Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIỂU LUẬN LỚP CHUYÊN VIÊN HAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.92 KB, 17 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Một quá trình lao động có thể tồn tại một hoặc nhiều yếu tố nguy hiểm,
có hại. Nếu không được phòng ngừa, ngăn chặn, chúng có thể tác động vào
con người gây chấn thương, gây bệnh nghề nghiệp, làm giảm sút, làm mất khả
năng lao động hoặc gây tử vong. Cho nên, việc chăm lo cải thiện điều kiện lao
động, đảm bảo nơi làm việc an toàn, vệ sinh là một trong những nhiệm vụ
trọng yếu để phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động. Vì vậy, Đảng và
Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác bảo hộ lao động, coi đây là một
nhiệm vụ quan trọng trong quá trình lao động.
Đến nay, nhà nước ta đã có một hệ thống văn bản pháp luật, chế độ chính
sách về bảo hộ lao động tương đối đầy đủ. Cụ thể: Hiến pháp năm 1992, tại
Điều 56 nêu rõ: “Nhà nước ban hành luật pháp, chế độ, chính sách về Bảo hộ
lao động”. Sau đó là hàng loạt các bộ luật, nghị định, thông tư, chỉ thị và hệ
thống các tiêu chuẩn quy phạm an toàn - vệ sinh lao động lần lượt được ban
hành để hướng dẫn trong công tác bảo hộ lao động; Bộ luật Lao động đã
được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp
thứ 3 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 5 năm 2013 quy định một chương riêng (Chương IX) về an toàn lao
động, vệ sinh lao động.
Công tác triển khai và tổ chức thực hiện Bộ Luật Lao động ở hầu hết các
cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn
tỉnh An Giang đạt kết quả khả quan. Người sử dụng lao động thực hiện tốt
trách nhiệm đối với người lao động như: ký kết hợp đồng lao động, đóng bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trang bị bảo hộ lao động, thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi… qua đó đã làm cho người lao động an tâm công tác, gắn bó
với cơ quan, đơn vị, đồng thời tăng tính sáng tạo, năng suất, hiệu quả công
tác. Còn các doanh nghiệp ngoài nhà nước lại không quan tâm đến công tác
tuyên truyền pháp luật lao động, thường đưa ra nhiều lý do để né tránh các
buổi triển khai pháp luật của các ngành, các cấp nên việc triển khai thực hiện
Bộ luật Lao động bộc lộ một số hạn chế, như: Công tác tuyên truyền, giáo dục
về pháp luật lao động chưa thường xuyên, chưa rộng khắp, nhất là đối với các


doanh nghiệp tư nhân; chủ doanh nghiệp lại không thực hiện tốt trách nhiệm
đối với người lao động; một số trường hợp vi phạm pháp luật lao động chậm
được xử lý, hoặc xử lý chưa đúng theo pháp luật, thậm chí vì những lý do


2

khác nhau, có trường hợp không xử lý theo quy định pháp luật… Vì vậy,
trong những năm qua, các vụ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ở các
doanh nghiệp trong tỉnh ta tăng lên về số lượng mà nguyên nhân chủ yếu là
do nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động về an toàn lao
động, vệ sinh lao động chưa cao, chưa đầy đủ và những yếu kém trong việc
thống kê, quản lý an toàn vệ sinh lao động. Đây là khó khăn của công tác an
toàn - vệ sinh lao động hiện nay.
Theo kết luận của các cơ quan chức năng, nguyên nhân chủ yếu gây ra
các vụ tai nạn lao động là do người sử dụng lao động chưa trang bị đầy đủ
phương tiện bảo hộ cho người lao động hoặc người lao động vi phạm quy
trình kỹ thuật, an toàn lao động, thiếu hiểu biết về nội quy an toàn lao động...
Bên cạnh đó, sau khi tai nạn lao động xảy ra, một số doanh nghiệp đã không
bồi thường thỏa đáng cho nạn nhân (hoặc gia đình nạn nhân), từ đó dẫn đến
tình trạng khiếu nại về tai nạn lao động ngày càng diễn biến phức tạp, kéo dài,
gây mất an ninh trật tự tại địa phương…
Với trách nhiệm của một cán bộ công đoàn chuyên trách, chăm lo bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động, tôi chọn đề tài
“Giải quyết khiếu nại tai nạn lao động trong doanh nghiệp” để làm tiểu luận
cuối khóa lớp Bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước - chương trình chuyên
viên khóa 49/2015. Qua đề tài này, tôi xin được nêu một số ý kiến cá nhân
trong việc giải quyết khiếu nại về tai nạn lao động, nhằm góp phần hoàn thiện
thêm hệ thống chính sách, pháp luật trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước hiện nay.

