Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

TS triet hoc tieuluan CM4 0 viet nam2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.39 KB, 33 trang )

Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

MỞ ĐẦU
Lời đầu tiên, em xin cảm ơn nhà trường, các giảng viên đã giúp em hoàn
thành môn học, nắm bắt các nội dung cơ bản môn học!
Triết học là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống xã hội của bất kỳ
quốc gia nào. Triết học không chỉ tác động đến sự phát triển trong tư tưởng của con
người mà nó còn tham gia vào quá trình phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên
Thế giới, trong đó có Việt Nam. Triết học Mác – Lênin là kim chỉ nam, nền tảng,
cơ sở của mọi đường lối quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước, ngay cả
trong thời đại hội nhập ngày nay.
Chúng ta đang đứng trước cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Industry
4.0) phát triển mạnh mẽ, chứng minh dự báo thiên tài của C.Mác cách đây hơn một
trăm năm về những thay đổi khi “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”.
Cuộc cách mạng này có tác động sâu rộng tới nhận thức, cơ cấu kinh tế, thể chế
chính trị, quan hệ giữa các dân tộc… tạo ra những cơ hội và những thách thức đối
với mỗi quốc gia trong thời đại ngày nay. Đặc biệt lực lượng sản xuất chịu sự tác
động sâu sắc.
Để phân tích, nghiên cứu sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư đối với lực lượng sản xuất nói chung, tại Việt Nam nói riêng hiện nay theo
chủ đề bài tiểu luận, em trình bày bố cục nội dung như sau:
1. Những cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng công
nghiệp 4.0, lực lượng sản xuất.
2. Sự tác động của cách mạng đến lực lượng sản xuất
3. Thực trạng phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
4. Các giải pháp phát triển Lực lượng sản xuất ở Việt Nam để đáp ứng cuộc
cách mạng 4.0

1
Học viên: Ngô Ngọc Dũng


Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

NỘI DUNG
1. Những cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng công
nghiệp 4.0, lực lượng sản xuất
1.1. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 - nguồn gốc và đặc trưng cơ bản
Năm 2011, tại Hội chợ Công nghệ Hannover (CHLB Đức), thuật ngữ “Cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư” (Industry 4.0, viết tắt là FIR) lần đầu tiên được
đưa ra. Hiện nay, thuật ngữ “Công nghiệp 4.0” được sử dụng rộng rãi trên thế giới.
FIR được định nghĩa là “một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ
chức trong chuỗi giá
trị” đi cùng với các
hệ thống vật lý trong
không gian ảo,
internet của vạn vật
và internet của các
dịch vụ.
Như vậy, cách
mạng công nghiệp
4.0 là cuộc cách
mạng dựa trên sự
kết hợp các công
nghệ với nhau, làm
mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học.“Cuộc cách mạng công nghiệp” ở
đây dùng để chỉ một sự thay đổi mang tính đột biến và triệt để trong lĩnh vực công
nghiệp.

Nhiều cuộc cách mạng công nghiệp đã diễn ra trong suốt lịch sử thế giới khi
các công nghệ mới và phương pháp mới, tạo ra một sự thay đổi sâu sắc trong các
hệ thống kinh tế và kết cấu xã hội. Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên trải dài từ
năm 1760 đến khoảng năm 1840, được bắt đầu bằng việc xây dựng các tuyến
đường sắt và phát minh ra động cơ hơi nước, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch
sử nhân loại - kỷ nguyên sản xuất cơ khí. Tiếp theo, cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ hai được bắt đầu vào cuối thế kỷ XIXvà đầu thế kỷ XX, với sản xuất hàng
loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của điện và dây chuyền lắp ráp. Cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ ba bắt đầu vào những năm thập niên 1960 và thường được gọi
là cuộc cách mạng máy tính hay cách mạng số bởi vì nó được xúc tác bởi sự phát
2
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

triển của chất bán dẫn, siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên
1970 và 1980) và internet (thập niên 1990). Ngày nay, chúng ta đang ở giai đoạn
đầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. FIR đã bắt đầu vào thời điểm chuyển
giao sang thế kỷ này và xây dựng dựa trên cuộc cách mạng số, đặc trưng bởi
internet ngày càng phổ biến và di động, bởi các cảm biến nhỏ và mạnh mẽ hơn với
giá thành rẻ hơn, bởi trí tuệ nhân tạo và “học máy”. Các công nghệ số với phần
cứng máy tính, phần mềm và hệ thống mạng đang trở nên ngày càng phức tạp hơn,
được tích hợp nhiều
hơn và vì vậy đang
làm biến đổi xã hội và
nền kinh tế toàn cầu.
Đặc trưng cơ

bản của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0
đó là những tính năng
xử lý thông tin sẽ
được nhân lên bởi
những đột phá công
nghệ trên nhiều lĩnh
vực nhờ khả năng kết
nối thông qua các
thiết bị di động và khả
năng tiếp cận với cơ
sở dữ liệu lớn; tốc độ
không có tiền lệ trong
lịch sử, theo hàm cấp
số mũ. FIR làm thay đổi căn bản cách thức con người tạo ra sản phẩm, từ đó tạo
nên “cách mạng” về tổ chức các chuỗi sản xuất -giá trị.
Hiện nay, cách mạng công nghiệp 4.0 nổi lên ba xu hướng lớn, bao gồm vật
lý (xe tự lái, công nghệ in 3D, rô bốt cao cấp, vật liệu mới); kỹ thuật số (sự xuất
hiện internet của vạn vật - Internet of Things, IoT) và sinh học (giải trình, kích
hoạt, chỉnh sửa gen, DNA). So sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước
đây, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển với tốc độ ở cấp số nhân, tạo nên
sự biến đổi của toàn bộ các hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị; làm thay đổi
3
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.


mạnh mẽ, toàn diện nền kinh tế mỗi quốc gia về cấu trúc, trình độ phát triển, tốc độ
tăng trưởng, mô hình kinh doanh, thị trường lao động,…
Nói một cách tổng quát, thực chất cách mạng công nghiệp 4.0 chính là kết
quả của sự phát triển lực lượng sản xuất ở trình độ cao dựa trên KH&CN. Nói cách
khác, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, sự xâm nhập trực tiếp và nhanh chóng
của tri thức khoa học vào tất cả các bộ phận trong kết cấu lực lượng sản xuất, mà
trước hết là người lao động và công cụ lao động, sẽ tạo ra những công nghệ tiên
tiến, hiện đại, mang tính cách mạng- những biểu hiện của cách mạng công nghiệp
4.0. Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra yêu cầu và tạo ra cơ hội, động lực thúc đẩy
KH&CN phát triển. Đó chính là biện chứng giữa khoa học, công nghệ với cách
mạng công nghiệp 4.0. Như vậy, cách mạng công nghiệp 4.0 chính là minh chứng
sinh động cho luận điểm “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của
C.Mác trong thời đại hiện nay.
1.2. Lực lượng sản xuất: khi xem xét sự vận động của lịch sử nhân loại, kể
cả những người thừa nhận xã hội loài người vận động theo quy luật hay những
người thừa nhận điều đó, về cơ bản cũng đều dựa trên sự đánh giá những yếu tố
của lực lượng sản xuất. Chẳng hạn, những người theo thuyết kỹ trị thì tuyệt đối hóa
yếu tố kỹ thuật, coi đó là yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội. Đến nay, một
số học giả phương tây hiện đại như R.Aradon, I.Ganbrauto, Roxtau vẫn tiếp tục coi
kỹ thuật, công nghệ là quyết định. Môn lịch sử thì lại căn cứ vào sự phát triển của
xã hội loài người… Điều đó cho thấy, lực lượng sản suất giữ vai trò hết sức quan
trọng.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Trình độ của Lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục giới tự nhiên của con
người. Lực lượng sản xuất là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong
quá trình tác động vào giới tự nhiên để sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản
xuất là thể thống nhất hữu cơ giữa con người lao động với tư liệu sản xuất ( trước
hết là công cụ lao động) để tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định.
Về mặt kết cấu: Lực lượng sản xuất gồm 2 bộ phận cơ bản: người lao động
và tư liệu sản xuất. Người lao động có hai đặc trưng cơ bản: tri thức, kinh nghiệm,

kỹ năng, kỹ xảo lao động,… và sức lao động. Để đánh giá tầm quan trọng của 2
yếu tố này, đặc trưng nào quan trọng hơn thì phải xem xét trong những điều kiện
lịch sử xã hội nhất định. Ở những xã hội dựa trên trình độ phát triển thấp của Lực
lượng sản xuất, cụ thể khi công cụ chủ yếu còn trình độ thủ công tức là những công
4
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

cụ cầm tay thì sức lao động giữ vai trò quan trọng hơn. Trong thời đại ngày nay, ở
những nước công nghiệp phát triển thì tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo,…
trở nên quan trọng hơn. Trí tuệ của con người là sản phẩm của tự nhiên và của lao
động. Trong quá trình phát triển lâu dài của con người, trí tuệ hình thành, phát triển
cùng với lao động, làm cho lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao hơn. Hàm
lượng trí tuệ trong lao đông, đặc biệt là trong điều kiện khoa học – công nghệ hiện
nay đã làm cho người lao động trở thành nguồn lực đặc biệt của sản xuất. Chính
điều đó làm cho người lao động trở thành nguồn lực cơ bản, lâu dài, đặc biệt, vô
tận của sản xuất vật chất.
Tư liệu sản xuất gồm công cụ lao động (cũng có thể phân chia kết cấu tư liệu
sản xuất thành đối tượng lao động, tư liệu lao động, trong tư liệu lao động thì gồm
công cụ lao động và phương tiện lao động ). Cùng với người lao động, công cụ lao
động, khoa học ngày càng phát triển thì đối tượng lao động càng trở nên đa dạng
hóa, xuất hiện thêm nhiều đối tượng lao động mới. Ngày nay, khoa học đã trở
thành Lực lượng sản xuất trực tiếp, vì khoa học đã kết tinh, thẩm thấu vào các yếu
tố của Lực lượng sản xuất và làm biến đổi về chất tất cả những yếu tố ấy,… Với
quan niệm như vậy, rõ ràng khoa học trở thành Lực lượng sản xuất trực tiếp.
Trong kết cấu nêu trên, vị trí, vai trò của các yếu tố không giống nhau.

