cộng đồng” của UNESCO với mô hình trường vừa là một trung tâm đóng góp
vào sự phát triển của địa phương, vừa phát triển dựa vào sự hỗ trợ của địa
phương. Ở đây học sinh không những học chữ mà còn học những kỹ năng
trồng trọt, chăn nuôi, vệ sinh...có ích cho phát triển nông thôn. Sau giải
phóng, nhất là từ thập kỷ 90, nhiều tổ chức quốc tế vào Việt Nam sử dụng
phương thức PTCĐ (vận động sự tham gia của người dân) vào các dự án phát
5
triển ở vùng nông thôn lẫn thành thị. Có những dự án lớn do các tổ chức quốc
tế đầu tư hay những dự án vừa và nhỏ do địa phương chủ xướng. Ở nông thôn
các dự án thường liên quan đến nhà vệ sinh, môi trường, nước sạch, sức khỏe,
tín dụng...Ở thành phố có những dự án cải thiện đời sống ở các khu dân cư
nghèo trong phạm vi khu xóm, phường xã. Từ vài năm nay PTCĐ có nghĩa là
sự tham gia, nâng cao nhận thức tăng năng lực của người dân và cán bộ địa
phương, và củng cố các thiết chế cơ sở, trở thành một tiêu chí chính thức để
hỗ trợ, bổ sung cho khía cạnh kinh tế, kỹ thuật, trong các dự án lớn điển hình
là dự án “Làm sạch và nâng cấp Kênh Lò Gốm (Quận 6, TP. Hồ Chí Minh)”,
một dự án hợp tác song phương giữa hai Chính phủ Bỉ - Việt, mà ở đó cần có
sự tham gia của người dân tại cộng đồng như một trong những nhân tố quyết
định, để chương trình đạt được tính hiệu quả bền vững.
Qua quá trình tổng quan một số công trình nghiên cứu có liên quan đến
đề tài, có thể thấy rằng sự tham gia của người dân trong các dự án phát triển
cộng đồng luôn là mối quan tâm của cộng đồng quốc tế và của Đảng, Nhà nước
Việt Nam. Tuy vậy, tiếp cận từ góc nhìn công tác xã hội đối với sự tham gia
của người dân trong dự án phát triển cộng đồng còn hạn chế và số lượng và
chất lương. Đó cũng là một trong những lý do chính để tôi thực hiện nghiên
cứu về vấn đề này
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực trang sự tham gia của
người dân trong dự án phát triển cộng đồng và các yếu tố ảnh hưởng đến thực
trạng tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Qua đó, đề xuất một số
khuyến nghị để tăng cường sự vào cuộc của người dân trong dự án phát triển
cộng đồng tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
6
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về sự tham gia, sự tham gia của
người dân trong dự án phát triển cộng đồng.
Khảo sát và đánh giá thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham
gia của người dân trong dự án phát triển cộng đồng tại huyện Chương Mỹ,
thành phố Hà Nội.
Đưa ra một số khuyến nghị nhằm tăng cường sự tham gia của người
dân trong dự án phát triển cộng đồng từ thực tiễn huyện Chương Mỹ, thành
phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự tham gia của người dân trong dự án phát triển cộng đồng từ thực
tiễn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
4.2. Khách thể nghiên cứu
Các hộ dân (100 hộ dân) bao gồm những người dân sống trên địa
bàn 2 thôn Chúc Đồng 1 và Chúc Đồng 2 xã Thụy Hương, huyện Chương
Mỹ, thành phố Hà Nội. 02 cán bộ xã, 01 cán bộ dự án, 02 cán bộ thôn, 04
người dân.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Phạm vi về nội dung
- Nghiên cứu sự tham gia của người dân trong dự án phát triển cộng
đồng từ thực tiễn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội; sự tham gia của
người dân bao gồm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra trong dự án phát
triển cộng đồng về cái gì?
