Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tieuluan XD QHSX XHCN VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.13 KB, 24 trang )

Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

MỞ ĐẦU
Lời đầu tiên, em xin cảm ơn nhà trường, các giảng viên đã giúp em hoàn
thành môn học, nắm bắt các nội dung cơ bản môn Triết học.
Triết học là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống xã hội của bất kỳ
quốc gia nào. Triết học không chỉ tác động đến sự phát triển trong tư tưởng của
con người mà nó còn tham gia vào quá trình phát triển kinh tế của nhiều quốc
gia trên Thế giới, trong đó có Việt Nam. Triết học Mác – Lênin là kim chỉ nam,
nền tảng, cơ sở của mọi đường lối quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà
nước, ngay cả trong thời đại hội nhập ngày nay.
Trong các quy luật xã hội thì quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ của lực lượng sản xuất” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì đây là quy luật
cơ bản, xuyên suốt, chi phối quá trình phát triển của xã hội loài người.
Ở Việt Nam, trước thời kỳ đổi mới quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã
được xác lập một cách nôn nóng, chúng ta đã xóa bỏ các loại quan hệ sản xuất
khác; trong khi trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp, quan hệ sản xuất mới
đi quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất, kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất, đã dẫn đến cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội.
Trong những năm đổi mới, chúng ta đã có sự nhận thức lại, vận dụng
đúng đắn, sáng tạo quy luật: “quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất”, điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất, bằng cách phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất,
trong đó có quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, từ đó tạo ra bước ngoặt căn bản
của kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn
yếu kém, bất cập, quan hệ sản xuất còn có mặt chưa phù hợp, hạn chế trong việc
giải phóng lực lượng sản xuất. Do đó, cần tiếp tục, điều chỉnh quan hệ sản xuất
cho phù hợp với lực lượng sản xuất để giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy
sản xuất phát triển.
Hiện nay, có nhiều nhân tố tác động đến quan hệ sản xuất xã hội chủ


nghĩa ở nước ta, cùng với xu thế toàn cầu hóa, hợp tác hóa, khu vực hóa đang
diễn ra mạnh mẽ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu điều chỉnh quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa để thúc đẩy sản xuất phát triển làm cho nước ta hòa nhập với xu
thế của thời đại là hết sức cần thiết.
Trong thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, còn tồn tại nhiều loại
quan hệ sản xuất khác nhau như: quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa, quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa… trong đó, quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta luôn được xác định đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với quá trình đổi mới đất nước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa cũng không ngừng được đổi mới, hoàn thiện. Đảng khẳng
định xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường
xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm thúc đẩy sản
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 1


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

xuất phát triển.
Việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ ở
nước ta rất cần thiết song cũng rất khó khăn, phức tạp, vì đây là con đường đi
chưa có tiền lệ, vừa phải xây dựng, vừa phải tìm tòi thử nghiệm. Do đó, qua mỗi
thời kỳ, mỗi giai đoạn, phải điều chỉnh quan hệ sản xuất để thúc đẩy sản xuất
phát triển và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn thực hiện được điều
này cần phải nghiên cứu sự 2 biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ
khi được hình thành đến nay, nhất là thời kỳ đổi mới.
Qua học tập, nghiên cứu, em xin trình bày tiểu luận với bố cục nội dung

như sau:
1. Những cơ sở lý luận của Chủ Nghĩa Mác – Lê Nin về quan hệ sản xuất
và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
1.1. Hình thái kinh tế - xã hội
1.2. Quan hệ sản xuất
1.3. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
2. Vai trò của quan hệ sản xuất chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới ở
Việt Nam
2.1. Đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất
2.2. Đối với việc củng cố, hoàn thiện kiến trúc thượng tầng và định hướng
xã hội chủ nghĩa
3. Các nhân tố tác động đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở việt nam trong thời kỳ đổi mới
3.1. Lực lượng sản xuất
3.2. Kiến trúc thượng tầng
3.3. Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
3.4. Các quan hệ sản xuất khác
4. Thực trạng sự biến đổi về nhận thức của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
4.1. Thể hiện ở kinh tế nhà nước
4.2. Thể hiện ở kinh tế tập thể
4.3. Đánh giá chung
4.4. Những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
5. Phương hướng, giải pháp chủ yếu để phát huy những nhận thức tích
cực, hạn chế những nhận thức tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 2



Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

việt nam hiện nay
5.1. Phương hướng
5.2. Giải pháp
6. Vận dụng sáng tạo đường lối chỉ đạo của Đảng nhằm phát huy các tiềm
năng, thế mạnh của địa phương để phục vụ phát triển kinh tế tại tỉnh Lào Cai
NỘI DUNG
1. Những cơ sở lý luận của Chủ Nghĩa Mác – Lê Nin về quan hệ sản
xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
1.1. Hình thái kinh tế - xã hội
Là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng
giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội
đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến
trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên quan hệ sản xuất ấy. Với từng
giai đoạn phát triển lịch sử nhất định thì ở những giai đoạn đó sẽ tồn tại các mặt
đối lập, các quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, lực lượng lao động sinh hoạt
khác nhau với phong tục tập quán của các nước trên thế giới cũng khác nhau.
Trình độ phát triển khác nhau, mỗi nước có một nền sản xuất, nền kinh tế khác
nhau. Nhưng cuối cùng thì đó sẽ là một kiến trúc thượng tầng được hình thành
trong hình thái kinh tế -xã hội đó nó cũng có những kết cấu và chức năng cùng
các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế -xã hội.
Xã hội không phải là tổng hợp của những hiện tượng sự kiện rời rạc,
những cá nhân riêng lẻ mà xã hội là một chính thể toàn vẹn có cơ cấu phức tạp,
trong đó có những mặtcơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt đó có vai trò nhất định và tác động đến các mặt
khác tạo nên sự vận động của xã hội. Chính tính toàn vẹn đó được phản ánh

bằng tổng thể các mặt của hình thái kinh tế -xã hội.
Tổng thể hình thái kinh tế xã hội bao gồm nhiều mặt, mỗi mặt lại có
những thế mạnh riêng lẻ và phải dựa vào những thế mạnh đó để nghiên cứu, tìm
tòi và phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
1.2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ
mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Đây là quan
hệ kinh tế cơ bản, nó đặc trưng cho một chế độ xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm làm
ra.
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 3


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

Kết cấu của quan hệ sản xuất: quan hệ sản xuất gồm có ba mặt cơ bản như
sau: quan hệ giữa người với người trong sở hữu tư liệu sản xuất, trong tổ chức,
quản lý sản xuất, trong phân phối sản phẩm lao động làm ra. Trong ba mặt của
quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan
hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất quyết định quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân
phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác.
Các quan hệ sản xuất trong một hình thái kinh tế - xã hội: Một xã hội cụ
thể thường bao gồm có ba loại quan hệ sản xuất cơ bản đó là; quan hệ sản xuất
thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống

của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai
trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung 9
của đời sống kinh tế - xã hội và tạo ra cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể, để
phân biệt xã hội này với xã hội khác. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan
hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định và có sự tác động trở lại quan
hệ sản xuất đóng vai trò chủ đạo.
1.3. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
1.3.1. Chủ Nghĩa Mác – Lê Nin
Đặc trưng của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa về mặt sở hữu, theo chủ
nghĩa C.Mác là: thủ tiêu chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất thể hiện bản chất ưu việt, tiến bộ của chủ nghĩa xã hội, tạo ra cơ sở kinh tế
để xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, tiến bộ. Đây là một quá trình khó
khăn, lâu dài, phức tạp, không thể ngay lập tức có được.
Về tổ chức, quản lý của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập
trên cơ sở tính tự nguyện, tự giác khác với tổ chức quản lý của chủ nghĩa tư bản
là bóc lột giá trị thặng dư. Quan hệ trong phân phối của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa, theo chủ nghĩa Mác-Lênin nguyên tắc phân phối theo lao động là
nguyên tắc phân phối cơ bản nhất. Đó là nguyên tắc lao động ngang nhau thì
được hưởng ngang nhau, là nguyên tắc, theo C.Mác, thể hiện sự công bằng trong
chủ nghĩa xã hội.
1.3.2. Quan niệm của một số Đảng Cộng sản
Các Đảng Cộng sản trên thế giới có sự nhìn nhận và vận dụng học thuyết
của chủ nghĩa Mác - Lênin một cách khác nhau về quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa. Liên Xô và các nước Đông Âu trước kia cho rằng đó là cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, còn Nam Tư cho rằng đó là chế độ tự quản, còn Trung quốc lại
cho rằng cả công hữu và tư hữu đều quan trọng.
1.3.3 Quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một loại hình quan hệ sản
xuất dựa trên cơ sở: công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, quan hệ tổ chức quản
Học viên: Ngô Hữu Quý

Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 4


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

lý đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với sự đa dạng về
hình thức phân phối; Phân phối theo lao động, theo vốn đóng góp và theo phúc
lợi xã hội, trong đó phân phối theo lao động là hình thức cơ bản nhất.
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta được thể hiện tập trung ở hai
thành phần kinh tế là: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
Đảng khẳng định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể
không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.
2. Vai trò của quan hệ sản xuất chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới
ở Việt Nam
2.1. Đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất
Thứ nhất, quan hệ sản xuất thúc đẩy mạnh mẽ lực lượng sản xuất phát
triển khi nó phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là
một yêu cầu khách quan đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất; lực lượng
sản xuất chỉ có thể phát triển được khi có quan hệ sản xuất phù hợp, nếu quan hệ
sản xuất không phù hợp thì lực lượng sản xuất bị kìm hãm, nền sản xuất sẽ trì
trệ.
Thứ hai, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó không
phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất.
Theo quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam thì: không chỉ quan hệ sản
xuất lỗi thời, lạc hậu mới kìm hãm tác động tiêu cực đến lực lượng sản xuất mà

ngay cả quan hệ sản xuất vượt quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất
cũng kìm hãm tác động tiêu cực đến lực lượng sản xuất.
2.2. Đối với việc củng cố, hoàn thiện kiến trúc thượng tầng và định
hướng xã hội chủ nghĩa
* Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa có vai trò quan trọng, củng cố hoàn
thiện kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam
Cơ sở kinh tế trong thời kỳ quá độ được Đảng, Nhà nước xác định trong
thời kỳ đổi mới đó là: phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta có nhiều loại hình quan
hệ sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, trong đó Đảng xác định quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa phải dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Đây là
cơ sở để củng cố và hoàn thiện kiến trúc thượng tầng ở nước ta.
* Vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đối với quá trình phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định vai trò
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 5


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

chủ đạo của kinh tế nhà nước, đồng thời coi việc bảo đảm và phát huy vai trò
chủ đạo của kinh tế Nhà nước là một trong những nội dung cơ bản để giữ vững
định hướng chủ nghĩa xã hội trong nền kinh tế thị trường của nước ta
3. Các nhân tố tác động đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa ở việt nam trong thời kỳ đổi mới

