Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Trình bày hiểu biết về sự liên kết trong mô hình nhóm công ty

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.82 KB, 15 trang )

TM1. HK-3: Trình bày hiểu biết về sự liên kết trong mô hình
nhóm công ty.
A. LỜI NÓI ĐẦU
Các doanh nghiệp trong nhóm công ty liên kết, gắn bó với
nhau thông qua lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các
dịch vụ kinh doanh khác.
Xuất phát từ tính đa ngành của các doanh nghiệp trong
nhóm công ty, những liên kết giữa chúng là rất phức tạp, bao
gồm liên kết ngang (giữa các doanh nghiệp cùng ngành, mục
đích để chống lại sự thôn tính và cạnh tranh của doanh nghiệp
và hàng hóa bên ngoài); liên kết dọc (giữa các doanh nghiệp
khác nhau nhưng có liên quan chặt chẽ về công nghệ, tạo
thành một liên hợp sản xuất-kinh doanh-thương mại hoàn
chỉnh); liên kết hỗn hợp (giữa các doanh nghiệp trong nhiều
ngành nghề, và lĩnh vực, có mối liên hệ chặt chẽ về tài chính).
Chính nhờ những mối liên kết chặt chẽ, tin cậy lẫn nhau mà các
nhóm công ty có thể huy động được nhiều nguồn lực từ những
đối tượng khác nhau và đầu tư vào các tham gia cổ phần lẫn
nhau giữa các công ty có hoạt động trong cùng một lĩnh vực
hoặc có thỏa thuận với nhau nhằm phân chia thị trường, lĩnh vự
sản xuất v.v.. đã hình thành tập đoàn theo kiểu liên kết này.
B. NỘI DUNG
I. Một số khái niệm cơ bản
1. Nhóm công ty
Chương VIII – Luật Doanh nghiệp năm 2014 có quy định về
mô hình nhóm công ty. Tuy nhiên, không có điều luật nào
định nghĩa nhóm công ty là gì? Tuy nhiên, dựa theo tinh thần
Điều 146 Luật Doanh nghiệp năm 2005, ta có thể đưa ra khái
niệm: “Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ



gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị
trường và các dịch vụ kinh doanh khác”.
Hiện nay, nhóm công ty ở Việt Nam theo LDN năm
2014 chủ yếu tồn tại dưới dạng tập đoàn kinh tế, tổng công
ty (Điều 188 LDN2014); công ty mẹ, công ty con (Điều 189
LDN2014). Nhóm công ty không phải một thực thể pháp lý
độc lập, không có tư cách pháp nhân, không có tài sản
riêng mà chỉ là hình thức liên kết giữa các công ty có tư cách
pháp lý độc lập. Như vậy, có thể thấy mọi hoạt động trong
nhóm công ty không vì lợi ích của nhóm mà nhằm hướng đến
lợi ích của các công ty trong nhóm công ty.
Sự hình thành nhóm công ty có thể bằng hai con đường
chính đó là: công ty mở rộng chi nhánh, góp vốn, thành lập
các công ty khác, dần dần phát triển mạnh và gắn bó với
nhau tạo thành nhóm công ty; hoặc thông qua con đường
thôn tính vá sáp nhập, các đối thủ cạnh tranh có thể thôn
tính, sáp nhập lẫn nhau hoặc thỏa hiệp với nhau tạo thành
nhóm.
2. Tập đoàn kinh tế, tổng công ty
Khái niệm Tập đoàn kinh tế, tổng công ty được định nghĩa
tại Điều 188 LDN2014, theo đó:
“1. Tập đoàn kinh tế, tổng công ty thuộc các thành
phần kinh tế là nhóm công ty có mối quan hệ với nhau thông
qua

sở hữu cổ phần,

phần vốn góp

hoặc liên


kết khác.

Tập đoàn kinh tế, tổng công ty không phải là một loại hình
doanh nghiệp, không có tư cách pháp nhân, không phải đăng
ký thành lập theo quy định của Luật này.