Xin chân thành cảm ơn Trường Chính trị Tôn Đức Thắng đã mở lớp Bồi
dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước - chương trình chuyên viên khóa 49/2015.
Cám ơn các thầy giáo, cô giáo trực tiếp và gián tiếp đã tổ chức giảng dạy, đem
hết khả năng và nhiệt tình truyền đạt những kiến thức về quản lý hành chính
Nhà nước cho chúng tôi. Đây là những kiến thức rất bổ ích mà mỗi cán bộ,
công chức, viên chức hiện nay cần nắm vững, để được mở rộng thêm tầm
nhìn về mọi mặt đời sống, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước nói chung,
của tỉnh ta nói riêng, đặc biệt là các tình huống thực tế xảy ra.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin chân thành cảm ơn quý lãnh đạo Cơ quan và
Ban Thường vụ Liên đoàn Lao động tỉnh An Giang đã tạo điều kiện cho tôi
được tham gia và hoàn thiện lớp học đạt hiệu quả, chất lượng.


3

I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG.
Trong quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, có những sự cố
xảy ra ngoài mong muốn đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất - kinh
doanh của doanh nghiệp. Một trong những sự cố đó là tai nạn lao động của
người công nhân mà trách nhiệm của người chủ doanh nghiệp là không thể
loại trừ. Điều này cũng đã làm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống người lao
động, trong đó, sự cố tai nạn lao động nghiêm trọng xảy ra sẽ luôn là gánh
nặng cho người lao động, xã hội và cộng đồng.
Vào ngày 28 tháng 5 năm 2015, Liên đoàn Lao động tỉnh và Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội tỉnh có nhận đơn khiếu nại của gia đình anh
Nguyễn Thanh Tuấn, sinh năm 1984, ngụ xã Phú Hưng, huyện Phú Tân, tỉnh
An Giang, đề nghị can thiệp, giúp đỡ gia đình anh Tuấn được bồi hoàn do tai
nạn lao động xảy ra tại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Nguyễn
Phú Vinh, ấp Bình Quới 2, xã Bình Thạnh Đông, huyện Phú Tân mà Công ty
không giải quyết thỏa đáng vấn đề bồi thường, hỗ trợ tai nạn lao động.

Theo nội dung đơn, anh Tuấn là gia đình nghèo, có vợ và 1 con còn nhỏ;
trình độ văn hóa thấp, chưa qua đào tạo tay nghề, có xin vào làm công nhân
tại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Nguyễn Phú Vinh chuyên
xay xát thóc lúa, đánh bóng gạo; mua bán nông sản; sấy lúa…, do ông
Nguyễn Công Tâm làm Giám đốc. Trụ sở Công ty đặt tại xã Bình Thạnh
Đông, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Anh Tuấn được Công ty nhận vào làm
theo mùa vụ, không có ký kết hợp đồng lao động. Nhiệm vụ chính của anh
Tuấn là công nhân bốc xếp thủ công. Tiền công của anh Tuấn được chi trả
200.000 đồng/ngày.
Qua hơn 34 tháng làm việc, anh Tuấn nhận được đầy đủ tiền công và
không được nhận thêm bất cứ khoản tiền nào khác.
Ngày 09/3/2015, một sự cố nghiêm trọng đã xảy ra nơi làm việc của anh
Tuấn: theo thỏa thuận giữa chủ doanh nghiệp và tổ trưởng tổ bốc xếp Nguyễn
Hồng Kha, tiến hành vận chuyển nếp đến bồn chứa để trộn, sau đó đóng bao
chuyển xuống ghe. Vào lúc 18 giờ 30 phút, ngày 09/3/2015, tổ bốc xếp tiến
hành làm việc ca đêm, đang tiến hành công việc thì khoảng 19 giờ 30 phút, bồ
đài vận chuyển nếp bị nghẹt, anh Tuấn (nạn nhân) ngắt điện nguồn của hệ
thống bồ đài, trực tiếp leo lên nóc bồ đài để tháo nắp kiểm tra, bất ngờ rơi tự


