TÌNH HÌNH THỰC TẾ VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN
NGUYÊN VẬT LIỆU TẠI ĐIỆN LỰC CẦU GIẤY CÔNG TY ĐIỆN LỰC
TP HÀ NỘI
2.1- Đặc điểm tổ chức, hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty điện lực hà
nội.
2.1.1- Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Điện lực Hà Nội
Công ty Điện lực Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng
Công ty Điện lực Việt Nam- Bộ công nghiệp, có trụ sở đóng tại 69 Đinh Tiên
Hoàng, Hoàn Kiếm- Hà Nội.
Quá trình hình thành và phát triển của công ty có thể tóm lược một số nét cơ
bản sau:
Tổ chức tiền thân của Công ty Điện lực TP Hà Nội là Nhà máy đèn Bờ Hồ,
do thực dân Pháp xây dựng năm 1892 sau khi xâm chiếm toàn bộ nước ta, với vốn
đầu tư ban đầu là 3 triệu Frăng.
Năm 1954 chính quyền cách mạng tiếp nhận nhà máy từ tay thực dân Pháp.
Năm 1960 Nghị quyết Đại Hội Đảng lần thứ ba đã chỉ rõ: “… Để phát triển
các nghành kinh tế khác thì cần phải phát triển điện lực trước một bước”. Vì vậy,
trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất nhiều nhà máy nhiệt điện được xây dựng và đi
vào sử dụng và song song với nó các trạm cao thế 110KV được đưa vào vận hành.
Lúc này, Nhà máy đèn Bờ Hồ được đổi tên thành Sở quản lý và phân phối điện khu
vực I. Sở được giao quản lý trạm 110KV Đông Anh và phần lớn đường dây
110KV. Tính đến cuối năm 1964 sản lượng điện thương phẩm đã đạt được 251,5
KWh (riêng khu vực Hà Nội là 82,5 triệu KWh) gấp 12 lần sơ với năm 1954.
Đến năm1980 Sở quản lý và phân phối điện I được đổi tên thành Sở Điện
lực Hà Nội. Năm 1980 Sở Điện lực Hà Nội được củng cố một bứơc về tổ chức sản
xuấtm các trạm 110KV tách khỏi Sở để thành lập Sở truyền tải. Phân xưởng Diezel
tách ra thành lập Nhà máy Diezel. Bộ phận đèn đường tách ra trở thành Xí nghiệp
đèn công cộng trực thuộc Thành phố quản lý. Nhiệm vụ của Sở Điện lực Hà Nội
lúc này là:
- Quản lý vận hành lưới điện 35KV trở xuống.
- Kinh doanh phân phối điện.
- Làm chủ đầu tư các công trình phát triển lưới điện
Từ năm 1984, lưới điện Hà Nội bắt đầu được cải tạo với quy mô lớn nhờ sự
giúp đỡ của Liên Xô. Tuy nhiên, do nguồn điện còn nhiều khó khăn nên việc cấp
điện cho Hà Nội vẫn không ổn định, chưa thoả mãn được nhu cầu sản xuất và kinh
doanh của nhân dân Thủ đô. Cuối năm 1984, điện năng thương phẩm đạt 604,8
triệu KWh (khu vực Hà Nội 273,4 triệu KWh) tăng 26,8 lần so với nam 1954 và
lưới điện đã phát triển tới 3.646,58km đường dây cao, hạ thế.
Năm 1989, các tổ máy của Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình lần lượt đưa vào
hoạt động, nguồn điện của Thủ đô dần được đảm bảo. Do việc cải tạo lưới điện
theo sơ đồ của Liên Xô chỉ mới đề cập đến việc cải tạo l ưới điện trung thế nên
lưới phân phối hạ thế còn nhiều nhược điểm : tổn thất cao, sự cố nhiều. Được sự
đồng ý của Bộ Năng lượng, Sở Điện lực Hà Nội đã tiến hành cải tạo lưới điện hạ
thế đảm bảo cho việc cấp điện ổn định, giảm tỷ lệ tổn thất.
Từ năm 1991, được sự giúp đỡ của Chính Phủ Thuỵ Điển thông qua tổ chức
SIDA, Sở Điện lực Hà Nội đã tiến hành triển khai 5 dự án theo chương trình cải
tạo và nâng cấp lưới điện Hà Nội.
Đến tháng 4-1995 Sở Điện lực Hà Nội được đổi tên thành Công ty Điện lực
Thành phố Hà Nội, Công ty Điện lực TP Hà Nội đã mở rộng ra 9 quận, huyện của
thành phố và đã khắc phục mọi khó khăn để cung cấp điện năng đầy đủ, ổn định
phục vụ cho sản xuất kinh doanh và đời sống các tầng lớp nhân dân trên toàn
Thành phố Hà Nội.
Năm 1997 để phục vụ cho công việc đổi mới và quy hoạch đô thị, công ty
Điện lực TP Hà Nội thành lập mới thêm 2 Điện lực nội thành là Điện lực Thanh
Xuân và Điện lực Tây Hồ. Và đến năm 2007 tiếp tục thành lập thêm hai điện lực
mới nữa là Điện lực Hoàng Mai và Điện lực Long Biên để phục vụ tốt điện năng
cho sinh hoạt và sản xuất.
2.1.2- Chức năng, nhiệm vụ hoạt động của Công ty.