3.1. Lực lượng sản xuất
Sự biến đổi của quan hệ sản xuất do nhiều yếu tố tác động trước hết là lực
lượng sản xuất.
Khuynh hướng của sản xuất vật chất là không ngừng vận động, biến đổi,
phát triển. Sự biến đổi và phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi
và phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản
xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất phù hợp với nó.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất cùng
vận động, phát triển theo cho phù hợp. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất đối với
trình độ của lực lượng sản xuất là một tất yếu khách quan nó do trình độ của lực
lượng sản xuất quy định.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta Đảng ta cũng đã ý
thức được sự thiếu hụt của chúng ta khi xây dựng chủ nghĩa xã hội đó là lực
lượng sản xuất hiện đại. Từ đó, Đảng có nhiều chủ trương chính sách nhằm thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển như đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, khoa học công nghệ cùng với giáo dục đào tạo là quốc sách hàng
đầu… Với quan điểm “đi tắt đón đầu” chúng ta đã ứng dụng các thành tựu mới
của cách mạng khoa học công nghệ vào sản xuất như: công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới…Chính điều này, làm cho lực lượng sản
xuất ở nước ta được phát triển mạnh mẽ, trình độ của lực lượng sản xuất được
nâng lên không ngừng.Theo quy luật của sản xuất vật chất, thì lực lượng sản
xuất quyết định sự biến đổi của quan hệ sản xuất, do vậy, khi mà lực lượng sản
xuất đã phát triển mạnh mẽ thì đòi hỏi quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng
phải được điều chỉnh theo để bảo đảm sự phù phợp với trình độ mới của lực
lượng sản xuất ở Việt nam hiện nay
3.2. Kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đến sự biến đổi của quan hệ
sản xuất, mà trực tiếp là sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Đặc
biệt trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa chịu sự tác động to lớn đối với vai trò định hướng của

Đảng và quá trình lãnh đạo của Nhà nước.
3.3. Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
Đối với nước ta toàn cầu hóa tác động tới quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm. Về mặt sở
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 6


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

hữu tư liệu sản xuất quá trình toàn cầu hóa đã thu hút được nguồn vốn không
nhỏ vào nước ta bao gồm cả vốn ODA và FDI, hàng tỷ đôla vốn đầu tư của nước
ngoài vào nước ta đã hình thành nên sự thay đổi về sở hữu làm cho hình thức sở
hữu hỗn hợp ngày càng tăng. Vốn đầu tư nước ngoài có thể liên kết với các
doanh nghiệp nhà nước trên một số lĩnh vực như: dầu khí, điện lực, ngân hàng,
sản xuất điện tử, dệt may… từ đó hình thành nên thành phần kinh tế tư bản nhà
nước. Khi tham gia vào toàn cầu hóa cạnh tranh ngày càng gay gắt với sự làm ăn
kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà 12 nước buộc chúng ta phải cổ phần
hóa, thoái vốn để tái cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, từ đó làm cho nguồn vốn
sở hữu của nhà nước được thu hẹp lại và việc sử dụng có hiệu quả hơn.
Về mặt tổ chức quản lý khi tham gia vào toàn cầu hóa với sự liên kết, liên
doanh với doanh nghiệp nước ngoài ta có thể học tập được kinh nghiệm tổ chức,
quản lý của các nước tiên tiến. Mặt khác, do phải cạnh tranh với các công ty
xuyên quốc gia có tiềm lực lớn, chúng ta phải thay đổi về quản lý, hình thành
các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước để tạo ra tiềm lực đủ sức cho cạnh
tranh. Do vậy, mô hình tổ chức, quản lý của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
đã được thay đổi cho phù hợp với thực tiễn.