4

do ở độ cao 8,8 mét, đầu cắm xuống nền nhà máy, những người xung quanh
đưa Tuấn rời khỏi vị trí xảy ra tai nạn, chuyển đến Bệnh viện đa khoa huyện
Phú Tân cấp cứu, sau đó chuyển tuyến lên Bệnh viện đa khoa trung tâm An
Giang, do chấn thương quá nặng không thể cứu sống, nên gia đình chở Tuấn
về nhà, khoảng 3 giờ 30 phút ngày 10/3/2015, Tuấn chết tại nhà. Và Công ty
đã thông báo cho chính quyền địa phương biết về sự việc xảy ra.
Trong quá trình điều trị tại Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang, anh
Tuấn được Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Nguyễn Phú Vinh hỗ

trợ cho gia đình nạn nhân chi phí y tế và chi phí mai táng, tổng cộng
63.000.000 đồng. Tuy nhiên, do hoàn cảnh hết sức khó khăn: con còn nhỏ, vợ
không có việc làm, anh Tuấn lại là thu nhập chính trong gia đình, nay anh đã
chết, cuộc sống gia đình lại càng khó khăn hơn.


5

II. MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Nhằm xử lý, giải quyết thỏa đáng, hợp lý, đúng quy định của pháp
luật về các vấn đề thuộc về an toàn lao động, các vụ tai nạn lao động, góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động,
giữ uy tín của doanh nghiệp, ổn định tình hình an ninh, trật tự xã hội, tạo
sự gắn bó giữa người sử dụng lao động và người lao động để đảm bảo cho
sản xuất phát triển và đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Vấn đề an toàn lao động và giải quyết hậu quả của một vụ tai nạn lao
động, đặc biệt là các tai nạn lao động nghiêm trọng, luôn là vấn đề hết sức
phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành, nhiều cấp. Do vậy,
yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết một vụ tai nạn lao động là trước hết
phải nắm vững pháp luật về lao động nói chung và các quy định về bảo hộ
lao động, một số kiến thức cơ bản về tâm sinh lý học, v.v… Trên cơ sở đó
kết hợp với những hoàn cảnh cụ thể đã và đang xảy ra mà tìm hiểu vụ việc,
nghiên cứu tường tận các khía cạnh của vụ việc, xác định trách nhiệm pháp
lý của các bên liên quan đã được quy định theo pháp luật:
- Trước mắt gia đình anh Nguyễn Thanh Tuấn phải được chủ doanh
nghiệp chi trả toàn bộ chi phí y tế và chi phí mai táng cho anh Tuấn.
- Bồi thường tai nạn lao động cho gia đình anh Tuấn theo quy định của
pháp luật để vợ anh Tuấn có thể nuôi con.
- Xử phạt vi phạm hành chính về lao động đối với Công ty TNHH Một
thành viên Nguyễn Phú Vinh.



6

III. NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ.
Thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hướng đi
đúng của Đảng và Nhà nước ta, nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới,
Đảng và Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, tạo
khung pháp lý để điều chỉnh, định hướng và phát huy vai trò chủ động, sáng
tạo trong sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp, nhằm thúc đẩy từng
doanh nghiệp phát triển sản xuất - kinh doanh, người lao động có việc làm ổn
định, đời sống được nâng lên. Bộ Luật Lao động năm 1995 và Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ Luật Lao động năm 2002, 2006, 2012 đã thể chế
hóa đường lối đổi mới của Đảng ta và cụ thể hoá các vấn đề về lao động, sử
dụng và quản lý lao động được ghi trong Hiến pháp 1992, 2002, 2013.
Bộ Luật lao động bảo vệ quyền được có việc làm, các quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng khác của người lao động, người sử dụng lao động, tạo
điều kiện và hành lang pháp lý phát triển mối quan hệ lao động, tạo không khí
hài hòa và ổn định giữa người lao động và người sử dụng lao động nhằm phát
huy trí sáng tạo, tài năng của người lao động và người quản lý lao động, tạo ra
năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh.
Trong Bộ Luật Lao động năm 2012 có hẳn những chương, điều quy định
về quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động như:
Hợp đồng lao động (chương III), kỷ luật lao động (chương VIII), an toàn - vệ
sinh lao động (chương IX), học nghề..(chương IV)… Trên thực tế, hoạt động
quản lý Nhà nước về lao động ở một số nơi chưa được thực hiện nghiêm, vẫn
còn nhiều địa phương, đơn vị, nhất là ở các doanh nghiệp tư nhân, việc nắm

và thực thi pháp luật lao động còn nhiều hạn chế. Mặt khác, cũng có tình
trạng lách luật, thậm chí cố tình không áp dụng luật… Từ đó, trong quá trình
thực hiện có những vi phạm không đáng có như tình huống được nêu ra ở
phần trên.
1. Nguyên nhân.
a) Quản lý hành chính về lao động.
Cơ quan chức năng đã không thường xuyên kiểm tra, giám sát việc chấp
hành pháp luật về lao động tại các doanh nghiệp, cụ thể là thực hiện Bộ Luật