Công ty Điện lực Hà Nội có phạm vi hoạt động là khu vực Hà Nội và vùng
phụ cận, bao gồm : 9 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành.
2.1.2.1- Chức năng của Công ty:
- Tổ chức kinh doanh và vận hành lưới điện.
- Khảo sát điện và sửa chữa các thiết bị điện
- Xây lắp điện
- Sản xuất phụ kiện và thiết bị điện
- Xuất nhập khẩu vật tư thiết bị điện
- Tổ chức và hoàn thiện hệ thống kinh doanh truyền tải và phân phối điện
năng trên khu vực Hà Nội, thực hiện nghĩa vụ thu nộp tiền điện cho Tổng công ty
và ngân sách Nhà nứơc. Thực hiện các dịch vụ liên quan đến nghành điện.
2.1.2.2- Nhiệm vụ của Công ty.
Để thực hiện tốt các chức năng trên Công ty đã đề ra các nhiệm vụ cụ thể
sau:
- Tổ chức tốt công tác kế hoạch hoá:
+ Lập kế hoạch cải tạo, nâng cấp và phát triển lưới điện trong địa bàn
+ Lập kế hoạch mua bán điện năng thương phẩm, kế hoạch cung ứng điện
cho các thành phần kinh tế địa phương.
- Quản lý chặt chẽ khách hàng điện năng thương phẩm
- Tổ chức công tác cán bộ, lao động tiền lương và đào tạo.
- Tổ chức tốt công tác quản lý lưới điện trong thành phố, giảm thiểu thất
thoát.
- Tổ chức tốt công tác phát triển điện nông thôn.
- Phấn đấu giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, đặc biệt là chi phí trong quản
lý sản xuất, vận hành điện.
- Thực hiện tốt nghĩa vụ đóng góp với ngân sách nhà nước.
- Quản lý và vận hành các thiết bị truyền tải cao, trung và hạ áp, bảo đảm
cung cấp điện đầy đủ ( lưới điện phủ khắp các ngõ phố trong nội thành và các khu
vực phụ cận), ổn định (điện áp ổn định, ít dao động), liên tục (cung cấp 24/24 giờ)
với chất lượng cao, thực hiện tốt kế hoạch hàng năm và kế hoạch 5 năm do ngành
đề ra.
- Xây dựng phương án quy hoạch và phát triển lưới điện cao, trung và hạ áp
cho các thời kỳ. Xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch bảo dưỡng các thiết bị điện
nhằm ngày càng hoàn thiện lưới điện Hà Nội.
2.1.3- Đặc điểm hoạt động sản xuất- kinh doanh.
Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội là một công ty hạch toán độc lập thuộc
Tổng công ty Điện lực Việt Nam.
Điện lực là một ngành sản xuất công nghiệp then chốt của nền kinh tế quốc
dân, tất cả mọi ngành sản xuất đều cần có điện mói hoạt động được. Chính vì vậy,
sản xuất điện phải đi trước các ngành kinh tế khác một bước; yêu cầu cung cấp
điện đầy đủ, ổn định, liên tục và an toàn được đặt lên hàng đầu. sản phẩm điện có
điểm đặc biệt là nó không mang hình thái hiện vật như sản phẩm của các ngành
công nghiệp khác mà là sản phẩm dưới dạng năng lượng. Quy trình sản xuất vừa
mang tính chất của ngành khai thác (thuỷ điện), vừa mang tính chất của ngành
công nghiệp chế biến (từ than, dầu). Quy trình sản xuất từ thuỷ điện, nhiệt điện…
có khác nhau nhưng đều cho một sản phẩm điện đồng nhất, không nhiều dạng sản
phẩm như các ngành khác.
Quy trình công nghệ kỹ thuật của doanh nghiệp Điện lực hoàn chỉnh bao
gồm đầy đủ các khâu: Phát điện, truyền tải và phân phối điện, đây là một quá trình
khép kín có tác động qua lại trực tiếp với nhau. Thời gian sản xuất ra điện, truyền
tải điện (quá trình vận chuyển sản phẩm ) và tiêu dùng điện cùng xảy ra đồng thời.
Ngành điện không có sản phẩm tồn kho, không có bán thành phẩm và sản phẩm dở
dang cũng như không có trường hợp hàng đã bán bị trả lại (đối với sản phẩm điện)
như các ngành sản xuất khác. Vì vậy, việc tiêu dùng điện có ảnh hưởng chặt chẽ
đến sản xuất điện. Hơn nữa việc tiêu dùng điện cũng hoàn toàn phụ thuộc vào yếu
tố kỹ thuật và tự trang bị, đầu tư của ngành điện, người sử dụng điện không làm
chủ được sản phẩm mà mình đã mua và phụ thuộc vào sự điều hành sản xuất,
truyền tải và phân phối điện của người bán.
Việc sản xuất điện được giao cho các nhà máy điện đảm nhận. Sản phẩm của
các nhà máy điện là sản lượng điện đã sản xuất ra trừ đi lượng điện dùng để sản
xuất điện, sản lượng điện này gọi là điện thanh cái.