4.2.2. Phạm vi về không gian, thời gian:
- Về không gian: Nghiên cứu sự tham gia của người dân tại 02 thôn
Chúc Đồng 1, Chúc Đồng 2 thuộc Xã Thụy Hương, huyện Chương Mỹ, thành
phố Hà Nội. Mỗi thôn khảo sát 50 người dân
- Về thời gian: Đề tài được thực hiện từ tháng 9 đến tháng 12 năm 2016
7
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận của nghiên cứu
Phương pháp luận là hệ thống lý luận về phương pháp nghiên cứu,
phương pháp nhận thức và cải tạo hiện thực, là hệ thống chặt chẽ các quan
điểm, nguyên lý chỉ đạo việc tìm kiếm, xây dựng lựa chọn và vận dụng các
phương pháp. Tất cả những nguyên lý nào có tác dụng gợi mở, định hướng,
chỉ đạo đều là những lý luận và nguyên lý có ý nghĩa phương pháp luận. Cùng
hệ thống các quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về dân chủ cơ sở
trong phát triển cộng đồng
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu và phân tích tài liệu:
Phương pháp nghiên cứu và phân tích tài liệu là phương pháp sử dụng
các kỹ thuật chuyên môn nhằm thu thập thông tin, số liệu, nội dung từ các
nguồn tài liệu đã được công bố hoặc kết luận rút ra từ các nguồn tài liệu
những thông tin cần thiết trong quá trình nghiên cứu của bản thân.
Nghiên cứu dựa trên các báo cáo, đề án, chương trình phát triển kinh tế
xã hội của địa phương và các ngành chức năng, tìm hiểu các công trình khoa
học trên địa bàn liên quan đến phát triển cộng đồng đối với người dân huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, các tài liệu liên quan đến sự tham gia của
người dân, phát triển cộng đồng, và công tác xã hội...
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Tiến hành phỏng vấn sâu với các nhóm đối tượng là cán bộ lãnh đạo địa
phương, các tổ chức chính trị xã hội, các hộ dân, đặc biệt là trưởng thôn,
trưởng các nhóm người dân tại địa bàn nghiên cứu. Nghiên cứu tiến hành
phỏng vấn sâu 02 cán bộ xã, 02 cán bộ thôn, 01 cán bộ dự án và 04 người dân
sống. Nội dung phỏng vấn sâu tập trung vào cách tiếp cận thông tin của người
dân về dự án, người cung cấp thông tin về dự án, sự dân chủ trong bàn bạc,
đưa ra các ý kiến trong cuộc họp, người tham gia bàn bạc và nội dung công
8
việc tham gia bàn bạc, nhận thức mức độ cần thiết về sự tham gia của người
dân (dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra) cũng như các yếu tố ảnh
hưởng đến sự tham gia của người dân
- Phương pháp điều tra bảng hỏi:
Phương pháp điều tra bảng hỏi là phương pháp thu thập thông tin thông
qua việc sử dụng một bảng soạn sẵn, người điều tra phát bảng hỏi, hướng dẫn
cách trả lời, người được hỏi sẽ tự mình ghi câu trả lời ra phiếu bảng hỏi. Điều
tra viên thu lại và xử lý. Phát bảng hỏi cho 100 hộ dân ở 02 thôn Chúc Đồng 1
và Chúc Đồng 2 thuộc xã Thụy Hương, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà
Nội, đây là những người dân sinh sống trong địa bàn thôn. Nội dung bảng hỏi
liên quan đến sự tham gia của người dân trong dự án PTCĐ, thông qua việc
biết đến nội dung của dự án triển khai ở địa phương, mức độ cần thiết cũng
như cách thức tham gia bàn bạc những nội dung công việc của dự án, các yếu
tố ảnh hưởng đến sự tham gia của người từ tác viên cộng đồng, người dân,
chính quyền địa phương, nhà tài trợ và các yếu tố văn hóa – phong tục tập
quán. Thông qua đó đề xuất một số khuyến nghị để tăng cường sự vào cuộc
của người dân trong dự án phát triển cộng đồng tại huyện Chương Mỹ, thành
phố Hà Nội.
Nhằm đánh giá về mức độ tham gia của người dân tại huyện Chương
Mỹ, thành phố Hà Nội khi triển khai dự án phát triển cộng đồng. Chúng tôi
xây dựng bảng hỏi để đánh giá về người dân biết đến các dự án và thông tin
về dự án, qua các kênh thông tin nào, người dân có nắm rõ thông tin dự án,
tham gia bàn bạc những nội dung công việc của dự án trong dự án. Đo lường
thực tế việc áp dụng các phương pháp, cách tiếp cận của người dân vào dự án
phát triển cộng đồng, vài trò của người dân trong việc triển khai các hoạt
động tại cộng đồng... từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp phù hợp với
thực trạng của cộng đồng và tình hình của địa phương
- Phương pháp quan sát:
9
Đối tượng và nội dung cần quan sát để thu thập thông tin đầy đủ cho đề
tài đó là thực tiễn sự tham gia của người dân trong dự án phát triển cộng đồng
tại địa bàn nghiên cứu. Phương pháp được thực hiện thường xuyên trong quá
trình nghiên cứu và thực hiện đề tài để có cái nhìn thật sự khách quan và chân
thực, cụ thể nhất về vấn đề cần nghiên cứu.