7

Lao động như: vi phạm chế độ hợp đồng lao động, chế độ an toàn vệ sinh lao
động, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, một số quyền và lợi ích khác.
Không kịp thời trong việc giải quyết các khiếu nại, tranh chấp về
quyền lợi của người lao động; chậm trễ trong việc điều tra, xác minh, kết
luận nhằm hướng dẫn, yêu cầu, thậm chí thực hiện các biện pháp cưỡng
chế theo luật định nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng cho người lao động.
b) Đối với người sử dụng lao động.
Chủ doanh nghiệp chưa thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, còn
tuyển dụng công nhân vào làm việc chưa qua đào tạo nghề (hoặc dạy nghề),
không ký kết hợp đồng lao động.
Chủ doanh nghiệp còn vi phạm quy định về việc khai báo, đăng ký và
xin cấp giấy phép sử dụng các máy móc, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về
an toàn lao động. Nơi làm việc ở vị trí cao, cheo leo, nguy hiểm, ở độ cao 8,8
mét nhưng không trang bị dây an toàn cho người lao động; không có sàn thao
tác có lan can an toàn hoặc lưới bảo vệ; không có treo các bảng chỉ dẫn về an
toàn lao động.
Công nhân chưa được chủ sử dụng lao động tổ chức huấn luyện, hướng

dẫn kỹ thuật an toàn lao động khi làm việc ở vị trí cao, cheo leo, nguy hiểm.
Khi tai nạn lao động xảy ra đã chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm bồi
thường vật chất đối với người bị tai nạn lao động.
c) Đối với người bị tai nạn lao động.
Trình độ văn hóa thấp, gia đình lại nghèo khó nên anh Nguyễn Thanh
Tuấn đành chấp nhận vào làm việc tại Công ty mà không được ký kết hợp
đồng lao đồng, chỉ được hưởng lương theo chế độ khoán (không có bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế), không có tay nghề (chủ yếu theo kiểu nghề dạy nghề,
người có thâm niên trong nghề hướng dẫn người mới vào).
Anh Tuấn phạm vào lỗi chủ quan, bất cẩn khi leo lên nóc bồ đài ( ở vị
trí cao, cheo leo, nguy hiểm) để tháo nắp kiểm tra gây tai nạn đáng tiếc cho
bản thân.


8

2. Hậu quả.
Bất kỳ vụ tai nạn lao động nào xảy ra cũng đều ảnh hưởng đến người
sử dụng lao động và người lao động, trong đó, người lao động bị ảnh
hưởng trực tiếp về tính mạng, sức khỏe, kinh tế, khó khăn về đời sống.
Về phía người sử dụng lao động, khi tai nạn lao động xảy ra sẽ ảnh
hưởng đến việc sản xuất - kinh doanh, phải chịu tổn thất về vật chất, có
trường hợp phải chịu trách nhiệm pháp lý, thậm chí có trường hợp phải thua
lỗ, phá sản (hỏa hoạn, cháy nổ)…
Xuất phát từ việc thiếu kiểm tra, đôn đốc, giám sát của cơ quan quản lý
Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, việc chấp hành pháp luật lao động
của doanh nghiệp chưa nghiêm dẫn đến vi phạm pháp luật kéo dài không
được phát hiện, ngăn chặn đã làm ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp, việc làm và đời sống của người lao động.
Đảng và Nhà nước ta đang ra sức xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa thì tình trạng chậm chạp, xử lý chưa đến nơi, đến chốn của cơ
quan chức năng đối với các bên liên quan khi tai nạn lao động xảy ra làm
giảm sút niềm tin vào pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa và chế độ xã hội
chủ nghĩa. Hậu quả sâu xa nhất là vấn đề pháp luật chưa được tôn trọng triệt
để, pháp chế xã hội chủ nghĩa và pháp luật Nhà nước chưa được thực thi
nghiêm minh làm ảnh hưởng đến đời sống người lao động, đến sản xuất, kinh
doanh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta bước vào giai đoạn hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới, vấn đề cạnh tranh lành mạnh là một vấn đề
sống còn của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đang đặt ra hết
sức gay gắt và phức tạp.