Điện thanh cái =
Tổng sản lượng điện do
nhà máy điện sản xuất
ra
-
sản lượng điện dùng
để sản xuất
điện ở nhà máy điện
Điện do các nhà máy sản xuất ra, muốn đưa đến người sử dụng điện phải qua hệ
thống truyền tải, phân phối điện. Chức năng này được giao cho các công ty truyền
tải điện và công ty Điện lực đảm nhận trên địa dư từng thành phố, tỉnh thành. Hệ
thống truyền tải điện gồm: cột, đường dây cao thế (từ 66KV đến 220KV và
500KV), hệ thống điện trung thế (từ 6KV đến 35KV), các trạm biến thế điện và
mạng lưới điện hạ thế. Hệ thống truyền tải điện đi càng xa, càng mở rộng thì càng
hao hụt nhiều ở đường dây và trạm biến áp. Sản lượng điện của hệ thống truyền tải
phân phối là lượng điện thương phẩm tức là sản lượng điện truyền dẫn đến người
sử dụng điện. Điện thương phẩm bằng điện thanh cái của các nhà máy phát điện
đưa lên máy truyền tải trừ đi sản lượng điện hao hụt mất mát trên hệ thống truyền
tải và phân phối (tổn thất điện).
Điện thương
phẩm
=
Điện thanh
cái
-
tổn thất
điện
Phát điệnNhà máySX điện
Truyền tải điệnqua đường dây và các trạm biến thếPhân phối điện các trạm biến ápTiêu thụ điệnCác DN, nhà máy và các hộ
Quy trình sản xuất- truyền tải- phân phối điện:
Ở các doanh nghiệp điện lực, bên cạnh mục tiêu là hiệu quả kinh doanh, thì
mục tiêu phục vụ chính trị và phục vụ xã hội cũng được đặt lên hàng đầu. Thậm
chí có những lúc mục tiêu phục vụ chính trị và phục vụ xã hội phải được đặt lên
trên mục tiêu hiệu quả kinh doanh.
Ví dụ: trong những ngày lễ, tết công ty phải huy động tối đa công suất các
máy giám sát vận hành điện tự động, các máy phát điện tự động dự phòng... bảo
đảm không để mất điện trong những ngày này để phục vụ tốt nhất nhu cầu sử dụng
cho nhân dân.
Bên cạnh đó, yếu tố an toàn và giảm tỷ lệ tổn thất điện năng cả về phía
người sản xuất, người vận hành và người sử dụng cũng được các doanh nghiệp
Điện lực đặc biệt chú ý.
Phần trên là các đặc điểm chung trong sản xuất- kinh doanh của các doanh
nghiệp Điện lực nằm trong cơ cấu của Tổng công ty Điện lực Việt Nam. Sau đây là
đặc điểm riêng trong hoạt động sản xuất- kinh doanh của Công ty Điện lực Hà Nội.
Công ty Điện lực Hà Nội có 14 điện lực thành viên (gồm 9 Điện lực nội
thành và 5 Điện lực ngoại thành) đóng trên địa dư của 14 quận, huyện trong nội
thành và ngoại thành của Thành phố. Các Điện lực thành viên được Công ty cấp
vốn bằng tiền mặt và vật tư kinh doanh, được phân quyền quản lý hoạt động kinh
doanh điện tại quận, huyện mình. Các Điện lực thành viên hạch toán phụ thuộc và
phải thực hiện chế độ quản lý và hạch toán tài chính theo đúng quy chế phân cấp
của Công ty.
Quy trình kinh doanh mua bán điện của Công ty Điện lực HN có thể khái
quát như sau:
Tổng công ty sẽ dựa vào số điện mua đầu nguồn của Công ty ĐLHN để xác
định doanh thu của công ty TTĐ1, còn Công ty ĐLHN sẽ dựa vào số điện mua đầu
nguồn này để xác định chi phí mua điện của Tổng công ty(sau đó sẽ tập hợp vào
giá thành điện thương phẩm). Đối với ngành điện, điện sản xuất ra đến đâu tiêu thụ
hết đến đó, không thể có trường hợp điện do Công ty TTĐ1 truyền về trạm đầu
nguồn thành phố HN là 3 triệu KWh trong 1 ngày đêm nhưng công ty ĐLHN chỉ
mua 2 triệu KWh được do đó, điện truyền tải về bao nhiêu, công ty TTĐ1 được
tính doanh thu và Công ty ĐLHN được xác định chi phí bấy nhiêu. Tuy nhiên, việc
xác định thời điểm điện truyền vào trạm đường dây đầu nguồn thành phố HN để
tính doanh thu của công ty TTĐ1 và tính chi phí mua điện của công ty ĐLHN chỉ
mang tính lý thuyết vì trên thực tế thời điểm này diễn ra rất nhanh và xảy ra liên
tục (do dòng điện truyền liên tục, không thể tính doanh thu và chi phí theo từng
giây một), kế toán chỉ có thể xác định một cách tương đối 1 lần đối với doanh thu
và chi phí mua điện theo tháng, quí , năm nhằm tạo thuận lợi cho công tác kế toán.
Đây cũng chính là một đặc thù của Công ty ĐLHN bởi tất cả các khâu từ sản xuất
đến phân phối tiêu dùng điện là một dây chuyền khép kín toàn ngành.
2.1.4- Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của công ty.