Người lao động giữ vai trò hàng đầu trong Lực lượng sản xuất. Chính con người
chế tạo ra tư liệu sản xuất, luôn cải biến và sử dụng nó để tiến hành sản xuất. Tư
liệu sản xuất dù có quan trọng đến đâu nhưng nếu không được con người sử dụng
thì không thể phát huy tác dụng. V.I.leenin viết : “ Lực lượng sản xuất hàng đầu
của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Còn công cụ lao động giữ
vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất, theo Ph.Awngghen nó là “ khí quan của bộ
óc con người”, nối dài “ khí quan” của con người, nhân lên sức mạnh của con
người, nó là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong tư liệu sản xuất, sự biến đổi
của nó dẫn đến những biến đổi sâu xắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Trình độ phát
triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục giới tự nhiên của con
người. Phương tiện sản xuất cũng giữ vai trò quan trọng trong lực lượng sản xuất.
Nó là yếu tố làm cho Lực lượng sản xuất trở nên đồng bộ hoặc mất tính đồng bộ.
Ngày nay, khoa học giữ vai trò ngày càng quan trọng. Cùng với sự phát triển như
vũ bão của khoa học đã xuất hiện một loạt những ngành công nghệ mới như công
nghệ sinh học, công nghệ năng lượng, công nghệ vật liệu mới, công nghệ Na nô,…
làm cho nền kinh tế thế giới chuyển sang một bước ngoặt trong quá trình phát
triển, đó là kinh tế tri thức.
5
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

Lực lượng sản xuất do con người sáng tạo ra những sự tồn tại và phát triển
của nó mang tính khách quan. Lực lượng sản xuất được kế thừa và phát triển liên
tục từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mối thế hệ con người sinh ra đều phải tích cực
với trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất do thế hệ trước để lại, vì Lực lượng
sản xuất là kết quả của năng lực thực tiễn của con người, nhưng bản thân năng lực

thực tiễn này lại bị quyết định bởi điều kiện khách quan mà con người sống ở trong
đó, những Lực lượng sản xuất đã đạt được và những hình thái xã hội đã có trước
họ, không phải do họ tạo ra mà do thế hệ trước tạo ra.
2. Sự tác động của cách mạng 4.0 đến lực lượng sản xuất
2.1. Tác động đến Nguời lao động
- Chuyển dịch cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế. Với CMCN 4.0,
những ngành nghề truyền thống sử dụng nhiều lao động sẽ dần mất đi, đồng thời
xuất hiện những ngành nghề mới. CMCN 4.0 đã cho ra đời các hệ thống tự động
hóa và robot thông minh. Các hệ thống này sẽ thay thế dần lao động thủ công trong
toàn bộ nền kinh tế gây áp lực lớn đối với thị trường lao động. Các quốc gia đang
phát triển sẽ phải đối mặt với tình trạng dư thừa lao động và gia tăng tình trạng thất
nghiệp.
- Thị trường lao động phân hóa mạnh mẽ, sự phân biệt đối xử bất bình đẳng
trong xã hội giữa lao động có kỹ năng cao và thấp, ông chủ sở hữu máy móc và
lao động : Trong cuộc CMCN 4.0, lao động giá rẻ không còn là lợi thế cạnh tranh
của các quốc gia trên thế giới. Hàng loạt nghề nghiệp cũ mất đi, thị trường lao
động quốc tế sẽ phân hóa mạnh giữa nhóm lao động có kỹ năng thấp và nhóm lao
động có kỹ năng cao. Cùng với đó, sự ra đời của trí tuệ nhân tạo (robot thông
minh) cũng làm giảm nhu cầu sử dụng lao động kỹ năng thấp. Đặc biệt, cuộc
CMCN 4.0 không chỉ đe dọa việc làm của những lao động trình độ thấp mà ngay
cả lao động có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị ảnh hưởng, nếu như họ không được
trang bị những kỹ năng mới – kỹ năng sáng tạo. Với sự phát triển công nghệ nhanh
chóng trong tương lai, nhu cầu về lao động có trình độ và kỹ năng cao là một yêu
cầu tất yếu. Từ việc nâng cao yêu cầu về chất lượng NNL, cuộc CMCN 4.0 còn
làm thay đổi yêu cầu và phương pháp đào tạo NNL. Đào tạo NNL chất lượng cao
chuẩn bị cho CMCN 4.0 đã trở thành vấn đề cấp bách mà nhiều quốc gia trên thế
giới quan tâm.
- Yêu cầu về chất lượng ngày càng cao.
6
Học viên: Ngô Ngọc Dũng

Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

- Cạnh tranh gay gắt : Trước hết, cạnh tranh sẽ xảy ra trong một số lĩnh vực
công nghệ đang bắt đầu được ứng dụng rộng rãi vào thực tiễn, tạo áp lực tuyển
dụng, phát triển liên quan.
- Không được bảo vệ quyền lợi: do có sự thay đổi về bản chất của quan hệ
lao động do ứng dụng công nghệ mới.
2.2. Tác động đến tư liệu sản xuất (công cụ lao động, đối tượng lao động,
phương tiện lao động)
a. Biến khoa học – công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Công lao vĩ đại của C.Mác là áp dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào
nghiên cứu trong lĩnh vực xã hội và đã chỉ ra tính quy luật của các biến đổi xã hội
như là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Theo C.Mác, con người muốn tồn tại, trước
hết phải lao động sản xuất để tạo ra những vật phẩm nuôi sống mình, sau đó mới
đến vấn đề tinh thần, tư tưởng. Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, con
người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống tinh thần. Các quan hệ chính trị, pháp
quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo… đều hình thành, biến đổi trên cơ sở sản xuất
vật chất. Đi sâu nghiên cứu nền sản xuất xã hội, C.Mác phát hiện ra quy luật về sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất. Trong lực
lượng sản xuất, vai trò của KHCN được thể hiện ở trình độ của người lao động và
trình độ của công cụ lao động, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa”. Khi
hàm lượng khoa học ngày càng gia tăng trong hai yếu tố này sẽ tạo động lực cho sự
phát triển lực lượng sản xuất và do đó thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển phù
hợp. Những quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở hạ tầng xã hội và đóng vai trò quyết
định sự tồn tại, biến đổi của kiến trúc thượng tầng xã hội. Trong Phê phán khoa
kinh tế chính trị, bản sơ thảo đầu tiên của bộ Tư bản, C.Mác viết: “Sự phát triển

của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hoá đến
mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp…”(1) . Theo C.Mác, tri thức (khoa
học) đã làm cho tư bản cố định (nhà máy, máy móc, công cụ… được dùng trong
sản xuất) chuyển hoá đến mức độ nhất định nào đó thì trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Mức độ đó là khi tri thức khoa học được ứng dụng, được vật hóa thành tư
bản cố định và được người lao động sử dụng trong quá trình sản xuất. C.Mác nhận
định: “Sự phát triển của hệ thống máy móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi nền
đại công nghiệp đã đạt được một trình độ phát triển cao hơn và tất cả các môn khoa
học đều được phục vụ tư bản, còn bản thân hệ thống máy móc hiện có thì có những
nguồn lực to lớn. Như vậy, phát minh trở thành một nghề đặc biệt và đối với nghề
đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong
những yếu tố có tính chất quyết định”(2) . C.Mác dự báo: “Theo đà phát triển của
7
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao
động và số lượng lao động đã chi phí hơn là vào sức mạnh của những tác nhân
được khởi động trong thời gian lao động, và bản thân những tác nhân ấy, đến lượt
chúng (hiệu quả to lớn của chúng) tuyệt đối không tương ứng với thời gian lao
động trực tiếp cần thiết để sản xuất ra chúng, mà đúng ra chúng phụ thuộc vào
trình độ chung của khoa học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào
việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất”(3). Quan niệm của C.Mác về vai trò của
KHCN hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển nền kinh tế tri thức và có ý
nghĩa phương pháp luận khi nhận thức về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện
nay.