9

IV. PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG.
1. Các phương án giải quyết.
Qua những kiến thức học được trong khóa học chuyên viên K49 và căn
cứ vào các quy định của pháp luật, bản thân tôi xin đưa ra một số phương án
xử lý tình huống như sau:
* Phương án 1.
Chấp thuận bồi thường theo đơn của thân nhân anh Nguyễn Thanh
Tuấn yêu cầu được bồi thường 150 triệu đồng với lý do anh là lao động
chính trong gia đình, vợ không có việc làm, con còn nhỏ dại. Và đây là lỗi
do doanh nghiệp được quy định tại Điều 133, khoản 1 Điều 138, Bộ Luật
Lao động năm 2012; Thông tư 27/2013/TT-BLĐTBXH, ngày 18/10/2013
của Bộ Lao động - TBXH quy định về công tác huấn luyện an toàn lao
động, vệ sinh lao động; vi phạm Điểm 1.14, khoản 1.1, Quy phạm kỹ thuật
an toàn trong xây dựng (TCVN 5308-1991).
- Ưu điểm của phương án.
Thỏa mãn yêu cầu và quyền lợi cho người lao động. Vì:

Khoản 1, Điều 144, Bộ Luật Lao động năm 2012 quy định: Người sử
dụng lao động thanh toán toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đối với
người lao động không tham gia bảo hiểm y tế;
Khoản 2, Điều 145, Bộ Luật Lao động năm 2012 quy định: Người lao
động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà người sử dụng
lao động chưa đóng bảo hiểm xã hội cho cơ quan bảo hiểm xã hội, thì được
người sử dụng lao động trả khoản tiền tương ứng với chế độ theo quy định
của Luật Bảo hiểm xã hội.
- Hạn chế của phương án.
Thân nhân của người lao động đòi hỏi khoản tiền bồi thường quá cao đối
với người sử dụng lao động theo quy định: Trường hợp người lao động bị chết
do tai nạn lao động mà do lỗi của người lao động thì thân nhân của người lao


10

động đó cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định tại
khoản 3 Điều 145 của Bộ Luật lao động năm 2012 (bằng 12 tháng tiền lương).
Người sử dụng lao động sẽ gặp nhiều khó khăn về vấn đề lao động, chi
trả thêm một khoản không nhỏ để bồi thường thêm cho thân nhân người lao
động bị chết do tai nạn lao động.
* Phương án 2.
Chấp nhận việc từ chối chi trả của Giám đốc Công ty TNHH Một thành
viên Nguyễn Phú Vinh, với lý do doanh nghiệp đã làm hết trách nhiệm, bồi
thường khoản tiền 63 triệu đồng, vì đây là lỗi một phần chủ quan, bất cẩn
trong quá trình lao động do anh Nguyễn Thanh Tuấn gây ra.
- Ưu điểm của phương án.
Chủ doanh nghiệp đã kịp thời đưa anh Tuấn đến Bệnh viện đa khoa
huyện Phú Tân để cấp cứu, sau đó tiếp tục chuyển đến Bệnh viện đa khoa
trung tâm An Giang.

Chủ doanh nghiệp đã có trách nhiệm chi trả toàn bộ chi phí cho thân
nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động gồm chi phí y tế, chi phí mai
táng: 13 triệu đồng, ngoài ra còn gởi thêm 50 triệu đồng cho thân nhân. Như
vậy chủ doanh nghiệp đã có sự tự giác hỗ trợ tiền cho thân nhân của người lao
động đã chết.
- Hạn chế của phương án.
Lỗi của anh Nguyễn Thanh Tuấn không xuất phát từ ý muốn bản thân.
Anh Tuấn đã mất mạng sống và gia đình rơi vào cảnh: con mất cha, vợ
mất chồng, mất nguồn thu nhập. Hoàn cảnh gia đình vốn đã khó khăn nay lại
càng khó khăn hơn.
Phương án này chưa phù hợp với quy định của pháp luật: Các trường hợp
mức thương tật được xác định từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao
động bị chết do tai nạn lao động thì người sử dụng lao động phải có trách
nhiệm bồi thường với mức ít nhất 30 tháng tiền lương của người lao động
được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 145 của Bộ Luật lao động năm 2012.


11

* Phương án 3.
Nhằm đảm bảo trách nhiệm và quyền lợi giữa chủ doanh nghiệp và người lao
động: Chủ doanh nghiệp sẽ trả thêm một khoản tiền bằng ít nhất 30 tháng tiền
lương và phụ cấp (nếu có) và sẽ không chịu thêm khoản phí nào vì sự việc xảy ra là
do lỗi của cả hai bên: người sử dụng lao động và người lao động.
- Ưu điểm của phương án.
Giải quyết sự việc đúng theo quy định của pháp luật và mang tính nhân
văn sâu sắc.
Đảm bảo hài hòa lợi ích của cả người lao động và người sử dụng lao
động.
- Hạn chế của phương án.