Về mặt phân phối sản phẩm cũng bị ảnh hưởng, bởi vì khi vốn đầu tư
nước ngoài vào nước ta để cạnh tranh, thu hút người lao động, nhân tài họ
thường trả lương cao hơn so với doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, buộc các doanh
nghiệp nhà nước phải tăng lương cho người lao động và làm cho đời sống của
người lao động được nâng lên so với trước đậy. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp
nước ngoài luôn tính đến hiệu quả kinh tế vì vậy, họ trả công theo lao động rất
đúng và thực chất, qua đó các doanh nghiệp nhà nước của chúng ta cũng học tập
về phân phối theo lao động tốt hơn nhằm kích thích tính tích cực, sáng tạo của
người lao động.
3.4. Các quan hệ sản xuất khác
Ở nước ta, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều loại
quan hệ sản xuất khác nhau, nó do trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta quy
định. Do bản chất khác nhau của các quan hệ sản xuất, chúng vừa thống nhất,
vừa mâu thuẫn, xung đột với nhau. Điều đó tác động đến cả hình thái kinh tế xã hội trong thời kỳ quá độ.
Các quan hệ sản xuất ở nước ta vừa thống nhất, vừa đối lập, tác động qua
lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển tạo ra một cơ sở hạ tầng của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, dưới sự dẫn dắt, hỗ trợ của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa.
4. Thực trạng sự biến đổi về nhận thức của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
4.1. Thể hiện ở kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước theo nghĩa rộng bao gồm hai lĩnh vực chính: các doanh
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 7


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.


nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp như: tài nguyên quốc
gia, các quỹ dự trữ quốc gia, hệ thống ngân hàng nhà nước, bảo hiểm nhà
nước… trong đó, các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò là nòng cốt.
Theo nghĩa hẹp kinh tế nhà nước đồng nghĩa với hệ thống các doanh
nghiệp nhà nước.
Kinh tế nhà nước có sự vận động, biến đổi qua nhiều giai đoạn khác nhau:
* Giai đoạn 1986 – 2001
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã có sự đổi mới mang tính
bước ngoặt, được thể hiện tập trung trong Văn kiện Đại hội VI,VII,VIII và các
Nghị quyết, văn bản pháp luật khác của Đảng và Nhà nước. Sự đổi mới được thể
hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối
sản phẩm. Cụ thể là:
Thứ nhất, về quan hệ sở hữu
Nền kinh tế với sự đa hóa về sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đã được
hình thành và phát triển. Từ một nền kinh tế chỉ có hai hình thức sở hữu là toàn
dân và tập thể với hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể,
Đến Đại hội IX chúng ta có 6 thành phần kinh tế là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài, kinh tế tư bản nhà nước.
Chúng ta đã tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước để chuyển
đổi sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt năm 1992 chúng ta đã thí
điểm cổ phần hóa đây là bước ngoặt quan trọng trong nỗ lực tìm ra hướng đi
mới nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư và cải thiện kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước.
Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước diễn ra mạnh mẽ theo số liệu
thống kê trong giai đoạn “từ 1992-2000 chúng ta đã cổ phần hóa được 588
doanh nghiệp nhà nước, nhưng hầu như chỉ tập trung vào giai đoạn 1996-2000
(khoảng 583 doanh nghiệp). Đa số các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa đều
làm ăn tốt hơn trước”.

Thứ hai, về quan hệ tổ chức, quản lý
Chúng ta đã đẩy mạnh việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước để
giảm dần số lượng các doanh nghiệp nhà nước như: giao, bán, khoán, cho thuê
và cho phá sản các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả.
Qua đổi mới sắp xếp lại, các doanh nghiệp nhà nước thời kỳ này giảm đi
nhanh chóng theo số liệu thống kê: Từ khoảng 12000 doanh nghiệp năm 1986
xuống còn 5 280 doanh nghiệp năm 2000. Mặc dù số lượng giảm nhưng đóng
góp vào GNP vẫn ổn định ở các mức tương ứng là 30,5% và 31,01% năm giai
đoạn 1998-2000.
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 8


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

Việc tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước cũng làm cho số
lượng giảm đi nhưng quy mô doanh nghiệp lại tăng lên “số lượng doanh nghiệp
có vốn dười 1 tỷ đồng đã giảm gần gần 50% năm 1994, xuống còn 33% năm
1996, và 26% năm 1999. Số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng tăng lên tương
ứng là 10%, 15% và 20% năm 1999. Đồng thời, vốn bình quân cho một doanh
nghiệp cũng tăng từ 3,3 tỷ đồng lên hơn 11 tỷ đồng năm 1996 và hơn 18 tỷ đồng
năm 1999”.
Trong giai đoạn này chúng ta đã thành lập được 17 tổng công ty 91 và 76
tông công ty 90 hoạt động trong các ngành quan trong của đất nước như: sắt
thép, xi măng, dầu khí. Lương thực…Qua đó, các Tổng công ty đã huy động
được nguồn vốn đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất và tăng cường cạnh tranh,
khai thác thị trường trong và ngoài nước.