b. Đối tượng lao động càng trở nên đa dạng hóa, xuất hiện thêm nhiều đối
tượng lao động mới.
3. Thực trạng phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
3.1. Việt Nam đang ở đâu trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Với việc nhấn mạnh cả vào mức độ ứng dụng công nghệ cũng như các yếu
tố bổ sung như chất lượng của thể chế, chất lượng nguồn nhân lực và tinh thần
khởi nghiệp, một số chuyên gia đã xây dựng phương pháp để định vị mức độ tham
gia của các quốc gia vào quá trình chuyển đổi số. Điều này cũng phù hợp với tính
qui luật về mối quan hệ giữa mức độ ứng dụng công nghệ cũng như chất lượng của
các yếu tố bổ trợ với thu nhập bình quân đầu người ở các quốc gia. Trong phương
pháp này, công nghệ được đo bằng Chỉ số ứng dụng Kỹ thuật số (Digital Adoption
Index - DAI). DAI dựa trên ba chỉ số phụ bao gồm các doanh nghiệp, người dân và
chính phủ, với mỗi chỉ số phụ được gán một trọng số như nhau: DAI (Kinh tế) =
DAI (Doanh nghiệp) + DAI (Người dân) + DAI (Chính phủ). Mỗi chỉ số phụ là
mức trung bình đơn giản của một số các chỉ số được chuẩn hóa đo lường tỷ lệ áp
dụng công nghệ của các nhóm có liên quan. Tương tự như vậy, các yếu tố bổ trợ
được đo bằng giá trị trung bình của ba chỉ số phụ: khởi nghiệp của doanh nghiệp;
số năm học được điều chỉnh theo kỹ năng; và chất lượng của thể chế.
Bằng việc ứng dụng phương pháp nêu trên, báo cáo của Ngân hàng thế giới
đã xếp hạng các quốc gia trên thế giới trong quá trình chuyển đổi số. Trong hình
này, các nước trên thế giới được chia làm 3 nhóm theo thứ tự tăng dần về mức độ
chuyển đổi số: (i) mới bắt đầu; (ii) quá độ; (iii) chuyển đổi. Các nước cũng được
phân loại làm 4 nhóm theo mức thu nhập bình quân đầu người: (i) thu nhập thấp;
(ii) thu nhập trung bình thấp; (iii) thu nhập trung bình cao; (iv) thu nhập cao. Việt
Nam được phân loại thuộc nhóm nước ở trong giai đoạn quá độ của quá trình
chuyển đổi số. Tuy nhiên, cho dù Việt Nam có vị trí khá tích cực trong tương quan
với các nước có cùng trình độ phát triển, đất nước vẫn ở trong nhóm quá độ trong
8
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai



Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

quá trình số hóa và do vậy cần phải có nhiều nỗ lực để có thể nắm bắt cơ hội trong
cuộc cách mạng số - nội dung cốt lõi của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Liên quan đến năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp, nghiên cứu gần đây
về mức độ sẵn sàng tiếp cận CMCN 4.0 của các doanh nghiệp thuộc các ngành
công nghiệp do Bộ Công thương cho thấy chỉ có một tỷ lệ nhỏ các doanh nghiệp
công nghiệp của Việt Nam đã bắt đầu ứng dụng các công nghệ điển hình của
CMCN 4.0
3.2.Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư
3.2.1. Tác động ở cấp độ nền kinh tế
Trong khoảng hơn một thập niên trở lại đây, Việt Nam hưởng lợi nhiều từ
chiến lược “Trung Quốc cộng một - China Plus One Strategy” của nhiều tập đoàn
đa quốc gia với công nghệ tiên phong dẫn dắt các chuỗi giá trị toàn cầu. Các tập
đoàn này đã và đang chuyển nhà máy gia công lắp ráp của mình ra khỏi Trung
Quốc để đến các địa điểm “nằm ngoài Trung Quốc song gần với Trung Quốc”
nhằm một mặt tránh chi phí lao động đang tăng lên nhanh chóng ở các vùng ven
biển của Trung Quốc, mặt khác vẫn tận dụng được ngành công nghiệp hỗ trợ rất
phát triển ở quốc gia nay để nhập khẩu linh kiện cũng như dễ dàng xuất khẩu để
bán sản phẩm cho tầng lớp trung lưu đang tăng trưởng nhanh chóng ở Trung Quốc.
Nhờ lợi thế về địa kinh tế của mình, Việt Nam hiện đang là một điểm đến ưa thích
của làn sóng FDI mới, qua đó tham gia nhiều hơn vào các chuỗi giá trị toàn cầu, là
một “công xưởng lắp ráp” mới của nền kinh tế thế giới. Sự phát triển nhanh chóng
của các ngành công nghiệp chế tạo thâm dụng lao động có định hướng xuất khẩu
đang có tác động đáng kể đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quá trình này
giúp Việt Nam rút lao động ra khỏi nông nghiệp để chuyển sang làm việc trong các

ngành công nghiệp và dịch vụ với năng suất và thu nhập cao hơn, qua đó mở ra
nhiều cơ hội để đất nước thực hiện hiệu quả quá trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn
với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chuyển sang quỹ đạo tăng trưởng nhanh và
bền vững hơn.
Tuy nhiên “cửa sổ cơ hội” đó của Việt Nam đang bị thu hẹp lại dưới tác
động của cuộc cách mạng công nghệ đang tăng tốc, với đặc trưng cơ bản sự kết nối
ngày một chặt chẽ giữa thế giới thực (physical systems) với không gian số (cyber
systems) được nhiều chuyên gia gọi là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Trong trung đến dài hạn, công nghệ và đổi mới sáng tạo đóng vai trò ngày càng
quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, bắt đầu phá vỡ nhiều phương thức sản xuất
truyền thống trong nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, tạo ra những cơ hội và
9
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

thách thức mới tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng và bất bình đẳng cũng như giảm
nghèo ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Những công nghệ phá vỡ (disruptive technologies) cũng đang làm thay đổi
tương quan sức mạnh giữa các nhóm nền kinh tế trên thế giới, với vai trò của các
nền kinh tế “thâm dụng công nghệ” gia tăng trong tương quan so sánh với các nền
kinh tế “thâm dụng tài nguyên”. Các nền kinh tế “thâm dụng lao động” – cạnh
tranh chủ yếu dựa trên lợi thế về lao động giá rẻ, trong đó có Việt Nam, cũng có xu
hướng chịu ảnh hưởng bất lợi do quá trình số hóa và tự động hóa đang tăng tốc làm
giảm đáng kể lợi thế này trong trung đến dài hạn. Cụ thể, trong cuộc CMCN 4.0,
ngành công nghiệp chế tạo (kể cả khâu gia công lắp ráp) bắt đầu “hồi hương” trở
lại các nước phát triển, cũng như có xu hướng ở lại Trung Quốc – nơi có việc sử

dụng người máy đang gia tăng rất nhanh - nhằm đưa sản phẩm đến gần với thị
trường tiêu thụ cuối cùng và gắn chặt hơn với các trung tâm nghiên cứu và thiết kế.
Hệ quả là lợi thế của Việt Nam về chi phí lao động thấp có thể sẽ bị suy
giảm đáng kể, ảnh hưởng đến tăng trưởng của ngành công nghiệp chế tạo là ngành
có tầm quan trọng đặc biệt đối với các nền kinh tế kém phát triển trong nỗ lực bắt
kịp với các nền kinh tế tiên tiến hơn. Do vậy Việt Nam cần có những nỗ lực lớn
nhằm tận dụng tối đa “cửa sổ cơ hội” hiện có trước khi ngành công nghiệp chế tạo
quay trở lại các nước phát triển hay dừng không chuyển dịch ra khỏi Trung Quốc,
cũng như ứng phó với khả năng của một sự chuyển hướng khác từ Việt Nam sang
các nước đang phát triển khác (Thái Lan, Indonesia, Campuchia và Myanmar)
đang nỗ lực cạnh tranh để thu hút FDI nói chung và các tập đoàn công nghệ đa
quốc gia nói riêng.
3.2.3. Tác động đến các ngành, lĩnh vực
a)

Nhóm ngành năng lượng

Nhóm ngành này cung cấp các đầu vào chiến lược cho nền kinh tế. Tuy
nhiên tác động có sự khác biệt giữa dầu khí và điện năng, do có một sự khác biệt
căn bản giữa hai phân ngành này: dầu khí có thể xuất nhập khẩu được và do vậy
chịu sự chi phối của giá thế giới, trong khi đó điện năng cơ bản là không.
Ngành dầu khí của Việt Nam hiện nay đang chịu áp lực rất lớn, trước tiên là
do sự suy giảm tăng trưởng của Trung Quốc. Việc đầu tàu của kinh tế thế giới
“ngốn nhiều năng lượng và nguyên vật liệu” này chạy chậm lại ảnh hưởng mạnh
đến các ngành dầu khí và khai thác tài nguyên. Một nguyên nhân khác mang tính
căn bản và có tác động dài hạn hơn là do có những đột phá trong lĩnh vực năng
lượng (khai thác dầu đá phiến, sản xuất năng lượng tái tạo, ắc qui trữ điện) và vận
tải (ô tô điện với chi phí sản xuất và giá giảm nhanh, kinh tế chia sẻ như Uber hay
10
Học viên: Ngô Ngọc Dũng

Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

Grab taxi), nhu cầu đối với dầu thô khó có thể tăng mạnh. Ngay tại Trung Quốc,
như đã nêu trên, nền kinh tế đang chuyển sang “thâm dụng công nghệ” hơn.
Điều đó có thấy những thách thức mà Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam
phải đối mặt là mang tính dài hạn, đòi hỏi phải có một quá trình tái cơ cấu mạnh
mẽ, điều mà một quốc gia dầu mỏ như Ả rập Xê-Út đã bắt đầu phải thực hiện.
Đồng thời, cần điều chỉnh một cách căn bản và dài hạn các thông số liên quan đến
dầu thô trong việc xây dựng các kế hoạch thu chi ngân sách để có các giải pháp
phù hợp.
Ngành điện có thể được hưởng lợi khá nhiều nhờ những đột phá trong công
nghệ năng lượng tái tạo, trước hết là công nghệ ứng dụng năng lượng mặt trời cũng
đã tiến bộ rất nhiều ở một số nước tiên tiến như Mỹ, Đức v.v… với tiềm năng phổ
biến nhanh trên toàn cầu nhờ giá sản xuất giảm đáng kể.
Ở Việt Nam, năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời đã có những đột
phá rõ rệt. Tuy hiện nay công suất của các dự án đang hoạt động trong các lĩnh vực
điện gió và điện mặt trời còn khá khiêm tốn song số lượng và công suất của các dự
án đăng ký tăng vọt. Về mặt địa lý, một số địa phương có nhiều nắng và gió ở miến
Trung và Tây Nguyên như Ninh Thuận, Bình Thuận, Đăklắk, Khánh Hòa hay ở
miền Nam như Tây Ninh đang đứng trước những cơ hội lớn để phát triển các loại
hình năng lượng này.
b)

Ngành tài chính - ngân hàng

Sự phát triển mạnh mẽ của các phương thức giao dịch mới trong kỷ nguyên

số
Cho đến nay, tài chính - ngân hàng là một trong những lĩnh vực có nhiều
thay đổi nhất khi thế giới bước vào kỷ nguyên số. CMCN 4.0 đang làm thay đổi
hoàn toàn cách thức ngân hàng giao tiếp với khách hàng và kênh phân phối sản
phẩm dịch vụ. Trong khoảng mười năm trở lại đây, sự xuất hiện của điện thoại
thông minh (Smartphone) đã thay đổi hoàn toàn cách con người giao tiếp và tương
tác, kéo theo sự thay đổi trong kênh phân phối, mạng lưới bán hàng và cách thiết
kế sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng.
Kênh bán hàng qua Internet, ngân hàng dựa trên điện thoại di động
(mobilebanking, tablet banking), mạng truyền thông xã hội (Social Media), phát
triển ngân hàng kỹ thuật số, giao dịch không giấy tờ có xu hướng phát triển mạnh.
Theo báo cáo về mobile banking được thực hiện bởi KPMG tháng 7/2015, ngân
hàng di động đang là xu hướng phát triển mạnh nhất và là kênh lớn nhất với khối
lượng giao dịch nhiều nhất. Ngày càng có nhiều khách hàng chuyển sang sử dụng
máy tính, máy tính bảng, điện thoại thông minh để tiến hành các giao dịch với
11
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

ngân hàng. Đến năm 2020, các ngân hàng sẽ bán sản phẩm của mình với tỷ lệ là
40% online. Internet và điện toán đám mây là xu hướng để giao dịch dễ dàng.
Trong kỷ nguyên số, những xu hướng quan trọng có tiềm năng tác động đến
lĩnh vực tài chính, ngân hàng ở Việt Nam bao gồm:
Xu hướng “ngân hàng không giấy” sẽ trở nên phổ biến dẫn đến giảm dần vai
trò của các chi nhánh ngân hàng
Nhiều liên kết kinh doanh mới trong cung ứng sản phẩm, dịch vụ tài chính

đang xuất hiện
Mô hình ngân hàng số đang dần thay thế mô hình ngân hàng truyền thống
Tài chính kỹ thuật số thúc đẩy tài chính bao trùm (financial inclusion)
Công nghệ số giúp ước lượng điểm tín dụng từ các dấu vết kỹ thuật số
c)

Ngành du lịch

Ngành du lịch là ngành công nghiệp không khói, có giá trị về mặt kinh tế,
văn hóa và an ninh quốc phòng. Hơn nữa, phân tích số liệu cho thấy, du lịch là
ngành có xu hướng tăng trưởng tích cực trong khi thương mại toàn cầu có xu
hướng chậm lại và suy giảm rõ nét kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
năm 2008.
Một đặc trưng quan trọng của ngành du lịch không phải chịu cạnh tranh mặt
đối mặt trên thị trường du lịch toàn cầu cũng như ít chịu những tác động tiêu cực
của quá trình tự động hóa. Các yếu tố đầu vào của ngành du lịch chính là con
người và các thiết bị khác như nhà ở, nội thất đi kèm, các phương tiện vận chuyển
v.v.,, Trong đó, chi phí nhân công chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi phí và sẽ ít
chịu tác động bởi hội nhập hay sự tự động hóa. Sản phẩm của ngành du lịch mang
tính chuyên biệt, gắn liền với đặc trưng của từng địa danh, từng vùng miền. Sản
phẩm du lịch của vùng cao không thể so sánh được với sản phẩm du lịch của vùng
biển hay ngược lại bởi mỗi loại hình sẽ cho những trải nghiệm khác nhau.
Như vậy đối với ngành du lịch, hội nhập quốc tế không gây sức ép cạnh
tranh quốc tế mặt đối mặt, những lại đem đến những cơ hội về mở rộng thị trường,
thu hút vốn đầu tư mở rộng khai thác các tiềm năng du lịch, tăng lượng khách du
lịch do các điều kiện về thủ tục xuất nhập cảnh trở nên dễ dàng hơn, quảng bá du
lịch giữa các quốc gia nhanh chóng và thuận tiện. Bên cạnh đó hội nhập quốc tế
cũng tạo điều kiện để các quốc gia tiếp cận công nghệ mới dễ dàng hơn, nhanh
chóng hơn, qua đó giúp giảm chi phí và tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ
du lịch với giá rẻ hơn, chất lượng cao hơn.

12
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

Trong khi đó, nền tảng công nghệ số có ảnh hưởng trực tiếp khi 4 loại hình
cơ bản của ngành du lịch là dịch vụ cung cấp chỗ nghỉ, nhà hàng ăn uống, các tour
tham quan và phương tiện di chuyển đều có thể ứng dụng tốt trên các nền tảng
công nghệ số. Cụ thể là sử dụng nền tảng mạng thông tin www và các ứng dụng
(apps) trên các thiết bị thông minh để quảng cáo, bán hàng, quản lý và chăm sóc
khách hàng trong việc cung cấp các dịch vụ liên quan, cũng như sự ra đời của các
xu hướng và hình thức kinh doanh mới trong ngành du lịch.
Tiếp thị bằng kỹ thuật số “digital marketing” - một khái niệm mới xuất hiện
những năm gần đây khi công nghệ số tiến bộ vượt bậc trong lưu trữ thông tin và
mạng Internet được phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới đã có ảnh hưởng không
nhỏ đến ngành du lịch nói riêng và ngành dịch vụ nói chung. “Digital marketing”
tạo ra 5 xu hướng mới trong du lịch, đó là:
Sự gia tăng của nền kinh tế trải nghiệm (The Rise of the experience
economy).
Khách hàng hiện có trong hệ thống mạng xã hội (Customers existing within
a social ecosystem).
Sự lên ngôi của các khuyến nghị (recommendations are king).
Cá nhân hóa siêu dữ liệu (personalisation with big data).
Thực tế ảo (virtual reality).
Việt Nam cần tận dụng những cơ hội này để phát triển ngành du lịch.
3.3. Thực trạng lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Đối với Việt Nam, từ trước đến nay, nền kinh tế vẫn dựa nhiều vào các

ngành sử dụng lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên thiên nhiên, trình độ của
người lao động còn lạc hậu. Đây là một trong những thách thức lớn nhất khi đối
diện với cuộc CMCN 4.0.
Thực tế đã chỉ ra, tuy Việt Nam đang ở trong thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”,
thời kỳ mà dân số trong độ tuổi lao động cao nhất (năm 2016, lực lượng lao động
của cả nước đạt khoảng 54,4 triệu người, chiếm khoảng 58,9% tổng dân số) nhưng
nguồn nhân lực (NNL) của nước ta, nhất là NNL chất lượng cao lại thiếu hụt về số
lượng, hạn chế về chất lượng và bất cập về cơ cấu.
Cần thẳng thắn nhìn nhận, công tác đào tạo nhân lực nói chung, đào tạo nghề
nói riêng những năm qua đã có những chuyển biến rõ nét nhưng vẫn chưa được
như kỳ vọng, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế. Đối với các nước có
trình độ sản xuất phát triển, đang trong guồng quay của CMCN 4.0 thì chất lượng
lao động không còn là vấn đề lớn nhưng với nước ta hiện nay, muốn ứng dụng
13
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