- Phương pháp tham gia:
Để có nhìn nhận đánh giá chân thực, khách quan nhất về vấn đề
nghiên cứu, tác giả sẽ tham gia trực tiếp vào các hoạt động phát triển cộng
đồng tại địa phương như một tác viên cộng đồng. Khi là người trong cuộc,
cùng với người dân trong cộng đồng tham gia vào các hoạt động sẽ hiểu
được những mong muốn thực sự của người dân, những thuận lợi, khó khăn,
thế mạnh...của cộng đồng từ đó có những kiến nghị và giải pháp hỗ trợ hiệu
quả và thiết thực hơn.
Những thông tin thu được từ quá trình trực tiếp tham gia hoạt động phát
triển cộng đồng với người dân tại địa bàn nghiên cứu cùng với thông tin thu
thập được qua xử lý tài liệu, phỏng vấn sâu sẽ cho tác giả cái nhìn sâu sắc,
đầy đủ và bao quát, khách quan, độ chính xác cao về vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài sẽ góp phần xây dựng hệ thống lý luận về sự tham gia của
người dân trong dự án phát triển cộng đồng: dân biết, dân bàn, dân làm và
dân kiểm tra.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu giúp cho người dân trong cộng đồng nhìn nhận một
cách đầy đủ về vai trò và trách nhiệm của mình trong các hoạt động chung
của cộng đồng nơi mình đang sinh sống, nhìn nhận được một cách đầy đủ về
các nguồn lực của cộng đồng, tài sản hiện có và thế mạnh của cộng đồng từ
đó nâng cao nhận thức và phát huy các giá trị truyền thống, phát huy sức
10
mạnh đoàn kết để phát triển cộng đồng bền vững. Qua đó người cán bộ và
chính quyền cơ sở có trách nhiệm trong việc góp phần thúc đẩy việc thực hiện
dân chủ cơ sở tại địa phương, có vậy thì người dân ngày càng có ý thức hơn
về trách nhiệm của họ đối với các công việc chung của cộng đồng.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
thì nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về sự tham gia của người dân trong
dự án phát triển cộng đồng.
Chương 2: Thực trạng sự tham gia của người dân trong dự án phát
triển cộng đồng tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
Chương 3: Một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy sự tham gia của người
dân trong dự án phát triển cộng đồng từ thực tiễn huyện Chương Mỹ, thành
phố hà Nội
11
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN
TRONG DỰ ÁN PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
1.1. Hệ thống khái niệm nghiên cứu
1.1.1. Sự tham gia
Tham gia là những sự việc khác nhau đối với những người khác nhau.
Một vài định nghĩa về tham gia như sau:
Tham gia bao gồm sự can dự của người dân trong tiến trình ra quyết
định, trong thực hiện chương trình, chia sẻ quyền lợi của các chương trình
phát triển cũng như trong đánh giá những chương trình này (Cohen và
Uphoff, 1977).
Sự tham gia của người dân chủ yếu là tạo mối quan hệ với kinh tế và
chính trị trong diện rộng xã hội; nó không chỉ là sự can dự trong những hoạt
động dự án, mà hơn nữa là tiến trình trong đó người dân nông thôn có khả
năng tự tổ chức, thông qua tổ chức của riêng họ, họ có khả năng xác định nhu
cầu của mình, chia sẻ thiết kế, thực hiện và lượng giá hành động cùng tham
gia (FAO, 1982)
Sự tham gia của cộng đồng là một tiến trình chủ động qua đó người thụ
hưởng hay nhóm thân chủ ảnh hưởng định hướng và sự thực hiện một dự án
phát triển với quan điểm nâng cao chất lượng cuộc sống về thu nhập, tăng
trưởng cá nhân, tự tin hoặc những giá trị khác mà họ mong ước (Paul, 1987).