2. Tập đoàn kinh tế, tổng công ty có công ty mẹ, công ty
con và các công ty thành viên. Công ty mẹ, công ty con và
mỗi công ty thành viên trong tập đoàn kinh tế, tổng công ty
có quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp độc lập theo quy
định của pháp luật.”
Quy định này về cơ bản chỉ nêu ra được các đặc điểm cơ
bản của TĐKT, TCT nhưng chưa làm rõ được những đặc thù
của mô hình này. Theo đó, tTĐKT, TCT là tổ hợp hình thành
trên cơ sở liên kết về tài chính, công nghệ, thị trường, nghiên
cứu phát triển,… nhằm tăng cường tích tụ, tập trung vốn và
tăng khả năng cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận. Bản thân các
doanh nghiệp trong tổ hợp đó độc lập và có tư cách pháp
nhân, không sinh ra nhau mà liên kết lớn mạnh. Các TĐKT,
TCT đều kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực, vừa có chức năng
sản xuất, vừa có chức năng tài chính. Hiện nay ở nước ta, các
TĐKT, TCT thường đa sở hữu về vốn và chủ yếu ở sở hữu nhà
nước. Trong TĐKT, TCT có một doanh nghiệp hạt nhân (công
ty mẹ) nắm giữ hoạt động chính và các doanh nghiệp khác
trong tập đoàn. Mô hình TĐKT, TCT có thể có yếu tố liên kết
vốn như công ty mẹ – công ty con nhưng không hoàn toàn
giống mô hình này.


3. Công ty mẹ - công ty con
Theo Điều 189 LDN năm 2014 định nghĩa:
“1. Một công ty được coi là công ty mẹ của công ty khác
nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:


a) Sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ
thông của công ty đó;
b) Có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp quyết định bổ nhiệm
đa số hoặc tất cả thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc của công ty đó;
c) Có quyền quyết định việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ của
công ty đó”.
Có thể thấy, mô hình công ty mẹ – công ty con là một tập
hợp các công ty, mỗi công ty là một pháp nhân độc lập, có
tài sản riêng, có bộ máy điều hành quản lý riêng và tự chịu
trách nhiệm về các khoản nợ cũng như các nghĩa vụ tài sản
của mình. Bên cạnh đó, quan hệ giữa công ty mẹ và công ty
con được thiết lập trên cơ sở sở hữu vốn. Theo đó, công ty
mẹ đầu tư toàn bộ hoặc đầu tư phần vốn góp chi phối vào
công ty con. Tùy theo pháp luật của mỗi nước và điều lệ của
từng công ty quy định mà mức chi phối được thể hiện ở tỷ lệ
vốn góp. Thông thường, công ty mẹ chiếm từ 50% trở lên vốn
góp của công ty con. Tuy nhiên, có trường hợp vẫn được coi
là công ty mẹ mặc dù vốn góp dưới 50% tùy thuộc vào điều
lệ công ty. Công ty mẹ cũng nắm giữ quyền chi phối, kiểm
soát công ty con. Việc kiểm soát, chi phối của công ty mẹ thể
hiện ở việc tác động tới các quyết định quan trọng của công
ty con thông qua người đại diện phần vốn góp hay người trực
tiếp quản lý phần vốn của công ty mẹ tại công ty con (các

thành viên Hội đồng quản trị). Mỗi công ty mẹ có thể có
nhiều công ty con nhưng mỗi công ty con chỉ có một công ty
mẹ; các công ty con có thể tiếp tục đầu tư vào các công ty
con khác. Ngoài ra, công ty mẹ không bị ràng buộc hay phải


chịu trách nhiệm liên đới đối với các nghĩa vụ tài sản của
công ty con.
II.