Việc hòa giải giữa thân nhân của người lao động và người sử dụng lao
động sẽ gặp nhiều khó khăn hơn do mỗi bên đều muốn bảo vệ quan điểm của
mình. Do đó, cơ quan chức năng sẽ tốn nhiều thời gian để giải thích, thuyết
phục trong quá trình chứng minh tính đúng đắn của sự việc và xác định trách
nhiệm của mỗi bên.
2- Lựa chọn phương án tối ưu.
Qua phân tích ưu điểm, hạn chế của các phương án nêu trên, bản thân tôi
xin chọn phương án 3 là phương án tối ưu, vì đây là phương án làm rõ trách
nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên theo quy định của pháp luật tại Bộ
Luật Lao động năm 2012.


12

V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
* Căn cứ Thông tư liên tịch 12/2012/TTLT-BLĐTBXH-BYT ngày 21
tháng 5 năm 2012 của Bộ Lao động - Thương binh xã hội và Bộ Y tế hướng
dẫn khai báo, điều tra, thống kê và báo cáo tai nạn lao động, Giám đốc Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội tỉnh ra quyết định thành lập Đoàn Kiểm tra, xử
lý khiếu nại. Thời gian giải quyết vụ việc không quá 15 ngày kể từ ngày có
quyết định. Thành phần Đoàn gồm có:
1- Chánh Thanh tra Sở Lao động - TB và XH
2- Phó Trưởng Ban Chính sách - Pháp luật LĐLĐ tỉnh

Trưởng Đoàn
Phó Trưởng Đoàn

3- Cán bộ Thanh tra Sở Y tế

Thành viên


4- Đại diện UBND xã Bình Thạnh Đông, huyện Phú Tân

Thành viên

5- Cán bộ chuyên môn Sở Lao động - TB và XH

Thành viên

* Phương pháp thực hiện: Chia làm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn I:
+ Làm việc với chính quyền địa phương (Uỷ ban nhân dân xã Bình
Thạnh Đông, huyện Phú Tân) nơi Công ty TNHH Một thành viên Nguyễn
Phú Vinh đang có trụ sở hoạt động.
+ Làm việc với Giám đốc Công ty (ông Nguyễn Công Tâm), thông báo
để công ty biết những yêu cầu cụ thể của nội dung kiểm tra.
+ Tiếp xúc thân nhân anh Nguyễn Thanh Tuấn và một số công nhân cùng
làm việc với anh Tuấn để thu thập thêm thông tin về việc thực hiện các vấn đề
như: ký kết hợp đồng lao động, hình thức trả lương, bảo hộ lao động, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tình trạng trang thiết bị làm việc, nội quy lao
động…
+ Tiếp tục làm việc với Giám đốc công ty để thu thập thông tin, nghe ý
kiến phản hồi từ phía người sử dụng lao động; đồng thời kiểm tra, xác minh
một số vấn đề có liên quan.
+ Tổ chức buổi gặp gỡ 3 bên gồm: Đoàn Kiểm tra, người sử dụng lao
động và thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động để nghe ý kiến
đối thoại của các bên liên quan (Nếu cần thiết, có thể mời thêm một số công
nhân để làm nhân chứng).



13

- Giai đoạn II:
+ Đoàn Kiểm tra hội ý, trao đổi, phân tích các kết quả thu được qua làm
việc ở giai đoạn I. Trên cơ sở đó thống nhất các nội dung đánh giá, lập biên
bản kết luận.
+ Thông qua Biên bản kết luận điều tra tai nạn lao động tại công ty, sau
đó gửi văn bản báo cáo đến Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.
Nội dung Biên bản kết luận như sau:
Căn cứ bản Giám định Pháp y số 106/2015/BKTT ngày 10 tháng 3 năm
2015 của Tổ chức giám định Pháp y tỉnh An Giang cho thấy tình trạng thương
tích của anh Nguyễn Thanh Tuấn như sau: nhiều vết xây xát, bầm máu vùng
đầu, ngực và tay chân; nứt sọ thái dương (P), vỡ sọ thái dương, chẩm (T);
máu tụ ngoài màng cứng vùng thái dương (T); dập phù đại não bán cầu đại
não bên (T). Nguyên nhân chết: chấn thương sọ não vỡ sọ: vỡ sọ máu tụ nội
sọ, dập phù não.
Kiểm tra nơi làm việc của anh Tuấn nhận thấy:
• Nơi làm việc không đảm bảo an toàn lao động.
• Chưa đảm bảo yêu cầu kỹ thuật an toàn trong xây dựng (không có sàn thao
tác có lan can an toàn hoặc lưới bảo vệ, không trang bị dây an toàn).
• Không có cán bộ giám sát trực tiếp về an toàn lao động trong quá
trình xếp dỡ.
• Tổ trưởng tổ bốc xếp thiếu trách nhiệm trong điều hành, quản lý lao động.
* Trên cơ sở đó, Đoàn Kiểm tra đã tiến hành tổ chức hòa giải giữa lãnh
đạo Công ty TNHH Một thành viên Nguyễn Phú Vinh và thân nhân của anh
Nguyễn Thanh Tuấn. Đôn đốc Công ty thực hiện trách nhiệm bồi hoàn cho
thân nhân người lao động theo biên bản hòa giải hai bên, thời gian thực hiện
là 15 ngày kể từ ngày hòa giải thành công. Ngoài ra Đoàn kiểm tra cũng kịp
thời nhắc nhở, hướng dẫn Công ty TNHH Một thành viên Nguyễn Phú Vinh
các nội dung: trang bị dây an toàn lao động hoặc lưới bảo vệ, không cho phép