Định nghĩa thuật ngữ “Sự tham gia của cộng đồng” Theo Clanrence
Shubert là quá trình trong đó có các nhóm dân cư của cộng đồng tác động
vào quá trình quy hoạch, thực hiện, quản lý sử dụng hoặc duy trì một dịch vụ,
trang thiết bị hay phạm vi hoạt động. Các hoạt động cá nhân không có tổ
chức sẽ không được coi là sự tham gia của c đồng [32].
12
Sự tham gia của cộng đồng là một quá trình mà Chính phủ và cộng
đồng cùng nhận một trách nhiệm cụ thể và tiến hành các hoạt động để cung
cấp các dịch vụ đô thị cho tất cả cộng đồng [7].
Sự tham gia của cộng đồng là đảm bảo là đảm bảo cho những người
chịu ảnh hưởng của dự án được tham gia vào việc quyết định dự án.
Sự tham gia của cộng đồng là tìm và huy động các nguồn lực của cộng
đồng, qua đó để tăng lợi ích cho cộng đồng dân cư giảm các chi phí, tăng hiệu
quả kinh tế và hiệu quả chính trị cho nhà nước.
1.1.2. Người dân
Theo từ điển Bách khoa toàn thư “ Nhân dân hay còn gọi là người dân,
quần chúng, dân là thuật ngữ chỉ về toàn thể những con người sinh sống trong
một quốc gia”.
Quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh về khái niệm nhân dân, việc hiểu
đúng khái niệm “nhân dân”, thường được sử dụng trong các văn kiện của
Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng Đảng,
trong công tác vận động nhân dân...góp phần thực hiện tốt đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Trong cuộc đời hoạt động, Chủ tịch Hồ
Chí Minh không ít lần nêu ra quan niệm về nhân dân ta. Có lúc Người nói
rằng nhân dân ta gồm “gái trai già trẻ” của “năm lớp Sĩ, Nông, Công,
Thương, Binh”. Có lúc người chỉ rõ rằng: “Nhân dân là bốn giai cấp công,
nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước”. Người còn
nhấn mạnh rằng bốn giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tử sản dân tộc
và những phần tử khác yêu nước “Đó là nền tảng của quốc dân”.
Như vậy, theo quan niệm của Hồ Chí Minh thì nhân dân ta là bộ phận
gồm đông đảo những người thuộc nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau và chủ
yếu là những người lao động trong xã hội. Đó là tầng lớp tri thức (Sỹ); giai
cấp nông dân – người sống bằng nghề làm ruộng (Nông); giai cấp công nhân
13
– người lao dộng chân tay, làm việc cho chủ tư liệu sản xuất công nghiệp
hoặc làm việc cho Nhà nước trong các cơ sở công nghiệp (Công); tầng lớp
thương nhân hay tầng lớp những người buôn bán (Thương); những người làm
việc trong Quân đội Nhân dân hay là quân nhân của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa (Binh). Các tầng lớp, giai cấp nhân dân này “đoàn kết thành một
khối” như “năm cánh ngôi sao vàng trên nền đỏ Quốc kỳ Việt Nam” và là
“nền tảng của quốc dân Việt Nam”. Ngoài các tầng lớp, giai cấp lao động đó
ra, theo Hồ Chí Minh, dưới chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, “những
người khác yêu nước”, cụ thể những nhân sỹ yêu nước (là người trí thức có
danh vọng như cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Bùi Bằng Đoàn, Luật sư Trịnh
Đình Thảo) và những nhân sỹ yêu nước (là người có học thức, thuộc tầng lớp
trên của xã hội cũ như cụ Phan Kế Toại) cũng trong địa vị nhân dân. Người
dân Việt Nam nào trong địa vị nhân dân Việt Nam là người được hưởng đầy
đủ mọi quyền lợi của một công dân Việt Nam do luật pháp nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa quy định.
1.1.3. Cộng đồng
Khái niệm cộng động được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, sau đây là
một số cách tiếp cận cơ bản:
Theo quan điểm Mac xít: “cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa các cá
nhân, được quyết định bởi sự cộng đồng các lợi ích của họ, nhờ sự giống nhau
về điều kiện tồn tại và hoạt động của những người hợp thành từ cộng đồng đó
bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác của họ...”