Sự liên kết trong mô hình nhóm công ty
Sự liên kết trong nhóm công ty rất đa dạng, thể hiện ở đặc

điểm của từng loại hình nhóm công ty và từng quan hệ giữa
các công ty trong nhóm công ty. Có ba hình thức liên kết
chính đó là: liên kết theo chiều ngang, liên kết theo chiều
dọc và liên kết hỗn hợp đa ngành, đa lĩnh vực.
Liên kết theo chiều ngang: diễn ra giữa các công ty hoạt
động trong cùng một ngành bằng việc tham gia cổ phần góp
vốn lẫn nhau hoặc các thỏa thuận nhằm phân chia thị
trường, kiêm soát sự gia nhập nhóm của các công ty bên
ngoài. Các công ty liên kết theo chiều ngang có các sản
phẩm, dịch vụ liên quan với nhau và có thể sử dụng cùng
một hệ thống phân phối để gia tăng hiệu quả (Ví dụ như sự
liên kết giữa doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo với doanh
nghiệp sản xuất đường). Ưu điểm của hình thức liên kết theo
chiều ngang là tạo điều kiện đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ,
tận dụng hệ thống phân phối để tiết kiệm chi phí, phân tán
rủi ro. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là thiếu sự chủ
động ở một số khâu như cung ứng nguyên liệu, sản xuất, bảo

quản, vận chuyển,…
Liên kết theo chiều dọc: diễn ra giữa các công ty trong
cùng một dây chuyền công nghệ, trong đó, các công ty cùng
nhau hợp tác để hình thành một sản phẩm, một mục tiêu
chung nào đó. Đây là mô hình liên kết các công ty hoạt động
trong cùng một chuỗi giá trị ngành (Ví dụ như sự liên kết giữa
doanh nghiệp may mặc với doanh nghiệp cung cấp nguyên


liệu). Liên kết theo chiều dọc có thể là tích hợp ngược
(backward integration) – hướng về bên trái chuỗi giá trị, (ví
dụ, công ty sản xuất mua lại hoặc đầu tư vốn vào các công ty
cung ứng nguyên liệu cho mình) hoặc tích hợp xuôi (forward
integration) – hướng về bên phải chuỗi giá trị, (ví dụ, công ty
sản xuất mua lại hoặc đầu tư vốn vào một công ty thương
mại/tiếp thị/vận tải để tiêu thụ sản phẩm do mình sản xuất)
hoặc cả hai. Hình thức này có ưu điểm là đem lại nhiều lợi
thế về chi phí, về sự chủ động nguồn nguyên liệu, chủ động
trong việc sản xuất và đưa hàng ra thị trường, khả năng kiểm
soát các dịch vụ,… tuy nhiên hình thức liên kết dọc cũng có
khó khăn là sẽ bị phân tán nguồn lực, khó tập trung vào hoạt
động chủ yếu tạo giá trị gia tăng cao nhất trong chuỗi giá trị.
Liên kết hỗn hợp đa ngành, đa lĩnh vực: là loại liên kết
các doanh nghiệp hoạt động trong nhiều ngành, nghề và lĩnh
vực có mối quan hệ và không có mối quan hệ về công nghệ,
quy trình sản xuất,… nhưng có mối quan hệ chặt chẽ về tài
chính. Công ty mẹ không nhất thiết phải trực tiếp sản xuất
kinh doanh một sản phẩm cụ thể mà chủ yếu làm nhiệm vụ
đầu tư, kinh doanh vốn; điều tiết, phối hợp kinh doanh giữa
các lĩnh vực. Các công ty con bằng kế hoạch, chiến lược phát

triển kinh doanh thống nhất, thực hiện điều hoà vốn, lợi
nhuận giữa các công ty con, lĩnh vực kinh doanh hoặc điều
chỉnh, chuyển dịch vốn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh có
hiệu quả cao,…
1. Sự liên kết trong mô hình tập đoàn kinh tế, tổng
công ty