công nghiệp 4.0 đòi hỏi phải nâng cao chất lượng NNL bắt đầu ngay từ khâu đào
tạo nghề.
Các nghiên cứu cho thấy, bên cạnh những cơ hội, Việt Nam cũng phải đối
diện với nhiều thách thức mới trong vấn đề đào tạo, phát triển chất lượng NNL.
Những vấn đề cần quan tâm trong việc phát triển NNL Việt Nam đáp ứng yêu cầu
của CMCN 4.0 cụ thể là:
Thứ nhất, CMCN 4.0 làm chuyển dịch cơ cấu lao động trong các ngành kinh
tế. Với CMCN 4.0, những ngành nghề truyền thống sử dụng nhiều lao động sẽ dần
mất đi, đồng thời xuất hiện những ngành nghề mới. CMCN 4.0 đã cho ra đời các

hệ thống tự động hóa và robot thông minh. Các hệ thống này sẽ thay thế dần lao
động thủ công trong toàn bộ nền kinh tế gây áp lực lớn đối với thị trường lao động.
Các quốc gia đang phát triển sẽ phải đối mặt với tình trạng dư thừa lao động và gia
tăng tình trạng thất nghiệp.
Hiện nay, nguồn lao động của Việt Nam tương đối dồi dào nhưng chủ yếu là
lao động tay nghề thấp, vì vậy dễ dàng bị thay thế bởi máy móc. Những công việc
mang tính chất rập khuôn, lặp lại đơn giản mà đa phần lao động chưa qua đào tạo
Việt Nam đang đảm nhận sẽ dần được thay thế bởi máy móc trong tương lai.
Theo ước tính của Tổ chức Lao động quốc tế, có đến 86% số lao động trong
các ngành dệt may và giày dép của Việt Nam có nguy cơ cao mất việc làm trong
vòng 15 năm tới. Bên cạnh việc mất dần những ngành nghề truyền thống sử dụng
nhiều lao động, cuộc CMCN 4.0 cũng xuất hiện nhiều ngành nghề mới, gắn với
đặc trưng của cuộc cách mạng này như: ngành điện tử, viễn thông, số hóa, kỹ thuật
viên máy tính, an ninh mạng, in 3D… Trong tương lai, những lao động bị mất việc
làm do sự phát triển của robot và công nghệ tự động hóa sẽ dịch chuyển sang
những ngành mới này. Tuy nhiên, không phải dễ dàng khi chuyển đổi ngành nghề,
nhất là những ngành mới đòi hỏi nhiều tri thức.
Thứ hai, thị trường lao động phân hóa mạnh mẽ: Trong cuộc CMCN 4.0, lao
động giá rẻ không còn là lợi thế cạnh tranh của các quốc gia trên thế giới. Hàng
loạt nghề nghiệp cũ mất đi, thị trường lao động quốc tế sẽ phân hóa mạnh giữa
nhóm lao động có kỹ năng thấp và nhóm lao động có kỹ năng cao. Cùng với đó, sự
ra đời của trí tuệ nhân tạo (robot thông minh) cũng làm giảm nhu cầu sử dụng lao
động kỹ năng thấp. Đặc biệt, cuộc CMCN 4.0 không chỉ đe dọa việc làm của
những lao động trình độ thấp mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị
ảnh hưởng, nếu như họ không được trang bị những kỹ năng mới – kỹ năng sáng
tạo. Với sự phát triển công nghệ nhanh chóng trong tương lai, nhu cầu về lao động
có trình độ và kỹ năng cao là một yêu cầu tất yếu. Từ việc nâng cao yêu cầu về
chất lượng NNL, cuộc CMCN 4.0 còn làm thay đổi yêu cầu và phương pháp đào
14
Học viên: Ngô Ngọc Dũng

Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

tạo NNL. Đào tạo NNL chất lượng cao chuẩn bị cho CMCN 4.0 đã trở thành vấn
đề cấp bách mà nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm.
Thứ ba, yêu cầu về NNL chất lượng cao ngày càng cấp thiết: CMCN 4.0 yêu
cầu NNL có chất lượng ngày càng cao, trong khi đó, NNL chất lượng cao của Việt
Nam hiện nay lại thiếu hụt cả về số lượng và kỹ năng tay nghề. CMCN 4.0 là cuộc
cách mạng số nhưng nhân lực chất lượng cao trong các ngành công nghệ thông tin,
kỹ thuật máy tính, tự động hóa… của Việt Nam đang quá ít. Theo tính toán của các
chuyên gia, nhu cầu nhân lực công nghệ thông tin tăng thêm 47% mỗi năm, trong
khi đó số sinh viên ngành công nghệ thông tin ra trường lại chỉ tăng 8%/năm.
Trong số nhân lực ấy, không phải tất cả đều có chất lượng cao, đáp ứng được yêu
cầu của nhà tuyển dụng. Một nghiên cứu mới đây cho thấy, có tới 72% số sinh viên
ngành công nghệ thông tin không có kinh nghiệm thực hành, 42% số sinh viên
thiếu kỹ năng làm việc nhóm.
Tại một số diễn đàn, hội thảo về CMCN 4.0 và NNL mới nhất, không ít DN
phàn nàn đang gặp khó khăn trong khâu tuyển dụng hoặc lao động được tuyển vào
không đáp ứng được yêu cầu công việc mà phải qua đào tạo, tập huấn tại DN.
Thống kê mới nhất cho thấy, trong 350 trường đại học ở Việt Nam, chỉ có 12
trường có nhóm giảng viên được trang bị kiến thức giảng dạy bằng phương pháp
STEM (tức là trang bị cho người học những kiến thức, kỹ năng cần thiết liên quan
đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học). Điều đáng nói, trong
số 12 trường đại học có nhóm giảng viên được trang bị kiến thức giảng dạy bằng
phương pháp STEM không phải trường nào cũng đào tạo được đầy đủ và đúng quy
trình để có được NNL đã được chuẩn hóa.
Thứ tư, cạnh tranh gay gắt về NNL: Trước hết, cạnh tranh sẽ xảy ra trong

một số lĩnh vực công nghệ đang bắt đầu được ứng dụng rộng rãi vào thực tiễn, tạo
áp lực tuyển dụng, phát triển NNL liên quan. Ngay tại nước ta, nhân lực trong các
ngành về trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật, xe ôtô tự lái, Robotic… đang được "săn
lùng" ráo riết và trả mức lương “khủng”. Chi phí tiền lương cho nhóm lao động
này có thể tăng 50 - 100%/năm trong một vài năm. Số lượng nhân sự đông hiện
không còn là một lợi thế cạnh tranh nữa. Với công nghệ, các công ty có thể phối
hợp và triển khai những công việc mà trước đây chỉ các công ty lớn mới có thể làm
được, chủ yếu tập trung vào ứng dụng công nghệ theo các mô hình kinh doanh mới
để tạo năng lực cạnh tranh khác biệt.
Các chuyên gia cho rằng, kỷ nguyên số sẽ thay đổi hoàn toàn cách chúng ta
sống, làm việc và sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực lao động, khi máy móc dần thay
thế con người. Nước ta cũng không nằm ngoài xu thế đó, nhất là khi lực lượng lao
động rất dồi dào nhưng lại thiếu năng lực và kỹ năng. Thực tế hiện nay, tỷ lệ lao
15
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

động phổ thông không có chuyên môn kỹ thuật chiếm số lượng lớn. Chưa kể lực
lượng lao động thiếu các kỹ năng cần thiết như làm việc nhóm, giải quyết vấn đề,
kỹ năng tin học, ngoại ngữ, đạo đức nghề nghiệp chưa cao, thiếu ý thức trách
nhiệm và chậm thích nghi với môi trường mới, năng lực đổi mới và sáng tạo khoa
học và công nghệ của lao động có trình độ cao còn nhiều yếu kém.
Để biến những thách thức thành cơ hội, người lao động sẽ cần những kỹ
năng mới để có thể tìm được cơ hội việc làm. Những kỹ năng cần thiết cho NNL để
sẵn sàng tham gia cuộc CMCN 4.0 sẽ là kỹ năng giải quyết vấn đề phức tạp, tư duy
phản biện, sáng tạo, quản lý nguồn lực con người, phối hợp với đồng nghiệp, trí

tuệ cảm xúc, đánh giá và đưa ra quyết định, định hướng dịch vụ, đàm phán, linh
hoạt trong nhận thức. Trong kỷ nguyên kỹ thuật số, các nhóm lao động đều bị tác
động, đặc biệt là các nhóm lao động yếu thế như tuổi cao, trình độ kỹ năng thấp…
Điều này dẫn tới việc làm có thể mất đi nhưng cũng có thể mở ra cơ hội khi nhiều
lĩnh vực mới được mở ra. Vì vậy, ngay từ bây giờ, lực lượng trẻ chuẩn bị tham gia
thị trường lao động, ngoài kiến thức trên nhà trường, cần trang bị những kỹ năng
cần thiết để đón đầu xu thế và cơ hội việc làm tốt nhất trong tương lai.
Từ thực trạng NNL của Việt Nam, trên cơ sở những vấn đề mới nảy sinh từ
cuộc CMCN 4.0, Việt Nam cần có những thay đổi để thích ứng và phù hợp xu thế
của thời đại. Sự thành công hay thất bại, Việt Nam có tận dụng tốt thời cơ, hay
vượt qua được những nguy cơ, thách thức từ cuộc CMCN 4.0 hiện nay hay không
không phụ thuộc vào phương thức khai thác nguồn lực con người, nhất là việc xây
dựng, phát triển NNL.
4. Các giải pháp phát triển Lực lượng sản xuất ở Việt Nam để đáp ứng
cuộc cách mạng 4.0
4.1. Phát triển nguồn nhân lực
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII nhấn mạnh: “Phát triển NNL,
nhất là nhân lực chất lượng cao, tranh thủ những cơ hội và thành tựu của Cuộc
CMCN 4.0”. Đây là một chủ trương đúng đắn, thể hiện sự nhạy bén, sáng tạo và tư
duy đột phá của Đảng ta. Tuy nhiên, để thực hiện tốt nội dung này đòi hỏi phải có
một chiến lược tổng thể và lâu dài, với hệ thống các giải pháp mang tính đồng bộ,
thiết thực và khả thi, trong đó có thể tập trung nghiên cứu và thực hiện tốt một số
nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, tập trung xây dựng và hoàn thiện chiến lược tổng thể, hệ thống cơ
chế, chính sách về phát triển NNL chất lượng cao: Xây dựng chiến lược tổng thể
phát triển NNL chất lượng cao là một chủ trương lớn, và là nhiệm vụ quan trọng,
đòi hỏi cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, thận trọng với một tư duy đột phá và tầm
16
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai



Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

nhìn lâu dài, phù hợp với thực tiễn. Chiến lược phải xác định rõ mục tiêu, quy mô,
lộ trình và những cơ chế, chính sách tổng thể. Trong đó, mục tiêu chiến lược phải
ưu tiên khắc phục mâu thuẫn giữa phát triển về số lượng, chất lượng và cơ cấu; xác
định quy mô, số lượng và cơ cấu của từng loại nhân lực cho phù hợp. Chiến lược
cũng xây dựng lộ trình thực hiện một cách hợp lý, có tính dự báo cao, xây dựng và
hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển NNL chất lượng cao một cách
toàn diện và đồng bộ. Cần xác định rõ đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của cả
hệ thống chính trị, trong đó cần sớm thống nhất nhận thức trong các đoàn thể chính
trị - xã hội, trước hết là lực lượng nòng cốt đang trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực
nghiên cứu và hoạch định chiến lược, chính sách, tác động của thời cơ và thách
thức đối với nước ta từ CMCN 4.0.
Hệ thống cơ chế, chính sách có vai trò rất quan trọng, tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp, tạo động lực thúc đẩy hoặc lực cản kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế
- xã hội nói chung và phát triển NNL chất lượng cao nói riêng. Trên thực tế, những
năm qua, nước ta đã có nhiều cơ chế, chính sách mới có tác động tích cực đến việc
phát triển NNL chất lượng cao. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các chính
sách đó đã bộc lộ không ít hạn chế, bất cập, hiệu quả mang lại chưa tương xứng.
Để tiếp tục phát triển NNL chất lượng cao, có hiệu quả, đòi hỏi cần phải thường
xuyên điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách nhằm tạo
hành lang pháp lý, tạo thuận lợi cho việc phát triển NNL chất lượng cao ở nước ta
trước tác động của cuộc CMCN 4.0.
Việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để tạo động lực cho sự phát triển
NNL chất lượng cao phải được thực hiện đồng bộ trên nhiều phương diện như giáo
dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu
nhập, an sinh xã hội, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, chăm sóc sức khỏe, chính sách phát

triển thị trường lao động, các điều kiện nhà ở, sinh sống, định cư... Nhà nước cần
tiếp tục đổi mới thể chế, hoàn thiện hành lang pháp lý từ Trung ương đến địa
phương nhằm tạo môi trường thuận lợi phát triển NNL, khuyến khích phát triển thị
trường NNL chất lượng cao; thị trường và sản phẩm khoa học - công nghệ theo
hướng hội nhập, xây dựng môi trường pháp lý cho phát triển các ngành, nghề kinh
doanh mới ở Việt Nam đang bắt đầu nảy sinh từ cuộc CMCN 4.0.
Cần có chính sách thỏa đáng để tạo nguồn lực và khai thác có hiệu quả
nguồn lực mới, nhất là trong những ngành mũi nhọn về công nghệ của quốc gia;
nâng cao chất lượng hoạt động của các vườn ươm công nghệ và DN công nghệ
cao; có chính sách hỗ trợ hình thành và phát triển các vườn ươm khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo trong các cơ sở đào tạo về công nghệ, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong
nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ. Đồng thời, tăng cường sự hợp tác
17
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

hiệu quả giữa Nhà nước, DN và các trường đại học thúc đẩy sự phát triển một số
ngành chọn lọc, đặc biệt là công nghệ thông tin.
Thứ hai, gắn kết chặt chẽ giữa quá trình đào tạo với bồi dưỡng và sử dụng
NNL chất lượng cao: Đảng ta khẳng định: “Xây dựng chiến lược phát triển NNL
cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ, trong
đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại NNL trong các nhà trường”. Điều
này đặt ra yêu cầu rất cao đối với NNL chất lượng cao. Vì vậy, các cơ sở đào tạo
phải luôn coi trọng quản lý tốt chất lượng “sản phẩm đầu ra” thông qua các hình
thức đánh giá năng lực thực hành của học viên trong quá trình đào tạo, phúc tra kết
quả đào tạo, kết quả tốt nghiệp… thay cho cách quản lý “sản phẩm đầu vào” như

hiện nay.
Các cơ sở đào tạo cũng cần trang bị cho học viên, nghiên cứu sinh các kỹ
năng cần thiết như: giao tiếp, nghiên cứu tài liệu nước ngoài, sử dụng công nghệ
thông tin, sự sáng tạo, thích nghi, nắm bắt được xu thế phát triển của xã hội…
nhằm đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với sử dụng, đáp ứng yêu cầu đang
đặt ra. Việc lựa chọn nguồn đi đào tạo, bồi dưỡng không chỉ đặt lên hàng đầu tiêu
chí về nhận thức mà còn phải rất coi trọng đến các vấn đề ngoại ngữ, tin học, bản
lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, năng lực lãnh đạo, quản lý.
Đặc biệt, các cơ sở đào tạo cần phải dân chủ, công khai các tiêu chí, hướng
đi học và sử dụng cán bộ để làm tăng tính tích cực, chủ động cho cả người học và
đơn vị sử dụng. Trong sử dụng nhân lực, không quá phụ thuộc vào vấn đề bằng cấp
mà coi trọng đến hiệu quả công việc. Để đạt được, cần thường xuyên bồi dưỡng,
rèn luyện đội ngũ này trong các hoạt động thực tiễn, sau đó mới bố trí, sử dụng
theo đúng năng lực, trình độ nhằm phát huy vai trò, thế mạnh của họ theo chuyên
ngành đào tạo, khắc phục được tình trạng lãng phí hoặc chảy máu “chất xám” ở
một số nơi hiện nay.
Thứ ba, tận dụng hiệu quả các cơ hội, nỗ lực đổi mới hệ thống giáo dục Việt
Nam: Cụ thể là cần tiếp tục gia cố những yếu tố nền móng, đổi mới tư duy về phát
triển giáo dục trong tổng thể chiến lược phát triển của quốc gia. Mục tiêu là đào tạo
đội ngũ lao động chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, cụ thể là
chuyển từ biệt lập, tự phát về số lượng sang chất lượng, có kết nối giữa đào tạo và
sử dụng lao động, từ cách đào tạo làm cho người học thụ động sang chủ động sáng
tạo, không ngại đương đầu với khó khăn, thách thức.
Nhà nước cũng cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý tạo môi trường
thuận lợi phát triển NNL, khuyến khích phát triển thị trường NNL chất lượng cao;
thị trường sản phẩm khoa học công nghệ phải phản ánh đầy đủ quan hệ cung - cầu,
qua đó, làm căn cứ hoạch định chiến lược và chính sách. Bên cạnh đó, cần có chính
18
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai



Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

sách hỗ trợ hình thành và phát triển các vườn ươm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo
trong các trường đại học đào tạo về công nghệ; gắn kết chặt chẽ giữa các vườn
ươm khởi nghiệp với trường đại học và DN...
Các cơ sở giáo dục đại học cần tăng cường liên kết với các DN, các trường
đại học quốc tế để xây dựng các phòng thí nghiệm theo hình thức hợp tác công –
tư; Xây dựng mô hình giáo dục 4.0 theo kịp xu hướng công nghệ hiện đại trong
nền kinh tế 4.0.
4.2. Phát triển khoa học - công nghệ
Khẳng định vai trò to lớn của KHCN, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ
quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “KHCN giữ vai trò
then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và
môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh
tranh của nền kinh tế. Phát triển KHCN nhằm mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”(4) . Văn
kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển mạnh mẽ KHCN, làm
cho KHCN thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc
phòng, an ninh”(5) .
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là cơ hội cho mọi dân tộc, nhất là các dân
tộc đi sau có thể phát triển nhanh bằng đi tắt, đón đầu. Cũng như ba cuộc cách
mạng công nghiệp trước, dân tộc nào nắm bắt được cơ hội do cuộc cách mạng
công nghiệp đem lại thì phát triển, giàu có; ngược lại, dân tộc nào không nắm bắt
được sẽ bị gạt ra ngoài sự phát triển. Nhờ có chủ trương đúng về phát triển KHCN,
mặc dù nước ta còn ở trình độ của nước đang phát triển, nhưng theo thống kê chưa