Dưới góc độ những nhà nghiên cứu phát triển cộng đồng: “cộng đồng là
một nhóm các cư dân cùng sinh sống trong một địa vực nhất định, có cùng giá
trị và tổ chức xã hội cơ bản (cộng đồng đô thị, cộng đồng nông thôn, cộng đồng
người theo đạo thiên chúa” [7].
Trung tâm Nghiên cứu và tập huấn các dự án phát triển cộng đồng đưa ra cách
hiểu: “cộng đồng là một tập thể có tổ chức, bao gồm các cá nhân con người
14
sống ở một địa bàn nhất định, có chung một đặc tính xã hội hoặc sinh học nào
đó và cùng chia sẻ với nhau một lợi ích vật chất hay tinh thần nào đấy” [27].
Như vậy, chúng ta có thể hiểu rộng cộng đồng là một tập hợp dân cư có
cơ cấu tổ chức rõ ràng có mối quan hệ tương tác lẫn nhau và cùng nhau chia sẻ
trách nhiệm, lợi ích mà cộng đồng mang lại. Trong đời sống xã hội, cộng đồng là
một chung chỉ một tập hợp người nhất định với 2 dấu hiệu quan trọng:
(1) Họ cùng tương tác (tác động qua lại với nhau).
(2) Họ cùng chia sẻ với nhau (có chung với nhau) một hoặc vài đặc
điểm vật chất hay tinh thần nào đó.
1.1.4. Dự án phát triển cộng đồng
* Dự án
Dự án là một tập hợp các hoạt động có kế hoạch và sử dụng các
nguồn lực thực hiện để đạt được kết quả hướng tới một mục đích cụ thể với
nguồn ngân sách và thời gian nhất định. [20]
Dự án là một hoạt động đa nhiệm vụ có hiệu năng, chi phí, thời gian
phạm vi và yêu cầu, có thời điểm khởi đầu và điểm kết thúc với nguồn
ngân sách và một phạm vi xác định rõ ràng về việc các công việc cần phải
làm. Tập hợp của các dự án có cùng một mục đích hay chủ đề được gọi là
chương trình. Ví dụ: Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo: Trong
đó bao gồm các dự án về giáo dục, Y tế, hạ tầng cơ sở[20]. Một dự án có
thể là do Chính phủ tiến hành, hoặc lớn hơn là liên Chính phủ, ở cấp vi mô
là ở một huyện, hay một tổ chức thực hiện. Mức độ quan trọng của dự án
phụ thuộc vào quy mô, tổng số vốn đầu tư, thời gian tiến hành, nguồn nhân
lực cần thiết. Nếu xét dưới góc độ cá nhân, đơn giản như một kế hoạch nhỏ
được lập lên cũng coi là một dự án như: hội nghề của thanh niên, dự án cải
tạo kênh mương nội đồng....và như vậy dự án được hiểu: “Là một tập hợp
nhiều hoạt động nhằm hoàn thành những mục tiêu cụ thể, rõ ràng trong
một khoảng thời gian xác định với một nguồn ngân sách xác định”[21].
15
Phát triển cộng đồng
Có nhiều tác giả đã đưa ra những khái niệm khác nhau như: “Là một
tiến trình chuyển đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác; là một phương
pháp làm việc cùng nhau để hướng tới một mục tiêu chung; là một chương
trình nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân” (Sanders, 1958).
“Là một nhóm người trong cộng đồng hướng tới việc ra quyết định chung đối
với các hành động xã hội nhằm tạo ra sự thay đổi về kinh tế, văn hóa, xã hội
và môi trường” (Dance, 1970). “Là các hoạt động chung sức của người dân
nhằm tạo ra sự thay đổi và đáp ứng những nhu cầu đa dạng của mọi người
trong cộng đồng” (Flora et. al, 1992).