TĐKT, TCT không phải một doanh nghiệp, không có tư
cách pháp nhân và không phải đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật về doanh nghiệp. Do đó, các mệnh lệnh
hành chính không được sử dụng trong điều hành các TĐKT,
TCT. Các doanh nghiệp là thành viên của TĐKT, TCT phải có
tư cách pháp nhân độc lập, có cơ quan quyền lực cao
nhất (Hội đồng thành viên hay Đại hội cổ đông). Chủ tịch Hội
đồng thành viên, Hội đồng quản trị các công ty trong TĐKT,
TCT tập hợp lại thành Hội đồng Chủ tịch tập đoàn, TCT dựa
trên thỏa thuận giữa các thành viên của tập đoàn, TCT. Hội
đồng Chủ tịch bầu ra Chủ tịch tập đoàn, TCT. Hội đồng Chủ
tịch không thực hiện chức năng điều hành cụ thể đối với quá
trình sản xuất, kinh doanh và tổ chức của các công ty thành
viên, do đó, không có chức danh Tổng giám đốc tập đoàn,
TCT.
TĐKT, TCT được chia thành TĐKT, TCT nhà nước và TĐKT,
TCT tư nhân, mỗi loại hình lại có những đặc điểm khác nhau.
TĐKT, TCT nhà nước bao gồm công ty mẹ (doanh nghiệp
cấp I), công ty con của công ty mẹ (doanh nghiệp cấp II),
công ty con của doanh nghiệp cấp II và các cấp tiếp theo,
trong đó:
- Công ty mẹ là doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100%

vốn điều lệ và nằm dưới sự chi phối của Chính phủ.
- Các doanh nghiệp cấp hai sẽ do công ty mẹ chi phối,
doanh nghiệp cấp hai có thể được tổ chức dưới các hình
thức: công ty cổ phần, công ty TNHH, TCT theo hình thức
công ty mẹ – công ty con, công ty liên doanh, công ty con
ở nước ngoài.


Các doanh nghiệp liên kết của TĐKT, TCT nhà nước gồm:
doanh nghiệp có vốn góp dưới mức chi phối của công ty mẹ
và của công ty con; doanh nghiệp không có vốn góp của
công ty mẹ và của công ty con, tự nguyện tham gia liên kết
dưới hình thức hợp đồng, liên kết hoặc không có hợp đồng
liên kết nhưng có mối quan hệ gắn bó lâu dài về lợi ích kinh
tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác với
công ty mẹ hoặc doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn,
TCT.
Công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên TĐKT,
TCT nhà nước có tư cách pháp nhân; có quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản, phần vốn của mình theo quy định
của pháp luật và theo thỏa thuận chung của tập đoàn, TCT.
Nhà nước là chủ sở hữu vốn nhà nước trực tiếp đầu tư vào
công ty mẹ. Công ty mẹ là chủ sở hữu vốn nhà nước tại các
công ty con, các doanh nghiệp liên kết.
TĐKT, TCT tư nhân là những TĐKT, TCT thỏa mãn các điều
kiện về quy mô và cách thức liên kết như: Bao gồm nhóm
các công ty có tư cách pháp nhân độc lập và có quy mô
lớn; Hình thành trên cơ sở tập hợp, liên kết thông qua đầu tư,
góp vốn, sáp nhập, mua lại, tổ chức lại hoặc các hình thức
liên kết khác; Gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công

nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác; Được tạo
thành tổ hợp kinh doanh có từ hai cấp doanh nghiệp trở lên
dưới hình thức công ty mẹ – công ty con.
2. Sự liên kết trong mô hình công ty mẹ - công ty con
Đối với mô hình công ty mẹ công ty con, sự liên kết chỉ bắt
đầu khi hội tụ được các điều kiện.