Xuất phát từ tình hình và nhiệm vụ mà cấp trên giao, việc tổ chức xây dựng
bộ máy quản lý của công ty phải vừa phù hợp với đặc điểm của ngành nghề sản
xuất kinh doanh vừa đáp ứng được nhu cầu về mặt nhân lực và chất lượng sản xuất
kinh doanh của đơn vị
Công ty tổ chức quản lý theo mô hình trực tuyến chức năng. Đứng đầu công
ty là Giám độc, Giám đốc công ty là người đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ của
toàn công ty trước cơ quan cấp trên và trước pháp luật.
Giúp việc cho Giám đốc là 3 phó giám đốc: một phó giám đốc kinh doanh,
một phó giám đốc kỹ thuật và một phó giám đốc phụ trách đầu tư xây dựng. Ngoài
việc uỷ quyền cho các phó giám đốc, giám đốc công ty còn trực tiếp chỉ đạo thông
qua các trưởng phòng.
Các phòng ban chức năng được tổ chức theo yêu cầu của quản lý sản xuất
kinh doanh, chịu sự lãnh đạo và giúp việc cho Ban giám đốc, đảm bảo cho mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được liên tụ. Chức năng, nhiệm vụ của
từng phòng ban được quy định như sau:
+ Văn phòng công ty:
Có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất giúp giám đốc trong quản lý, chỉ đạo công
tác quản trị, văn phòng, văn thư...và một số công việc khác được giao. Tổ chức
thực hiện, hướng dẫn, kiểm tra đôn đốc các đơn vị thực hiện.
+Phòng Kế hoạch:
Có nhiệm vụ tham mưu,đề xuất giúp Giám đốc công ty trong quản lý, chỉ
đạo công tác quản trị kế hoạch: kế hoạch chiến lược, kế hoạch dài hạn, ngắn hạn…
+ Phòng Tổ chức lao động:
Có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất giúp Giám đốc Công ty trong quản lý, chỉ
đạo công tác tổ chức cán bộ, công tác tổ chức sản xuất, công tác đào tạo phát triển
nguồn nhân lực, công tác lao động tiền lương...
+ Phòng Kỹ thuật:
Có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất giúp Giám đóc Công ty trong quản lý, chỉ
đạo công tác quản lý kỹ thuật ở các khâu quy hoạch, xây dựng, vận hành, sửa chữa,
cải tạo lưới điện...
+Phòng Tài chính kế toán.
Có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất giúp Giám đốc Công ty trong quản lý, chỉ
đạo công tác quản lý tài chính, công tác hạch toán kinh tế, công tác phân tích hoạt
động kinh tế và nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn, công tác thống kê thông tin
kinh tế... Tổ chức ghi chép, tính toán và phản ánh chính xác, trung thực, kịp thời
đầy đủ toàn bộ tài sản, nguồn vốn; phân tích kết quả hoạt động SXKD của Công ty.
Lập đầy đủ, gửi đúng hạn các báo cáo quyết toán tài chính của khối SXKD, xây
dựng cơ bản và hợp nhất toàn Công ty theo đúng quy định. Tổ chức kiểm tra, xét
duyệt báo cáo quyết toán tài chính của các đơn vị trực thuộc...
+ Phòng Vật tư:
Có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất giúp Giám đốc Công ty trong quản lý, chỉ
đạo công tác mua sắm, quản lý, theo dõi, cấp phát vật tư thiết bị và một số công
việc khác được giao, thực hiện và hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các đơn vị thực
hiện.
+ Phòng Bảo vệ quân sự:
Có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất giúp Giám đốc Công ty trong quản lý, chỉ
đạo công tác tổ chức hoạt động bảo vệ, quân sự...
+ Phòng Quản lý đầu tư xây dựng.
Có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất giúp Giám đốc Công ty trong quản lý, chỉ
đạo công tác quản lý đầu tư xây dựng và một số công việc khác được giao.
+ Phòng Kinh doanh bán điện.
Có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất giúp Giám đốc Công ty trong quản lý, chỉ
đạo công tác kinh doanh điện năng trong toàn Công ty theo quy định …
+ Phòng Kinh tế đối ngoại, xuất nhập khẩu.
Có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất giúp Giám đốc Công ty trong quản lý, chỉ
đạo hoạt động kinh tế đối ngoại, hợp tác quốc tế, xuất nhập khẩu vật tư thiết bị
theo phân cấp của Tổng công ty ; hoạt động nghiên cứu, phát triển thị trường...
+ Phòng Thanh tra :
Có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất giúp Giám đốc Công ty trong quản lý, chỉ
đạo công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp dân...
+ Phòng Quản lý tiếp nhận lưới điện nông thôn.
Có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất giúp Giám đốc Công ty trong quản lý, chỉ
đạo công tác quản lý, tiếp nhận lưới điện nông thôn của Công ty ...
+ Phòng Bảo hộ lao động.
Có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất giúp Giám đốc Công ty trong quản lý, chỉ
đạo công tác an toàn lao động, công tác bảo hộ lao động, phòng chống bão lụt..
+ Phòng Quản lý đấu thầu.
Có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất giúp Giám đốc Công ty trong quản lý, chỉ
đạo công tác đấu thầu trong toàn Công ty...
+ Phòng Thi đua tuyên truyền.