Thứ ba, về quan hệ phân phối
Trong giai đoạn này, cơ chế phân phối bình quân, phân phối theo tem
phiếu và hiện vật dần dần được xóa bỏ. Chúng ta đã chuyển dần sang trả lương
bằng tiền mặt, gắn việc trả lương theo năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế
và theo cơ chế thị trường.
Bên cạnh những sự biến đổi tích cực, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
trong kinh tế nhà nước còn có những biến đổi tiêu cực như:
Một là, hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước thấp, theo số liệu thống kê:
“tính đến năm 2000 số doanh nghiệp có lãi thực sự chiếm 40%, số doanh nghiệp
bị lỗ chiếm 20%, còn lại là tình trạng không ổn định, khi lỗ khi lãi và lãi cũng
không lớn”
Hai là, còn ảnh hưởng nặng nề của tư duy bao cấp, theo tác giả Ngô
Quang Minh: “nhà nước phải thường xuyên hỗ trợ cho doanh nghiệp nhà nước
giai đoạn 1997-1999, ngân sách nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho doanh nghiệp
gần 8000 tỷ đồng, trong đó 6482 tỷ đồng cấp bổ sung cho doanh nghiệp, 1464 tỷ
đồng là bù lỗ, hỗ trợ các doanh nghiệp. Ngoài ra nhà nước còn miễn giảm thuế
2288 tỷ đồng, xóa nợ 1088 tỷ đồng, khoanh nợ 3392 tỷ đồng, giãn nợ 540 tỷ
đồng, cho vay tín dụng ưu đãi 8685 tỷ đồng”.
Tổng kết quá trình đổi mới giai đoạn này, Đại hội IX khẳng định: “Quan
hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp hạn chế việc giải phóng và phát triển lực lượng
sản xuất. Chưa có chuyển biến đáng kể trong việc đổi mới và phát triển doanh
nghiệp nhà nước”
* Giai đoạn 2001-2017
Đến Đại hội IX chúng ta đã xác định được mô hình kinh tế tổng quát
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là “nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Kinh tế nhà nước tiếp tục được đổi mới để làm tốt vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế.
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Trang - 9


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

Một là, về quan hệ sở hữu
Qua quá trình đổi mới sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, sở hữu của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong kinh tế nhà nước đã được có sự thay
đổi. Các ngành, lĩnh vực của doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước nắm giữ
100% và cổ phần chi phối được thu hẹp lại. Theo số liệu thống kê:
Các ngành, lĩnh vực nhà nước nắm 100% vốn đã giảm đi rõ rệt, từ 42
ngành năm 2002, xuống 30 ngành năm 2004 và còn 19 ngành năm 2007, và 20
ngành năm 2011. Các ngành nhà nước nắm trên 50% vốn đã giảm từ 48 ngành
năm 2002, xuống 26 ngành năm 2004, 27 ngành năm 2007 và 27 ngành năm
2011.
Qua đó đã tạo điều kiện, địa bàn cho các thành phần kinh tế khác phát
triển.
Cổ phần hóa các doanh nghiệp diễn ra mạnh mẽ.
Đánh giá công tác cổ phần hóa, tại Hội nghị triển khai công tác sắp xếp,
đổi mới doanh nghiệp giai đoạn 2016-2020 ngày 6/12/2016 Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc kết luận: “Phần lớn các doanh nghiệp sau cổ phần hóa làm ăn có lãi.
Tổng vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp Nhà nước tăng từ 810.000 tỷ đồng
lên 1.234.000 tỷ đồng. Thực tế công tác cổ phần hóa năm 2015 cho thấy, 350
doanh nghiệp cổ phần hóa đều làm ăn hiệu quả, nộp ngân sách, lợi nhuận trước
thuế tăng 49%, nộp ngân sách tăng 27%, vốn điều lệ đều tăng 72%, thu nhập
người lao động tăng tới 33%... Đây là ví dụ cho thấy quá trình cổ phần hóa, sắp
xếp lại doanh nghiệp Nhà nước là rất ích lợi”. Thủ tướng nhấn mạnh “phải coi
công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước là nhiệm vụ chính trị quan
trọng của năm 2017”.