Thứ nhất, công ty mẹ bỏ vốn vào công ty con (mô hình
công ty mẹ – công ty con hình thành khi một công ty thực
hiện đầu tư, góp vốn – trên 50% vốn điều lệ – vào một công
ty khác). Thông thường, nếu số vốn đầu tư vào công ty khác
không đạt mức quá bán, công ty nhận vốn sẽ không trở
thành công ty con mà chỉ là công ty liên kết với công ty góp
vốn.
Thứ hai, công ty mẹ đã phải được quản trị theo khoa học;
nghĩa là nó đã có một nền nếp được ghi vào một hệ thống
văn bản; việc quản trị dựa trên sự kiểm soát cách thực hiện
các quy trình chứ không phải dựa trên niềm tin vào những
người nhất định.
Khi đã ở trong quan hệ mẹ – con, công ty mẹ chi phối đối
với các quyết định liên quan đến hoạt động của công ty con
thông qua một số hình thức như quyền bỏ phiếu chi phối đối
với các quyết định của công ty con, quyền bổ nhiệm và miễn
nhiệm Hội đồng quản trị, ban lãnh đạo hoặc quyền tham gia
quản lý, điều hành. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng vị trí công ty
mẹ và công ty con chỉ trong mối quan hệ giữa hai công ty với
nhau và mang tính chất tương đối, tức công ty con này có
thể là công ty mẹ của một công ty khác. Tính tương đối này
càng nổi bật hơn trong trường hợp các công ty trong một

nhóm có nắm giữ vốn cổ phần qua lại của nhau.
Vì công ty mẹ và công ty con là hai thực thể pháp lý độc
lập nên công ty mẹ chỉ chịu trách nhiệm với phần vốn mà
mình góp. Tuy nhiên, do mối quan hệ có tính chất chi phối
các quyết định của công ty con, nên pháp luật bắt buộc công
ty mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới về những ảnh hưởng của


công ty mẹ đối với công ty con. Pháp luật nước ta quy định
về quyền và trách nhiệm của công ty mẹ đối với công ty con
tại Điều 190 LDN2014:
“1. Tuỳ thuộc vào loại hình pháp lý của công ty con, công
ty mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách là
thành viên, chủ sở hữu hoặc cổ đông trong quan hệ với công
ty con theo quy định tương ứng của Luật này và quy định
khác của pháp luật có liên quan.
2. Hợp đồng, giao dịch và quan hệ khác giữa công ty mẹ
và công ty con đều phải được thiết lập và thực hiện độc lập,
bình đẳng theo điều kiện áp dụng đối với các chủ thể pháp lý
độc lập.
3. Trường hợp công ty mẹ can thiệp ngoài thẩm quyền của
chủ sở hữu, thành viên hoặc cổ đông và buộc công ty con
phải thực hiện hoạt động kinh doanh trái với thông lệ kinh
doanh bình thường hoặc thực hiện hoạt động không sinh lợi
mà không đền bù hợp lý trong năm tài chính có liên quan,
gây thiệt hại cho công ty con thì công ty mẹ phải chịu trách
nhiệm về thiệt hại đó.
4. Người quản lý của công ty mẹ chịu trách nhiệm về việc
can thiệp buộc công ty con thực hiện hoạt động kinh doanh
quy định tại khoản 3 Điều này phải liên đới cùng công ty mẹ

chịu trách nhiệm về các thiệt hại đó.
5. Trường hợp công ty mẹ không đền bù cho công ty con
theo quy định tại khoản 3 Điều này thì chủ nợ hoặc thành
viên, cổ đông có sở hữu ít nhất 1% vốn điều lệ của công ty
con có quyền nhân danh chính mình hoặc nhân danh công ty
con đòi công ty mẹ đền bù thiệt hại cho công ty con.


6. Trường hợp hoạt động kinh doanh như quy định tại
khoản 3 Điều này do công ty con thực hiện đem lại lợi ích
cho công ty con khác của cùng một công ty mẹ thì công ty
con được hưởng lợi đó phải liên đới cùng công ty mẹ hoàn trả
khoản lợi được hưởng đó cho công ty con bị thiệt hại.”
Theo khoản 1 có thể hiểu tùy vào hình thức công ty con
mà công ty mẹ sẽ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình
theo những cách khác nhau. Nếu công ty con là công ty
TNHH thì công ty mẹ sẽ giữ vai trò như một thành viên góp
vốn trong công ty TNHH; nếu công ty con là công ty cổ phần
thì công ty mẹ sẽ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với
tư cách là cổ đông trong công ty…
Công ty mẹ và công ty con bình đẳng trong quan hệ kinh
tế do đều là các pháp nhân độc lập. Mọi giao dịch, hợp đồng
hay quan hệ phát sinh giữa công ty mẹ và công ty con đều
phải thực hiện theo trình tự thủ tục, công ty mẹ không ó
quyền áp đặt hay ra nhửng chỉ thị, mệnh lệnh mang tính
hành chính đối với công ty con.
Mức độ kiểm soát của công ty mẹ đối với công ty con
nhiều hay ít tùy thuộc vào số vồn mà công ty mẹ góp vào
công ty con (thông thường là trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng
số cổ phần phổ thông), ngoài ra mức độ kiểm soát còn dựa