đầy đủ, đã có 55% dân số sử dụng điện thoại thông minh và 54% nối mạng in-tơnét, đứng thứ 5 ở châu Á - Thái Bình Dương. Vì vậy, ở mức độ nhất định, chúng ta
đã bước đầu được thụ hưởng những thành tựu KHCN hiện đại. Tuy nhiên, trên
thực tế, hoạt động KHCN của Việt Nam thời gian qua còn nhiều hạn chế, chưa
thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Việc huy động nguồn lực của
xã hội vào hoạt động KHCN chưa được chú trọng đúng mức. Việc đào tạo, trọng
dụng, đãi ngộ cán bộ KHCN tuy đã có nhiều đổi mới nhưng còn không ít bất cập,
hạn chế; cơ chế quản lý hoạt động KHCN chậm được hoàn thiện, chỉ khoảng 30%
số nghiên cứu được chuyển giao ứng dụng hoặc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện; số
doanh nghiệp dám “mạo hiểm” đầu tư cho các nghiên cứu khoa học còn rất ít... Khi
19
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

đất nước ta đang đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế sâu rộng, cuộc cách
mạng công nghiệp lần này đang tạo ra thời cơ mới cho Việt Nam hội nhập sâu rộng
hơn và hiệu quả hơn vào nền kinh tế thế giới, là cơ hội để Việt Nam tiến thẳng vào
lĩnh vực công nghệ mới, tranh thủ các thành tựu KHCN tiên tiến để đẩy nhanh hơn
tiến trình CNH, HĐH đất nước và thu hẹp khoảng cách phát triển. Có nhiều chủ
trương, quyết sách cần phải thực hiện, trong đó, nổi lên một số vấn đề sau:
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về phát
triển KHCN và nắm bắt ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp
đương đại. Hiện nay, nhiều cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan, doanh nghiệp,
trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa nhận thức rõ vai trò và sự cần
thiết phát triển KHCN; sự nắm bắt và ứng dụng các thành tựu KHCN như là một
động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Vì
vậy, cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31-102012 về phát triển KHCN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế

thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Trong đó, cần nắm vững định
hướng phát triển KHCN đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 để vận dụng vào
điều kiện cụ thể của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị.
Đổi mới chiến lược công nghiệp Việt Nam, ưu tiên thúc đẩy phát triển
KHCN mũi nhọn, như: công nghệ na-nô, in 3D, công nghệ sinh học phân tử, công
nghệ di truyền, công nghệ của trí tuệ nhân tạo… Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
là thời cơ để chúng ta xây dựng chiến lược công nghiệp mới gắn với những đặc
trưng của nó, hình thành các chính sách KHCN phù hợp.
Đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động
KHCN, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, phát triển, ứng dụng. Sử dụng đồng bộ các
giải pháp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng cơ chế, chính
sách, pháp luật thuận lợi cho KHCN phát triển. Đổi mới cơ chế quản lý đối với các
tổ chức KHCN trên cơ sở thực hiện nghiêm túc Nghị định số 115/2005/NĐ-CP
ngày 5-9-2005 quy định về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KHCN
công lập. Đổi mới về chính sách quản lý tài chính đối với kinh phí hoạt động
KHCN theo cơ chế khoán chi đến sản phẩm cuối cùng đối với các nhiệm vụ
KHCN sử dụng ngân sách nhà nước.
Đẩy mạnh cải cách giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực.
Cần đổi mới mạnh mẽ và toàn diện nội dung, chương trình cũng như phương pháp
giảng dạy và học tập, nghiên cứu tạo ra tiền đề quan trọng nhất cho quá trình thích
20
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

ứng và hội nhập quốc tế. Đào tạo nhân lực về mặt công nghệ và tri thức mới cũng
như xây dựng một môi trường hỗ trợ sáng tạo có ý nghĩa sống còn để thích nghi

cuộc cách mạng này. Cần đầu tư có chiều sâu và hiệu quả để các trường đại học
trọng điểm đi đầu trong nghiên cứu KHCN mới nhằm tiệm cận với các nước tiên
tiến. Có chính sách phát triển đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học. Các trường
đại học trọng điểm thu hút nhân tài trong giới khoa học, nghiên cứu và giảng dạy.
Đồng thời, tiên phong trong khởi nghiệp ở lĩnh vực công nghệ và tri thức, là nơi
ươm mầm tài năng của đất nước trong giai đoạn phát triển và hội nhập quốc tế hiện
nay.
4.3. Phát triển các lĩnh vực ưu tiên
Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương,
chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cụ thể:
a. Nhà thông minh
Nhà thông minh (Smart Home) là tính năng liên quan đến IoT được tìm
kiếm nhiều nhất trên Google. Thử tưởng tượng bạn có thể bật điều hòa trước khi về
nhà hoặc tắt đèn ngay cả khi bạn đã rời khỏi nhà? Hoặc mở khóa cửa cho bạn bè để
đến ở tạm thời ngay cả khi bạn không ở nhà. Đừng ngạc nhiên với các công ty hình
thành IoT đang xây dựng các sản phẩm để làm cho cuộc sống của bạn đơn giản và
thuận tiện hơn.
b. Thiết bị đeo
Các thiết bị đeo được cài đặt với các cảm biến và phần mềm thu thập dữ liệu
và thông tin về người dùng. Dữ liệu này sau đó được xử lý trước để trích xuất
những hiểu biết thiết yếu về người dùng.
Những thiết bị này bao gồm rộng rãi các yêu cầu về thể dục, sức khỏe và
giải trí. Điều kiện tiên quyết của công nghệ internet vạn vật cho các ứng dụng của
thiết bị đeo là phải có hiệu suất năng lượng cao hoặc tiêu thụ năng lượng cực thấp
và kích thước nhỏ.
Đây là lĩnh vực mà những nhà chế tạo Việt Nam đang học hỏi và có thể sẽ
tạo ra các sản phẩm “make by Vietnam” trong tương lai không xa.
c. Ô tô được kết nối
Một chiếc xe được kết nối là một phương tiện có khả năng tối ưu hóa hoạt
động, bảo trì cũng như tạo sự thoải mái cho hành khách sử dụng cảm biến trên tàu

và kết nối internet.
21
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

Hầu hết các nhà sản xuất ô tô lớn cũng như một số công ty khởi nghiệp dũng
cảm đang làm việc trên các giải pháp xe hơi được kết nối. Các thương hiệu lớn như
Tesla, BMW, Apple, Google đang nỗ lực mang đến cuộc cách mạng tiếp theo đối
với ô tô. Một số công ty lớn của Việt Nam cũng sẽ hòa vào xu hướng đó.
d. Internet công nghiệp
Internet công nghiệp tạo tiếng vang mới trong lĩnh vực công nghiệp, còn
được gọi là Internet kết nối vạn vật công nghiệp (IIoT). Nó đang trao quyền cho kỹ
thuật công nghiệp với các cảm biến, phần mềm và phân tích dữ liệu lớn để tạo ra
những cỗ máy tuyệt vời.
Triết lý cơ bản đằng sau IIoT là, máy móc thông minh chính xác và nhất
quán hơn con người trong việc giao tiếp thông qua dữ liệu. Và, dữ liệu này có thể
giúp các công ty phát hiện và lọc ra sự thiếu hiệu quả để giải quyết vấn đề sớm
hơn.
IIoT có tiềm năng lớn về kiểm soát chất lượng và tính bền vững. Các ứng
dụng như theo dõi hàng hóa, trao đổi thông tin theo thời gian thực về hàng tồn kho
giữa các nhà cung cấp và nhà bán lẻ và giao hàng tự động sẽ làm tăng hiệu quả của
chuỗi cung ứng. Theo GE, năng suất công nghiệp cải tiến sẽ tạo ra 10 nghìn tỷ đến
15 nghìn tỷ GDP trên toàn thế giới trong 15 năm tới. Đây là hướng đi mà Việt Nam
đang lựa chọn để phát triển.
e. IoT trong nông nghiệp
Nông nghiệp thông minh là một trong những lĩnh vực phát triển nhanh nhất

của IoT. Nông dân đang sử dụng những thành tựu sâu sắc mang nhiều ý nghĩa từ
dữ liệu để mang lại lợi tức đầu tư tốt hơn. Cảm nhận độ ẩm và chất dinh dưỡng của
đất, kiểm soát việc sử dụng nước cho sự phát triển của cây và xác định phân bón
tùy chỉnh là một số cách sử dụng đơn giản của IoT.
f. Bán lẻ thông minh
IoT cung cấp cơ hội cho các nhà bán lẻ kết nối với khách hàng để nâng cao
trải nghiệm tại cửa hàng. Điện thoại thông minh sẽ là cách để các nhà bán lẻ duy trì
kết nối với người tiêu dùng ngay cả khi ra khỏi cửa hàng. Tương tác thông qua
điện thoại thông minh và sử dụng công nghệ Beacon có thể giúp các nhà bán lẻ
phục vụ người tiêu dùng tốt hơn. Họ cũng có thể theo dõi đường đi của người tiêu
dùng bên trong một cửa hàng để cải thiện cách bố trí cửa hàng và đặt các sản phẩm
cao cấp ở khu vực có lưu lượng cao.
g. Sử dụng năng lượng thông minh
22
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