Có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất giúp Giám đốc Công ty trong quản lý, chỉ
đạo công tác thi đua tuyên truyền của Công ty …
Do tính chất đặc thù kinh doanh của ngành điện là quản lý lưới điện theo
khu vực, nên Công ty đã phân cấp cho 14 Điện lực nội, ngoại thành và các xưởng,
đội trực tiếp hoạt động quản lý, kinh doanh bán điện và giải quyết các sự cố trên
lưới điện:
14 Điện lực bao gồm:
+ 9 Điện lực nội thành: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng,
Thanh Xuân, Tây Hồ, Cầu Giấy, Hoàng Mai, Long Biên.
+ 5 Điện lực ngoại thành: Từ Liêm, Gia Lâm, Đông Anh, Thanh Trì, Sóc
Sơn.
Các Điện lực được phân cấp quản lý và vận hành lưới điện kinh doanh bán
điện thuộc địa phận từng quận, huyện. Điện lực là nơi trực tiếp nhận và giải quyết
các nhu cầu xin cấp điện của khách hàng, có nhiệm vụ tổ chức quản lý tốt công tác
vận hành lưới điện sửa chữa, thực hiện tốt việc cấp điện liên tục, an toàn, đảm bảo
chất lượng.
+ Đội quản lý đường dây cao thế: giải quyết nhanh các sự cố trên lưới cao
thế, tổ chức đại tu, sửa chữa lưới điện phục vụ yêu cầu sản xuất chung.
+ Đội quản lý cáp ngầm: Quản lý, vận hành, sửa chữa lưới điện ngầm.
+ Đội thí nghiệm: Có chức năng thí nghiệm, chạy thử, kiểm tra tiêu chuẩn
các thiết bị điện trước khi đưa vào vận hành.
+ Đội đại tu: Có nhiệm vụ quản lý, vận hành, sửa chữa, duy trì, bảo dưỡng
các trạm biến áp 110KV cung cấp cho thành phố.
+ Trung tâm điều độ thông tin: có nhiệm vụ điều hành mọi hoạt động truyền
tải điện trên lưới, đảm bảo thông tin cho việc vận hành lưới điện được chính xác
an toàn và hiệu quả.
+ Xí nghiệp quản lý lưới điện 110KV: quản lý và vận hành lưới điện 110KV
tại các trạm đầu nguồn khu vực Hà Nội.
+ Xưởng công tơ: có nhiệm vụ sửa chữa, đảm bảo độ chính xác của công tơ
điện và các thiết bị đo điện trước khi đưa vào sử dụng.
+ Ban quản lý dự án lưới điện Hà Nội: là ban quản lý chuyên trách nghiên
cứu và triển khai dự án cải tạo và phát triển lưới điện Hà Nội.
Ngoài ra, để đảm bảo công tác kinh doanh bán điện, cung ứng điện liên tục,
xử lý kịp thời các sự cố, hàng năm Công ty còn phải cải tạo, nâng cấp, sửa chữa
lưới điện và phục vụ các nhu cầu sử dụng điện khác của khách hàng như: xây dựng
các trạm biến thế, lắp đặt các hệ thống đường dây điện... Các hoạt động kinh doanh
phụ này đều được các Điện lực, các xưởng, đội của Công ty đảm nhiệm.
Nhìn chung, Công ty đã xây dựng được một bộ máy quản lý chặt chẽ hiệu
lực chỉ huy mạnh mẽ, kịp thời. Đồng thời, thủ trưởng đơn vị lại được khối lượng
các phòng ban gánh vác bớt những phần việc mang tính chất chuyên môn sâu và
đặc thù. Chính vì vậy, mà trong những năm qua Công ty đã bước vào kinh doanh
một cách ổn định, hiệu quả góp phần phát triển kinh tế trên địa bàn Thủ đô.
Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty được khái quát như sau
2.1.5. Đặc điểm hộ máy kế toán ở Công ty.
2.1.5.1. Sơ đồ bộ máy kế toán.
Công ty áp dụng hình thức kế toán vừa tập trung vừa phân tán
*) Nội dung :
Ở đơn vị chính có phòng kế toán trung tâm và ở các đơn vị phụ thuộc có
phân cấp quản lý kinh tế tài chính cũng có tổ chức bộ máy kế toán riêng.
- Ở phòng kế toán trung tâm có nhiệm vụ :
+ Thực hiện toàn bộ công tác kế toán phát sinh ở đơn vị chính.
+ Hướng dẫn và kiểm tra công tác kế toán ở các đơn vị thành viên.
+ Lập kế hoạch giao các chỉ tiêu tài chính cho các đơn vị trực thuộc Công ty.
+ Thu nhận, kiểm tra các Báo cáo kế toán của đơn vị phụ thuộc và lập Báo
cáo kế toán chung toàn đơn vị.
- Ở các đơn vị kế toán phụ thuộc :
+ Thực hiện toàn bộ công tác kế toán phát sinh ở đơn vị mình, định kỳ lập và
gửi báo cáo kế toán về phòng kế toán trung tâm.
*) Mô hình tổ chức bộ máy kế toán được thể hiện qua sơ đồ 2.3
Kế toán trưởng
Việc áp dụng hình thức kế toán này là xuất phát từ lĩnh vực hoạt động của
đơn vị (kinh doanh điện năng và vận hành lưới điện , xây lắp điện…) và xuất phát
từ quy mô cũng như phạm vi hoạt động của Công ty (quy mô hoạt động lớn và
phạm vi hoạt động rộng phân khắp thành phố Hà Nội), mức độ phân cấp quản lý,
trình độ trang bị kỹ thuật tương đối tốt cho công tác kế toán.