trên quyền biểu quyết trong Hội đồng quản trị. Công ty mẹ
có thể cử một vài người làm đại diện, thay mặt công ty mẹ
làm cổ đông để họ được bầu vào hội đồng quản trị và chiếm
đa số phiếu biểu quyết ở đó.
Thêm vào đó, công ty con phải chịu trách nhiêm vô hạn
cho chính những hoạt động của mình mà không thể cầu cứu


công ty mẹ khi đứng trước người khác hay tòa án; vì vậy các
quyết định phải do nội bộ công ty con đưa ra chứ không phải
do sự áp đặt từ phía công ty mẹ.
Ngoài ra, công ty mẹ phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại cho công ty con trong trường hợp công ty mẹ can
thiệp ngoài thẩm quyền của chủ sở hữu, thành viên hoặc cổ
đông, và buộc công ty con phải thực hiện hoạt động kinh
doanh trái với thông lệ kinh doanh bình thường hoặc thực
hiện hoạt động không sinh lợi mà không đền bù hợp lý trong
năm tài chính có liên quan (khoản 3 Điều 190), một vài
trường hợp người quản lý của công ty mẹ cũng phải liên đới
cùng công ty mẹ chịu trách nhiệm về các thiệt hại do việc
can thiệp vào hoạt động kinh doanh của công ty con gây ra
(khoản 4 Điều 190).
Nếu công ty mẹ không đền bù cho công ty con theo đúng
với quy định của pháp luật thì chủ nợ hoặc các thành viên, cổ
đông sở hữu ít nhất 1% vốn điều lệ của công ty con có quyền
đòi công ty mẹ đền bù thiệt hại (khoản 5, Điều 190).
Đối với trường hợp hoạt động kinh doanh của công ty con
đem lại lợi ích cho công ty con khác của cùng một công ty
mẹ thì công ty con được hưởng lợi có nghĩa vụ liên đới với
công ty mẹ, hoàn trả khoản lợi được hưởng cho công ty con

bị thiệt hại (khoản 6, Điều 190).
III.

Thực trạng mô hình liên kết nhóm công ty hiện

nay
1. Mô hình tập đoàn kinh tế, tổng công ty
Hiện nay ở nước ta, có 10 TĐKT Nhà nước: Tập đoàn Bưu
chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Tập đoàn Dầu khí Quốc
gia Việt Nam (PetroVietnam), Tập đoàn Điện lực Việt Nam


(EVN), Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) , Tập đoàn
Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin), Tập
đoàn Tài chính – Bảo hiểm Bảo Việt (Bảo Việt), Tập đoàn Dệt
May Việt Nam (Vinatex), Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt
Nam (VRG), Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam
(Vinachem), Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), và
các TCT lớn như: Tổng công ty Xây dựng Sông Đà, Tổng công
ty Thuốc lá Việt Nam, Tổng công ty Thép Việt Nam, Tổng
công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Lương thực miền
Nam, Tổng công ty Lương thực miền Bắc, Tổng công ty Giấy
Việt Nam, Tổng công ty Hàng không Việt Nam, Tổng công ty
Công nghiệp Xi măng Việt Nam, Tổng công ty Cà phê Việt
Nam, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam,…
Các TĐKT, TCT tư nhân lớn có thể kể đến như: Tập đoàn
Vàng bạc Đá quý DOJI, Vingroup, FPT, Hòa Phát, Hoàng Anh
Gia Lai,…
Trong thời gian qua, hoạt động của các TĐKT, TCT đã đạt
được những kết quả nhất định, ngày càng từng bước phát