Lưới điện của tương lai sẽ chỉ được thiết kế thông minh mà còn có độ tin cậy
cao. Khái niệm lưới điện thông minh đang trở nên rất phổ biến trên toàn thế giới.
Ý tưởng cơ bản nằm phía sau khái niệm lưới điện thông minh là việc thu
thập dữ liệu theo kiểu tự động và phân tích hành vi người tiêu dùng hoặc nhà cung
cấp điện để cải thiện hiệu quả cũng như sử dụng điện một cách kinh tế.
Lưới điện thông minh cũng sẽ có thể phát hiện các nguồn mất điện nhanh
hơn và đến các cấp hộ gia đình cá thể thông qua bảng điều khiển năng lượng mặt
trời, làm cho hệ thống năng lượng có thể được phân phối thật hợp lý.
h. IOT trong chăm sóc sức khỏe

Việc chăm sóc sức khỏe được kết nối vẫn là người khổng lồ đang ngủ yên và
đã bắt đầu thức giấc trong các ứng dụng IoT. Khái niệm về hệ thống chăm sóc sức
khỏe được kết nối và các thiết bị y tế thông minh mang tiềm năng to lớn không chỉ
cho các công ty mà còn đem lại sự phong phú trong cuộc sống của mọi người nói
chung.
Nghiên cứu cho thấy IoT trong chăm sóc sức khỏe sẽ phát triển rất lớn trong
những năm tới. IoT trong chăm sóc sức khỏe là nhằm mục đích trao quyền cho mọi
người sống cuộc sống lành mạnh hơn bằng cách đeo các thiết bị được kết nối. Dữ
liệu được thu thập sẽ giúp phân tích cá nhân hóa sức khỏe một cá thể và cung cấp
các chiến lược phù hợp để giúp chống lại bệnh tật.
i. Trong gia cầm và chăn nuôi
Giám sát chăn nuôi là những gì liên quan về chăn nuôi và tiết kiệm chi phí
trong chăn nuôi. Sử dụng các ứng dụng IoT để thu thập dữ liệu về sức khỏe của gia
súc và gia cầm, người chăn nuôi biết sớm về tình trạng bệnh tật của con vật để có
thể rút ra giải pháp phòng chống và giúp ngăn chặn số lượng lớn gia súc bị bệnh.
Với sự giúp đỡ của dữ liệu thu thập, người chăn nuôi có thể tăng sản lượng
gia cầm và gia súc một cách bền vững.
j. Công nghệ nano
Hiện nay chúng ta đã có thể viết toàn bộ 24 tập của bách khoa toàn thư
Brittanica trên đầu một cái ghim.
Ngày nay, công nghệ nano là cốt lõi của mọi ngành công nghiệp tiên tiến, từ
chip máy tính đến các thế hệ vật liệu nano mới giúp mang lại các tính chất đặc biệt
như siêu cường độ hoặc diện tích bề mặt nhiều hơn cho pin mặt trời. Thiết kế mọi
thứ ở quy mô phân tử đang mở ra những khả năng có vẻ giống khoa học viễn
tưởng hơn là thực tế khoa học.
23
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai



Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

Các ứng dụng trong tương lai hiện nay nằm trong phạm vi phát triển từ
nanorobots có thể điều trị ung thư bằng cách tấn công các khối u ở cấp độ phân tử,
có thể lập trình.
k. Bộ gen
Vào đầu thế kỷ này, sau hơn một thập kỷ và tiêu tốn mất vài tỷ đô la, các nhà
khoa học đã lập bản đồ thành công bộ gen của con người. Ngày nay, genomics là
công nghệ tiến bộ nhanh nhất trong tất cả. Tạp chí Nature gần đây đã công bố một
cỗ máy sẽ sớm có mặt trên thị trường có thể giải mã bộ gen trong 15 phút với giá
900 đô la.
Các nhà khoa học cũng đang xây dựng một cơ sở dữ liệu về các protein mà
gien mã hóa, được gọi là ENCODE, mở khóa những bí mật về cách thức hoạt động
của máy móc sinh học. Điều đó mở ra cánh cửa cho một loạt các liệu pháp mới,
chẳng hạn như các cơ quan tổng hợp, có thể kéo dài cuộc sống và giảm chi phí
chăm sóc sức khỏe.
Ngoài ra còn có các ứng dụng quan trọng ngoài y học, tìm cách tạo ra các
sinh vật như tảo, có thể tạo ra các hợp chất quan trọng, như nhiên liệu để chạy xe
của chúng ta. Bộ Năng lượng Hoa Kỳ đã đặt ra yêu cầu sản xuất 17% lượng dầu
tiêu thụ hiện tại của chúng ta theo cách này vào năm 2022.
Vì vậy, tính đến việc chăm sóc sức khỏe chiếm gần 10% tổng GDP của các
nền kinh tế tiên tiến (và gần gấp đôi so với ở Mỹ) và thêm vào đó là thị trường
khổng lồ cho dầu mỏ, genomics được coi là một ngành thực sự có triển vọng rất
lớn.
l. Trí tuệ nhân tạo (AI)
Ngày nay, chúng ta hiếm khi có thể vượt qua một ngày bình thường mà
không cần sử dụng trí thông minh của máy. Máy tính tổ chức hậu cần khi chúng ta
gửi một kiện hàng, đảm bảo rằng các sản phẩm phù hợp có trên kệ khi chúng ta
đến cửa hàng, tổ chức các chuyến bay trực tuyến cho chúng ta và giúp có thể ra

lệnh bằng giọng nó để gửi tin nhắn chính xác trên điện thoại thông minh.
Khi sức mạnh xử lý trở nên dồi dào và rẻ tiền, nơi máy tính đáp ứng hoặc
vượt quá khả năng của con người cho các nhiệm vụ chung. Chẳng hạn, trong Thử
thách đô thị DAPRA, ô tô tự điều hướng các đường phố trong thành phố. Ray
Kurzweil tin rằng máy tính sẽ đủ khả năng mô phỏng bộ não của con người trong
vòng 20 năm.
m. Robotics
24
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Tiểu luận triết học: Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

Robotics hiện đang bước vào thời kỳ hoàng kim. Microsoft đang xây dựng
một nền tảng lập trình tiêu chuẩn cho công nghệ. Các công ty như Willow Garage
đang quảng bá một nền tảng nguồn mở. Chính phủ Hoa Kỳ đã tạo ra một Sáng kiến
Robot quốc gia để thúc đẩy sự đổi mới lớn hơn.
Bây giờ đã có robot trong chiến trường giúp giải cứu những người lính bị
thương ở những nơi nguy hiểm, trong khi một thiết kế robot tương tự có thể giúp
bệnh nhân từ giường đến xe lăn. Có một bàn tay khéo léo có thể nhặt một bóng đèn
mà không làm vỡ nó, hay một cánh tay siêu tốc có thể di chuyển 200 vật thể mỗi
phút và thậm chí là một robot phục vụ đời sống thông thường.
Một điều mà robot không thể làm là tự mình đưa ra những đánh giá quan
trọng, tuy nhiên khi AI mạnh mẽ trở thành hiện thực, robot có lẽ cũng sẽ làm được
điều đó.
n. Năng lượng dựa trên công nghệ
Năng lượng là một thành phần khổng lồ khác của đời sống kinh tế, chiếm
khoảng 10% GDP toàn cầu. Thế kỷ 21, chúng ta sẽ ngày càng dựa vào năng lượng

dựa trên công nghệ, với ưu điểm sẽ không chỉ sạch hơn, mà còn rẻ hơn và phong
phú hơn.
Hiện tại, hiệu suất pin mặt trời là khoảng 15% và chỉ đủ cạnh tranh với tỷ lệ
lưới điện hiện tại. Tuy nhiên, một nhà máy mới hiện đại sẽ đạt được hiệu suất 21%
và các công nghệ thử nghiệm đã đạt đến hiệu suất 34%. Thêm vào đó là lợi ích
song song trong sản xuất và lắp đặt chi phí và năng lượng mặt trời có thể bằng một
nửa giá than vào năm 2030. Khai thác năng lượng mặt trời là thế mạnh trời cho của
Việt Nam.
Nhưng điều đó chỉ là một nửa câu chuyện. Công nghệ sản phẩm mới hơn
cũng hiệu quả hơn nhiều. Màn hình phẳng mới tuyệt vời sử dụng ít hơn 50% năng
lượng của loại cũ và thế hệ bộ OLED tiếp theo thậm chí sẽ cải thiện xa hơn điều
đó.
Thêm vào đó là xu hướng tương tự về gió, nhiên liệu dựa trên tảo, nhà máy
hạt nhân thế hệ thứ 4 (không cần chôn chất thải) và năng lượng dựa trên công nghệ
sẽ là một ngành tăng trưởng khổng lồ trong nhiều thập kỷ tới.
4.4. Hội nhập quốc tế
Việt Nam giờ là đối tác chiến lược và đối tác toàn diện của 30 nước, trong
đó có tất cả các nước lớn ở châu Á - Thái Bình Dương và 5 nước Ủy viên thường
trực Hội đồng bảo an LHQ. Được tín nhiệm lựa chọn là nơi tổ chức nhiều hội nghị
quan trọng có tầm cỡ khu vực và toàn cầu như Diễn đàn Kinh tế thế giới về
ASEAN hay gần đây nhất là Thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên.
25
Học viên: Ngô Ngọc Dũng
Lớp: quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


×