Vì vậy, mà nó đã phát huy được ưu điểm là đảm bảo sự lãnh đạo tập trung
thống nhất công tác kế toán của Công ty, dễ phân công công việc kế toán lại vừa
giúp cho việc kiểm tra, kiểm soát của kế toán được cụ thể hơn, tạo điều kiện tăng
cường hạch toán kinh doanh trong nội bộ các đơn vị phụ thuộc.
Tuy nhiên, bên cạnh đó một điều khó tránh khỏi đó là bộ máy nhân viên kế
toán sẽ tương đối nhiều.
Hiện nay, phòng kế toán có 24 người phụ trách chung là một kế toán trưởng
và có thêm 3 phó phòng kế toán, và 20 nhân viên kế toán. Trong đó :
+ Kế toán trưởng : Là người đứng đầu phòng tài chính kế toán, có trách
nhiệm tham mưu giúp Giám đốc chỉ đạo, thực hiện công tác quản lý tài chính, công
tác hạch toán kế toán và thống kê của Công ty ; chịu trách nhiệm trước Giám đốc
về kết quả công việc của Phòng được giao; tổ chức bộ máy kế toán. KTT có quyền
tham gia với các bộ phận liên quan lập quyết toán tài chính cho các công trình
được duyệt….
+ Phó phòng tài chính kế toán : Tham mưu giúp việc cho KTT kiểm tra hoạt
động tài chính, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các chứng từ, ghi chép sổ sách, báo
cáo kế toán đo các KTV thực hiện của các đơn vị trực thuộc.
+ Kế toán tiền gửi ngân hàng : Ghi chép các khoản thu, chi liên quan đến
TGNH. Cuối tháng đối chiếu số dư tài khoản TGNH với bảng sao kê do NH gửi ;
lập báo cáo chi tiết tài khoản TGNH nộp cho kế toán tổng hợp.
+ Kế toán tiền mặt : Theo dõi các khoản thu chi liên quan đến tiền mặt, xác
định và lập bảng kê khai nộp thuế.
Phó
phòng
TCKT
Phó phòng
TCKT
+ Kế toán tiền lương, BHXH, BHYT, KPCĐ : tính lương và theo dõi việc
thanh toán lương, tiền thưởng, BHXH và các khoản thuộc về thu nhập của
CBCNV…
+ Kế toán vật tư :
/ Kế toán tổng hợp vật tư, hàng hoá : Tổ chức hướng dẫn nghiệp vụ về quản
lý hạch toán vật tư hàng hoá cho kế toán chi tiết vật tư. Ghi chép, phản ánh đầy
đủ, kịp thời số hiện có và tình hình luân chuyển của từng mặt hàng cả về giá trị và
hiện vật …
/ Kế toán chi tiết vật tư, hàng hoá : Hàng ngày ghi giá vật tư nhập, xuất luân
chuyển nội bộ trong Công ty vào chứng từ nhập xuất, và nhập phiếu nhập xuất từ
thẻ kho và nhập chứng từ vào máy…
+ Kế toán TSCĐ : Hạch toán tình hình tăng, giảm TSCĐ ; mọi tình hình
biến động về tài sản đều được theo dõi trên thẻ TSCĐ. Xác định đúng đối tượng
phân bổ, mức trích khấu hao TSCĐ. Cuối tháng lập bảng phân bổ khấu hao, báo
cáo tăng giảm TSCĐ, bảng tổng hợp nguyên giá và toàn bộ hao mòn….
+ Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành : Theo dõi sổ kế toán tổng hợp.
Phụ trách khâu tập hợp toàn bộ chi phí sản xuất. Cuối kỳ hạch toán lập báo cáo tài
chính thông qua sự chỉ đạo của Kế toán trưởng và trình Giám đốc phê duyệt.
+ Kế toán sửa chữa lớn TSCĐ : tập hợp chi phí SCL, theo dõi việc thanh
quyết toán các công trình SCL tại các đơn vị trực thuộc.
+ Kế toán thuế và các khoản phải nộp Ngân sách : tính thuế được khấu trừ
và thuế phải nộp, theo dõi tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
+ Kế toán công nợ : Có nhiệm vụ theo dõi, xác nhận các khoản tạm ứng nội
bộ và công nợ với khách hàng. Cuối tháng lập bảng kê chi tiết theo dõi tài khoản
tạm ứng với bảng kê chi tiết theo dõi tài khoản thanh toán với nhà cung cấp.
+ Kế toán vốn và các quỹ : kiểm tra cấp phát vốn đầu tư xây dựng và thẩm
tra quyết toán vốn.
+ Thủ quỹ : Quản lý tiền mặt tại Công ty. Trên cơ sở chứng từ thu chi, kiểm
tra tính hợp lệ, hợp pháp để tiến hành thanh toán và vào sổ quỹ. Cuối ngày đối
chiếu sổ tồn quỹ thực tế với kế toán tiền mặt.
Mỗi kế toán thực hiện từng phần việc cụ thể dưới sự phân công của kế toán
trưởng. Trong quá trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình giữa các nhân
viên trong bộ máy kế toán luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau với tất cả các
phòng ban, bộ phận sản xuất kinh doanh trong Công ty. Cũng như có những quyền
hạn và chịu trách nhiệm riêng về phần việc của mình từ đó mà nâng cao trách
nhiệm của mỗi người. Thể hiện công tác quản trị người dùng trong công tác kế
toán của Phòng là khá tốt.