triển, nhất là những TĐKT, TCT tư nhân. Tuy nhiên, các TĐKT,
TCT Nhà nước, mặc dù là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô,
tuy nhiên, do sự quản lý yếu kém, tình trạng quan liêu và
tham nhũng nên những tập đoàn, TCT này không những hoạt
động kém hiệu quả mà còn gây thất thoát, thiệt hại nặng nề
đối với nền kinh tế đất nước như trường hợp của Tập đoàn
Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam – Vinashin (sau tái cơ cấu
thành Tổng công ty Công nghiệp Tàu thủy – SBIC), Tổng Công
ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines). Do vậy việc thay đổi, thắt


chặt cơ chế quản lý của Nhà nước đối với mô hình TĐKT, TCT
Nhà nước là rất cấp bách.
2. Mô hình công ty mẹ - công ty con
Mô hình liên kết công ty mẹ – công ty con thể hiện nhiều
ưu điểm cả về cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý, đặc biệt là
đối với những nhóm doanh nghiệp có quy mô lớn như các tập
đoàn, TCT xuyên quốc gia và đa quốc gia.
Thứ nhất, theo mô hình này, khi một đơn vị kinh doanh
chiến lược của một doanh nghiệp phát triển đến mức yêu cầu
phải có sự tự chủ trong hoạt động, thì các doanh nghiệp có
xu hướng tách đơn vị kinh doanh chiến lược này thành một
thực thể pháp lý độc lập, và về mặt pháp lý doanh
nghiệp không chịu trách nhiệm liên quan đến hoạt động
của thực thể đó. Việc chủ sở hữu có trách nhiệm hữu hạn là
điều kiện cần để xác lập một cơ chế quản lý phân cấp triệt
để hơn khi thực thể được tách ra còn là một bộ phận trực
thuộc của công ty mẹ.
Thứ hai, với mối quan hệ theo mô hình công ty mẹ – công
ty con, công ty mẹ còn có thể thực hiện được chiến lược

chuyển giá, nhất là trong những trường hợp các doanh
nghiệp lập cơ sở kinh doanh ở nước ngoài.
Thứ ba, với mô hình này, các doanh nghiệp có thể thực
hiện được sự liên kết với các doanh nghiệp khác nhằm giảm
cạnh tranh, tăng độc quyền của thiểu số, cùng phối hợp hay
chia sẻ các nguồn lực, tận dụng các thế mạnh của các cổ
đông... bằng cách cùng nhau đầu tư lập các công ty con.


Thứ tư, mô hình công ty mẹ – công ty con cho phép các
doanh nghiệp chủ động hơn trong việc bố trí và tái bố trí cơ
cấu đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau theo chiến lược phát
triển của doanh nghiệp bằng việc mua hoặc bán cổ phần của
mình trong các công ty con.
Cuối cùng, mô hình công ty mẹ – công ty con cho phép
một doanh nghiệp huy động vốn để mở rộng sản xuất kinh
doanh bằng cách thành lập công ty con mới trong điều kiện
vừa có thể kiểm soát được doanh nghiệp mới thành lập một
cách hữu hiệu thông qua cổ phần khống chế, vừa không bị
các nhà đầu tư chi phối đối với doanh nghiệp cũ.
C. LỜI KẾT
Chính vì những ưu điểm nêu trên, hiện nay ở nhiều nước,
mô hình công ty mẹ – công ty con gần như là mô hình duy
nhất được sử dụng để xác lập mối quan hệ giữa các công ty
trong cùng một nhóm, một tập đoàn.
Cùng với ưu điểm vượt trội, mô hình liên kết nhóm công ty
cần được mở rộng và phát triển mạnh hơn ở nước ta trong
thời gian tới. Đồng thời, Nhà nước cần siết chặt hơn các quy
định pháp luật điều chỉnh mô hình liên kết này để đảm bảo
phát triển nền kinh tế mà không gây ra những thiệt hại, hậu

quả đáng tiếc.



×