người lao động làm việc khi chưa đeo dây an toàn; lập phương án về các biện
pháp bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với nơi làm việc; tiến
hành kiểm tra, đánh giá các yếu tố nguy hiểm, có hại tại nơi làm việc để đề ra
các biện pháp loại trừ, cải thiện lao động; tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho


14

người lao động; tuân thủ các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động
và nội quy lao động tại nơi làm việc; tổ chức huấn luyện an toàn lao động cho
tất cả công nhân đang làm việc tại Công ty.
* Công ty TNHH Một thành viên Nguyễn Phú Vinh chịu trách nhiệm chi
trả chi phí hoạt động cho Đoàn Kiểm tra.


15

VI. KIẾN NGHỊ - KẾT LUẬN.
1. Kiến nghị.
Từ tình huống nêu trên, để đảm bảo việc người sử dụng lao động thực
hiện nghiêm chỉnh pháp luật lao động, nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích
chính đáng, hợp pháp cho người lao động tại các doanh nghiệp, xin đề xuất,
kiến nghị một số vấn đề như sau:
a) Đối với các cơ quan Trung ương
Cần đưa ra các biện pháp, chế tài mạnh để xử lý nghiêm những hành vi
vi phạm pháp luật lao động của doanh nghiệp.
Củng cố, kiện toàn lực lượng thanh tra chuyên ngành có liên quan đến
công tác an toàn vệ sinh lao động. Đào tạo theo hướng chuyên môn sâu và
trang bị một số kỹ năng cần thiết phục vụ cho công tác này.
b) Đối với các sở, ngành liên quan

Hiện nay tình trạng từng sở, ngành hoạt động riêng lẽ theo chức năng,
nhiệm vụ của mình nên dẫn đến tình trạng trùng lắp hoặc bỏ sót trong công
tác kiểm tra, hướng dẫn, hỗ trợ đơn vị, cơ sở thực hiện an toàn vệ sinh lao
động. Để khắc phục, đề nghị Sở Lao động - Thương binh và xã hội tham mưu
Uỷ ban nhân dân tỉnh thành lập Hội đồng Bảo hộ Lao động để thống nhất chỉ
đạo công tác Bảo hộ lao động trong toàn tỉnh.
Các cơ quan chức năng cần tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với toàn
bộ hoạt động phòng chống cháy nổ và an toàn vệ sinh lao động. Tùy theo chức năng
của từng cấp, từng ngành cần có kế hoạch phổ biến sâu rộng những văn bản hướng
dẫn các biện pháp bảo đảm an toàn trong sản xuất - kinh doanh. Tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách có liên quan đến người lao
động. Quá trình kiểm tra cần dành thời gian tiếp xúc với người lao động và người sử
dụng lao động để lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của từng đối tượng nhằm kịp
thời có những đề xuất, kiến nghị với cấp có thẩm quyền, góp phần hoàn chỉnh các
văn bản pháp luật.
Các cấp, các ngành cần tăng cường công tác thông tin kiến thức pháp
luật nói chung, Bộ Luật Lao động nói riêng để người sử dụng lao động và