Tổ chức hệ thống tài khoản và sổ kế toán
Công ty sử dụng hệ thống tài khoản theo quy định của TCT Điện lực Việt
Nam thiết kế trên cơ sở Quyết định 15 ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ tài
chính và các quyết định, thông tư bổ sung khác. Ngoài ra do đặc thù kinh doanh
ngành điện, Công ty còn sử dụng một số tài khoản của Tổng công ty mở thêm và
các tài khoản do chính Công ty mở thêm (các tài khoản này TCT Điện lực Việt
Nam và Công ty Điện lực Hà Nội đã đăng ký với Bộ tài chính và đã được chấp
nhận) :
VD : Tài khoản TCT mở thêm được sử dụng tại Công ty Điện lực Hà Nội
TK 1362 " Vãng lai giữa TCT với các đơn vị trực thuộc TCT "
TK 13621 " Tiền mua điện "
TK 13622 "Các quỹ"
TK 13623 : "Vốn khấu hao TSCĐ"
TK 13624 : "Vay dài hạn dùng cho XDCB"
………………………
TK 3362 : "Vãng lai giữa TCT với các đơn vị trực thuộc TCT"
TK 33621 : "Tiền mua điện"
TK 33622 : "Các quỹ"
TK 33623 : "Vốn khấu hao TSCĐ"
TK 33626 : "Thuế GTGT được khấu trừ"
………………………..
Tài khoản Công ty mở thêm :
TK 1363 : "Vãng lai trong nội bộ Công ty"
TK 1364: "Vãng lai trong nội bộ đơn vị cơ sở"
TK 3363 : "Vãng lai trong nội bộ công ty"
TK 3364 : "Vãng lai trong nội bộ đơn vị cơ sở"
…………………………..
Việc lựa chọn những tài khoản hợp lý sẽ xử lý và cung cấp thông tin kế toán
đầy đủ, phục vụ tốt cho yêu cầu quản lý của Công ty. Hơn nữa Công ty áp dụng kế
toán trên máy nên quy định được chi tiết nhiều hơn, theo đó có thể quản lý chặt
chẽ hơn các đối tượng kinh tế tài chính.
2.1.5.2 Hình thức sổ kế toán áp dụng tại công ty
Công ty áp dụng hình thức sổ kế toán theo hình thức Nhật ký chung. Đặc
trưng của hình thức này là tất cả các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh đều được
ghi vào sổ nhật ký trọng tâm là sổ nhật ký chung, theo thứ tự thời gian phát sinh và
định khoản nghiệp vụ đó, sau đó máy tự động chuyển ghi sổ cái theo từng nghiệp
vụ phát sinh.
2.1.5.3 Chính sách kế toán áp dụng tại công ty :
Công ty áp dụng chế độ kế toán theo quyết định 15/2006/QĐ-BTC
Ngày 20/03/2006 của Bộ
Trình tự ghi sổ kế toán của Công ty được khái quát như sau:
Hầu hết các sổ kế toán đều được ghi hàng ngày vì khi các chứng từ được
nhập vào thì máy sẽ tự động vào các sổ kế toán liên quan. Hệ thống sổ sách , bảng
biểu, báo cáo quản trị, báo cáo kế toán được thiết lập trên máy về cơ bản đều dựa
trên những mẫu sổ đã được quy định sẵn.
Việc áp dụng hình thức sổ kế toán nhật ký chung trong điều kiện ứng dụng
máy vi tính, cũng như trong điều kiện lĩnh vực hoạt động kinh doanh của Công ty
là phù hợp. Dễ dàng cho việc lập trình mà vẫn phản ánh đầy đủ các nghiệp vụ kinh
tế phát sinh.
Phòng Tài chính kế toán Công ty hiện đang sử dụng phần mềm kế toán
chuyên dụng ACS Solfware thiết kế riêng cho Công ty Điện lực Hà Nội. Gần như
toàn bộ công việc ghi sổ, tổng hợp và lập báo cáo kế toán đều được thực hiện tự
động trên máy.
Việc áp dụng phần mềm kế toán vào công tác kế toán đã làm giảm hẳn khối
lượng công việc như : ghi sổ kế toán, kết chuyển tính giá thành ; rút ngắn thời gian
tổng hợp và lập các báo cáo kế toán. Cho phép tìm kiếm số liệu kế toán đa dạng,
nhanh chóng, chính xác và cần thiết với tốc độ nhanh cho các đối tượng sử dụng
thông tin đặc biệt là công việc quản trị doanh nghiệp và phân tích tài chính. Nâng
cao hiệu suất công tác kế toán.