Theo Nguyễn Thị Oanh (1995): “PTCĐ là một tiến trình làm chuyển
biến cộng đồng nghèo, thiếu tự tin thành cộng đồng tự lực thông qua việc
giáo dục gây nhận thức về tình hình, vấn đề hiện tại của họ, phát huy các khả
năng và tài nguyên sẵn có, tổ chức các hoạt động tự giúp, bồi dưỡng và củng
cố tổ chức và tiến tới tự lực, phát triển” [12,28]. “Là khả năng tăng cường
năng lực, kỹ năng cho người dân và huy động các nguồn lực xung quanh để
nâng cao sức mạnh của cộng đồng và xử lý các vấn đề trong cộng đồng”
(Aspen Institute, 2000). “Là một tiến trình gia tăng sự lựa chọn. Điều đó tạo
ra một môi trường mà ở đó con người được tạo điều kiện tối đa để hiện thực
hóa những mong ước và đáp ứng nhu cầu của bản thân” (Shaffer, 2001)
Theo tác giả Mark A.Brennan – phó giáo sư trường Đại học tổng hợp
Florida Mỹ, trong tài liệu “Toward a consistent difinition of community
development”(Hướng tới một khái niệm nhất quán về phát triển cộng) “Dưới
góc độ tương tác phát triển cộng đồng được nhìn nhận như tiến trình năng
động có sự tham gia của nhiều nhóm xã hội”. Theo ông, trong mỗi cộng đồng
có nhiều nhóm người khác nhau, những người này thông qua nhóm để đạt
được những quyền lợi và mục đích khác nhau. Tìm kiếm nhu cầu chung của
tất cả nhóm đó và liên kết họ lại với nhau là trọng tâm của phát triển cộng
16
đồng. Đáp ứng nhu cầu chung của nhóm đó một mặt làm cho tổng thể cộng
đồng phát triển hơn, mặt khác nó củng cố thiết chế của cộng đồng. Hơn thế
nữa, mỗi nhóm có vô số những kinh nghiệm, những kỹ năng và phương pháp
xác định nhu cầu và vấn đề. Liên kết được những tài nguyên đó lại với nhau
tức là huy động tối đa nguồn lực địa phương cho các chương trình phát triển.
Ông còn nói thêm, “khi ở một nơi nào đó, có một dự án cụ thể nào đó đeo
đuổi mục đích xây dựng mối quan hệ xã hội và mạng lưới giao tiếp ở đó sẽ có
phát triển cộng đồng” [14].
* Dự án phát triển cộng đồng
Dự án PTCĐ là dự án hướng trực tiếp vào cộng đồng nhằm mục đích
giải quyết những vấn đề của cộng đồng, hướng tới sự phát triển một cách toàn
diện cả về kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường của cộng đồng thông qua việc
nâng cao năng lực của người dân, tăng cường sự tham gia của người dân và
các tổ chức của người dân. Dự án phát triển cộng đồng có thể coi là một kế
hoạch hành động có sự phối hợp của nhiều nguồn lực xã hội bao gồm bên
trong và bên ngoài cộng đồng vì mục tiêu phát triển [21].
Dự án phát triển cộng đồng không đơn giản chỉ là mang tiền đến cho
người dân để người dân thực hiện dự án hoặc thực hiện dự án để người dân
được hưởng lợi mà còn trang bị cho người dân những kiến thức, kỹ năng và
khơi dậy những tiềm năng để người dân làm chủ quá trình phát triển của
mình. Như vậy bản chất của dự án phát triển cộng đồng là mang lại sự thay
đổi xã hội theo chiều hướng tích cực hiểu theo nghĩa cụ thể đó là: “giúp người
dân cách câu cá chứ không cho họ con cá”.
Một dự án phát triển cộng đồng thành công là một dự án phải mang
tính khả thi, nó phải đem lại lợi ích cho cộng đồng, nâng cao năng lực tự quản
của cộng đồng đó. Không phải bất cứ một dự án nào được thực hiện ở một
cộng đồng đều là dự án phát triển cộng đồng. Nó là một dự án phát triển cộng
đồng khi có sự tham gia của người dân từ việc xác định nhu cầu, bàn bạc, lập
17
kế hoạch, thực hiện, giám sát và quản lý. Tuy nhiên, thực tế hiện nay có một
số dự án phục vụ cho nhu cầu dân sinh xong nó không xuất phát từ nhu cầu,
nguyện vọng của nhân dân, mang tính áp đặt, khiến cho người hưởng lợi trở
thành thụ động dẫn đến thiếu trách nhiệm trong việc bảo vệ những thành quả
và lợi ích cộng đồng.