16

người lao động trong các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế nắm vững và
thực hiện đúng các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện đầy đủ
các quyền, lợi ích và nghĩa vụ của mỗi bên. Đối với tỉnh ta, gần đây các
doanh nghiệp sản xuất thường tập trung trong các khu công nghiệp, công
nhân thường xuyên làm việc tăng ca, ít có điều kiện tập trung nên hoạt động
tuyên truyền pháp luật cần có sự thay đổi về phương thức tuyên truyền như
dùng hệ thống phát thanh có công suất đủ lớn đặt gần các khu vực có nhiều
công nhân ở trọ để đưa thông tin đến với người lao động nhiều lần vào
những thời điểm thích hợp trong ngày. Ngoài ra cũng cần duy trì việc in và

cấp phát miễn phí các tờ rơi, các hình thức tuyên truyền thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng.
c) Đối với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam:
- Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, huấn luyện nâng cao nhận
thức về công tác bảo hộ lao động cho cán bộ Công đoàn các tỉnh.
- Tăng khối lượng và chất lượng thông tin, hướng dẫn và trao đổi kinh nghiệm
công tác bảo hộ lao động trên các báo và tạp chí Lao động và Công đoàn.
- Tập hợp những ý kiến đóng góp của cơ sở để làm căn cứ tham gia với
các cơ quan quản lý Nhà nước xây dựng, bổ sung sửa đổi các văn bản luật,
dưới luật về bảo hộ lao động.
- Nghiên cứu xây dựng hệ thống phương pháp, nội dung các tiêu chí
kiểm tra, hình thức kiểm tra chấm điểm thi đua để nâng cao hiệu quả kiểm tra
bro hộ lao động của công đoàn.
- Nâng cao chất lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật bảo hộ
lao động; nâng cao chất lượng đào tạo kỹ sư, cán bộ bảo hộ lao động của hệ
thống công đoàn; Xây dựng chương trình kế hoạch, nội dung đào tạo kỹ sư,
cán bộ BHLĐ phù hợp với yêu cầu trước mắt và lâu dài. Mở rộng các hình
thức đào tạo kỹ sư, cán bộ BHLĐ để nâng cao chất lượng đào tạo.
- Tham gia với Nhà nước xây dựng các văn bản về pháp luật BHLĐ.
- Củng cố, kiện toàn bộ máy làm công tác bảo hộ lao động từ Tổng Liên
đoàn đến cơ sở.


17

2. Kết luận.
Qua giải quyết vụ việc khiếu nại trên giúp chúng ta phát hiện thêm nhiều vấn
đề hết sức quan trọng trong việc thực hiện pháp luật về lao động. Cho thấy, với vai
trò của tổ chức công đoàn, vấn đề tham gia, giám sát, đại diện nhằm bảo vệ các lợi
ích hợp pháp, chính đáng của người lao động ngày càng trở nên bức xúc. Một

thực trạng là còn không ít doanh nghiệp cố tình vi phạm các quy định pháp luật về
các chế độ đối với người lao động như trốn tránh nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, hợp đồng lao động, thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi, công tác bảo hộ lao động . v. v.. Trong các vi phạm nêu trên, thì vấn
đề giải quyết tình trạng vi phạm các quy định về an toàn vệ sinh lao động là vấn
đề bức xúc nhất, quan trọng nhất.
Với định hướng phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, kinh
tế khu vực doanh nghiệp tư nhân đang phát triển với tốc độ nhanh chóng đã
góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự tăng trưởng của nền kinh tế nước ta nói
chung, tỉnh ta nói riêng. Tuy nhiên, để sự tăng trưởng đáp ứng yêu cầu chiến
lược của Đảng và Nhà nước ta về một sự phát triển bền vững thì việc giải
quyết một cách hài hòa, tốt đẹp các mối quan hệ, các lợi ích xã hội là vấn đề
cần phải đặt ra và đòi hỏi được giải quyết tốt ngay trên từng chặng đường
tăng trưởng kinh tế. Xu hướng phát triển trong những năm gần đây cho thấy
cùng với sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng
công nghiệp - dịch vụ thì cũng đồng thời diễn ra quá trình chuyển dịch mạnh
mẽ lực lượng lao động từ nông thôn ra thành thị.
Thực trạng về chất lượng của đội ngũ lao động này như đã nêu ở phần
trên đòi hỏi các cấp, các ngành có liên quan cần tăng cường nhiều hơn nữa sự
quan tâm chăm lo cho vấn đề an toàn vệ sinh lao động và các vấn đề liên quan
trong các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp tư nhân. Làm tốt các biện
pháp đảm bảo có hiệu quả công tác an toàn vệ sinh lao động chính là thành
công ngay từ bước đầu tiên sự “che chắn của xã hội” đối với sức khỏe người
lao động, thể hiện sự trân trọng và bảo vệ vốn quý nhất của xã hội: Đó là con
người và sức khỏe của con người./.



×