Hai là, về quan hệ tổ chức, quản lý
Trong thời kỳ này, quan hệ tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước đã
được thực hiện theo hướng tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước sao
cho giảm về số lượng, tăng về chất lượng.
Qua đổi mới sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước giảm đi nhanh chóng
“Năm 2001, cả nước có khoảng gần 6.000 doanh nghiệp nhà nước, thì đến năm
2011, có 1.369 doanh nghiệp nhà nước, và tính đến hết tháng 10-2016, còn 718
doanh nghiệp nhà nước. Về cơ bản, doanh nghiệp nhà nước đã tập trung vào
những ngành, lĩnh vực then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết
yếu”
Như vậy, số doanh nghiệp nhà nước đã giảm đi hơn 8 lần chỉ còn lại các
doanh nghiệp nhà nước lớn đóng vai trò nòng cốt bảo đảm cho điều tiết vĩ mô
nền kinh tế.
Trong giai đoạn này, chúng ta đã tổ chức sắp xếp lại các Tổng công ty 90
và 91 để thành lập 12 Tập đoàn kinh tế. như: Tập đoàn Điện lực, Tập đoàn Xăng
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 10


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

dầu, Tập đoàn Hóa chất, Tập đoàn Than và khoáng sản, Tập đoàn Bưu chính
viễn thông, Tập đoàn Cao su, Tập đoàn Viễn thông quân đội Viettel, Tập đoàn
Công nghiệp xây dựng, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy, Tập đoàn Nhà và đô thị,
Tập đoàn Bảo Việt. Các tập đoàn này đóng vai trò nòng cốt của doanh nghiệp
nhà nước và là cơ sở để nhà nước điều tiết nền kinh tế, tăng cướng sức cạnh
tranh với doanh nghiệp bên ngoài.

Ba là, về quan hệ phân phối
Trong giai đoạn này chúng ta đã xóa bỏ cơ chế trả lương theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, thực hiện trả lương, thưởng và các khoản khác theo cơ chế
thị trường. Việc trả lương theo cơ chế thị trường đã kích thích được lợi ích của
người lao động, từ đó giúp cho sản xuất phát triển.
Bên cạnh những biến đổi tích cực quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong
kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước còn có những biến đổi tiêu cực được
thể hiện:
Thứ nhất, sở hữu nhà nước, doanh nghiệp nhà nước tuy có giảm nhưng
vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu GDP của cả nước theo số liệu thống kê:
Kinh tế nhà nước tuy có giảm nhưng vẫn chiếm 28,69% GDP của cả
nước, tỷ lệ này cần giảm xuống từ 15% - 20% để cho các thành phần kinh tế
khác phát triển
Thứ hai, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, trong đó có các tập đoàn kinh
tế, tổng công ty nhà nước thua lỗ nặng lên đến hàng nghìn tỷ đồng gây bức xúc
trong dư luận như: Tập đoàn Vinaship, tổng công ty hàng hải Vinalie, dự án mở
rộng khu gang thép Thái Nguyên, nhà máy đạm Ninh Bình, xơ tợi Đình Vũ...
khiến Nhà nước phải giải cứu.
4.2. Thể hiện ở kinh tế tập thể
* Giai đoạn 1986- 2001
Quá trình đổi mới về kinh tế tập thể trong giai đoạn này được thể hiện
thông qua văn kiện Đại hội VI, VII, VIII và các văn kiện khác.
Trong giai đoạn này, kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã có sự
biến đổi có tính bước ngoặt thể hiện là số lượng các hợp tác xã giảm đi nhanh
chóng, các hợp tác xã bị giải thể thay vào đó là các hộ xã viên chuyển sang kinh
doanh cá thể. Theo số liệu thống kê của liên minh các hợp tác xã Việt Nam:
“Năm 1986 cả nước có khoảng 74.490 hợp tác xã thì đến năm 1996 chỉ còn
18.607 hợp tác xã và đến năm 2000 chỉ còn 15.144 hợp tác xã”.
Như vậy số lượng các hợp tác xã đã giảm đi 5 lần.
* Giai đoạn 2001-2017