Từ những nhận thức trên ta có thể định nghĩa: Dự án phát triển cộng
đồng là một loại dự án phát triển nhằm giải quyết một hay một số vấn đề của
cộng đồng với sự tham gia tích cực của nhiều lực lượng xã hội (bên trong và
bên ngoài cộng đồng). Nó thể hiện bằng một kế hoạch thực hiện hay một
chương trình hành động được xác định bởi khung thời gian, nhân lực, tài
chính và các vấn đề quản lý khác.[17]
1.2. Lý luận dân chủ cơ sở trong dự án phát triển cộng đồng
1.2.1. Một số khái niệm
* Dân chủ
Dân chủ có nghĩa là dân làm chủ mọi quyền lực xã hội, đó là mơ ước
của nhân loại và của các nhà tư tưởng tiến bộ đưa ra rất sớm trong lịch sử xã
hội. Trải qua hàng ngàn năm tiến hoá đến thời đại chúng ta, dân chủ đang là
đòi hỏi bức xúc, là nhu cầu và động lực phát triển xã hội.
Dân chủ theo quan điểm của Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh định nghĩa về
dân chủ rất ngắn gọn và giản đơn, dân chủ nghĩa “là dân làm chủ”[.7]. Chỉ với
bốn từ ngắn gọn nhưng Người đã khái quát được nội dung của dân chủ, Người
đã khẳng định vai trò làm chủ của người dân, làm chủ vận mệnh và nắm quyền
tự quyết của mình trong cộng đồng.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ là một định nghĩa cô đọng, súc
tích, vừa khoa học vừa hiện đại, vừa kế thừa phát huy những hiểu biết của nhân
loại về dân chủ, phản ánh đúng thực chất của dân chủ ở thời đương đại. Người
đã từng nói: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng
xong”. Dân chính là gốc, là cội nguồn của sức mạnh “Có lật thuyền mới biết
18
sức dân mạnh như sức nước”. Do đó , để thực hiện dân chủ Người nhấn mạnh
chữ “Dân”và “thực hành dân chủ là chìa khoá vạn năng giải quyết mọi khó
khăn”[Báo cáo khoa học đoàn thanh niên với việc thực hiện quy chế dân chủ
cơ sở].
Tư tưởng lấy dân làm gốc là sách lược ngàn đời của dân tộc, là kim chỉ
nam để thực hiện công bằng dân chủ. Theo Người “Gốc có vững thì cây mới
bền, xây lầu thắng lợi trên nền tự do”.
Từ những quan điểm, những luận giải dưới nhiều góc độ khác nhau
nhưng tựu chung lại: Dân chủ là nói đến quyền làm chủ của nhân dân, quyền tự
quyết định những vấn đề của mình và của cộng đồng. Những nội dung dân chủ
trên có ý nghĩa lớn trong tiến trình thực hiện dân chủ của Đảng và Nhà nước ta
trong nhiều thập kỷ qua, những khái niệm niệm này cho đến nay vẫn còn nguyên
giá trị và được sử dụng rộng rãi.
* Dân chủ cơ sở
Dân chủ cơ sở là quyền làm chủ của nhân dân ở thôn, làng, xã trong việc
ban hành và thực hiện các quy định quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội trước
hết trong phạm vi thôn, bản, xã. Đối với chính quyền cấp cơ sở có nghĩa là cán
bộ xã, phường phải nhận thức và hành động như là những “công bộc”của dân,
tôn trọng ý kiến của nhân dân, tạo điều kiện tối đa để tiếng nói của nhân dân
được thể hiện trong những quyết định quan trọng của chính quyền [3].
Khái niệm dân chủ cơ sở thể hiện rõ ràng vai trò của người dân trong
quyết định những công việc quan trọng của cộng đồng mình. Trong giai đoạn
hiện nay, khái niệm này có ý nghĩa lớn, nó góp phần đảm bảo dân chủ cơ sở
được thực thi theo nguyên nghĩa, người dân được thực hiện quyền làm chủ của
mình. Nó cũng là quan điểm nhất quán của Đảng áp dụng trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay để nâng cao hiệu quả thực thi Pháp lệnh dân chủ cơ sở.
* Dân chủ cơ sở trong các dự án phát triển cộng đồng
Dân chủ cơ sở trong các dự án phát triển cộng đồng là quyền làm chủ của
người dân thông qua việc họ tự quyết định những công việc cần làm trong một
dự án phát triển cộng đồng như: xác định nhu cầu, tham gia bàn bạc, xây dựng
19