19/04/2007
Tuy nhiên máy tính và phương tiện kỹ thuật tin học chỉ là phương tiện trợ
giúp kế toán viên trong việc tính toán, xử lý và cung cấp thông tin kế toán. Ứng
dụng công nghệ tin học trong công tác kế toán là cần thiết xong không thể thay thế
hoàn toàn con người. Sử dụng và điều khiển máy tính vẫn là con người, những
nhân viên kế toán có chuyên môn nghiệp vụ. Họ vẫn phải thực hiện được các công
việc sau : Phân loại, bổ sung thông tin chi tiết vào chứng từ gốc. Nhập dữ vào
chứng từ trên máy vẫn phải dựa trên các chứng từ hợp lý, hợp lệ. Các kế toán viên
chỉ phải nhập số liệu và định khoản một nghiệp vụ kinh tế phát sinh đối với các tài
khoản chi tiết ở bậc sau cùng (sổ chi tiết), sau đó máy sẽ tự động cập nhật nghiệp
vụ đó vào các tài khoản cấp cao hơn và vào tài khoản tổng hợp (sổ cái). Còn kế
toán tổng hợp sẽ cập nhật trực tiếp trên tài khoản tổng hợp (sổ cái) ở phần dành
riêng cho kế toán tổng hợp. Cuối kỳ, kế toán tổng hợp lệnh cho máy tổng hợp số
liệu và đối chiếu với các phần hành kế toán. Kế toán phải phân tích số liệu trên các
sổ, các báo cáo kế toán để có thể đưa ra các quyết định phù hợp.
VD : Nhận được phiếu nhập kho ngày 8/12/2007 nhập kho công tơ 1 pha
220V 10-40A, số lượng 440 cái, đơn giá nhập: 105.000đ/cái; thuế suất T.GTGT
5% chưa trả tiền người bán là công ty Thiết bị đo điện. Kế toán nguyên vật liệu sẽ
ghi vào TK Nợ là TK 15231F6 Công tơ kho 6, TK Có là TK 33111, TK phản ánh
thuế GTGT được khấu trừ là TK 13311. Kế toán nguyên vật liệu chỉ cần nhập số
lượng, đơn giá và % thuế suất sau đó máy sẽ tự động tính ra tổng số tiền thanh toán
là 48.510.000đvà số thuế GTGT được khấu trừ là 2.310.000đ. Sau khi cập nhật
trên TK 15231F6, máy sẽ tự động cập nhật lần lượt vào các TK cấp cao hơn TK
15231-Công tơ, rồi đến TK 1523-Phụ tùng và cuối cùng đến TK 152-nguyên vật
liệu. Cuối kỳ, sổ cái TK152 sẽ được dùng để đối chiếu với các bảng kê nhập-xuất-
tồn và các sổ chi tiết.
Tuy thực hiện kế toán trên máy nhưng các số liệu đều phải được in ra sổ
sách hàng tháng. Những sổ sách này phải có đầy đủ chữ ký của kế toán phần hành,
được Kế toán trưởng và thủ trưởng đơn vị xem xét, ký duyệt.
Hiện nay, để phục vụ nhu cầu quản lý Công ty quy định cho các đơn vị
thành viên đều phải mở sổ, ghi chép, quản lý, lưu giữ và bảo quản đúng chế độ
2.2- Tình hình thực tế về tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu ở
Công ty Điện lực TP Hà Nội.
2.2.1- Các đối tượng cần quản lý có liên quan đến việc tổ chức kế toán
nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu trong công ty có rất nhiều chủng loại, phong phú, biến động
thường xuyên. Để tăng cường tính tự động hoá của chương trình và làm giảm bớt
sự cồng kềnh của hệ thống tài khoản. Các loại đối tượng được phân biệt với nhau
bởi mã đối tượng.
- Vật tư
- Kho
- Nguồn cung cấp.
*) Xây dựng danh mục nguyên vật liệu :
Các loại nguyên vật liệu có một vài đặc điểm giống nhau thì được nhóm lại
với nhau và chúng có những đặc điểm riêng để phân biệt với các nhóm nguyên vật
liệu khác. Loại nguyên vật liệu được dùng để đặc trưng cho các đối tượng có cùng
bản chất. Các loại nguyên vật liệu được phân biệt với nhau bởi mã loại đối tượng.
Nguyên vật liệu của công ty có nhiều chủng loại đa dạng. Vì vậy, yêu cầu
đặt ra là để quản l ý và hạch toán tốt nguyên vật liệu, Công ty đã xây dựng được hệ
thống danh mục nguyên vật liệu chi tiết đến từng danh điểm. Việc xây dựng căn cứ
vào từng nhóm vật tư
+ Loại 1 : Nhiên liệu, khí, hoá chất : xăng , dầu
+ Loại 2 : Kim khí
+ Loại 3 : Vật liệu điện tử bán dẫn
+ Loại 4 : Vật liệu khác
+ Loại 5: Phụ tùng
Căn cứ vào danh mục vật tư đã được xây dựng, bộ mã vật tư của Công ty
cũng được chia làm các loại vật tư tương ứng:
Mã vật tư Tên vật tư ĐVT
51612101 ác quy 12V 100A Cái
00011264 MBA 1000KVA 22/6/04(ABB) Cái
00012 Thiết bị báo tín hiệu trung tâm MBA Cái
00016 Máy hiện sóng mã hiệu CS5455-
Nhật
Bộ
00018 Hợp bộ đo lường 1 pha A-V-W Bộ
00001 Giá đỡ cáp Cái
000017 Máy ép cốt thủy lực cần tay 10 hãm
ép
Cái
87305400 Công tơ 1 FA 220V 10-40A
…………
Mỗi loại vật tư lại có tính chất khác nhau, đơn vị tính khác nhau do đó, để
quản lý tốt Công ty đã sử dụng nhiều kho, mỗi kho được sử dụng để quản lý một
nhóm nguyên vật liệu có tính chất giống nhau. Để quản lý tốt các kho cũng được