Quan điểm đổi mới giai đoạn này được thể hiện thông qua văn kiện Đại
hội IX, X, XI, XII và các văn kiện khác của Đảng và nhà nước.
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 11


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

Kết quả hoạt động của kinh tế tập thể mà nòng cốt là kinh tế hợp tác trong
giai đoạn 2001 - nay (2017) như sau:
Doanh thu của khu vực kinh tế tập thể ngày càng tăng theo số liệu thống
kê: “Năm 2010 doanh thu là 86.000 tỷ đồng, năm 2011 là 11.679 tỷ đồng, năm
2012 là 129.821tỷ đồng, năm 2013 là 144.296 tỷ đồng, năm 2014 là 158.964 tỷ
đồng”.
Qua việc thực hiện chuyển đổi mô hình hợp tác xã theo luật hợp tác xã
năm 1996 và sửa đổi năm 2003 và luật hợp tác xã kiểu mới năm 2012 số lượng
các hợp tác xã ngày càng tăng. Theo số liệu thống kê của liên minh hợp tác xã
Việt Nam: “tính đến ngày 31-12-2011 cả nước có 19500 hợp tác xã, tăng 4650
hợp tác xã so với năm 2001, tốc độ tăng giai đoạn 2007-2011 là 31%, cao hơn
giai đoạn 2002-2006 là 13%, thu hút khoảng 13 triệu xã viên và người lao động
các cơ sở sản xuất nhỏ”
Tuy nhiên, mặc dù kinh tế tập thể có sự tăng trưởng qua các năm theo
doanh thu, nhưng tỷ trọng của kinh tế tập thể còn chiếm tỷ trọng nhỏ bé trong
nền kinh tế quốc dân, chỉ từ 3,99% - 4,04% (từ năm 2010 - 2014), trong khi đó
kinh tế cá thể mặc dù có giảm đi nhưng vẫn chiếm số lượng lớn trong nền kinh
tế từ: 32,07% - 31,50%. Điều này cho chúng ta thấy; kinh tế tập thể còn chưa
thu hút được nhiều hộ kinh doanh cá thể vào làm ăn tập thể.

4.3. Đánh giá chung
Từ khi đổi mới năm 1986 - nay, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã có
sự biến đổi quan trọng góp phần hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Các ngành, lĩnh vực thuộc diện 100% vốn nhà nước
hoặc vốn nhà nước chiếm tỷ trọng khống chế đã được thu hẹp lại tập trung hơn
vào các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Quá trình cổ phần
hóa diễn ra mạnh mẽ nhằm thu hút các nguồn lực cho doanh nghiệp nhà nước,
qua đổi mới sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước số lượng giảm đi nhanh chóng
từ 12000 doanh nghiệp đến năm 2016 chỉ còn 718 doanh nghiệp là những doanh
nghiệp lớn hoạt động trên các ngành, nghề quan trọng đóng vai trò là công cụ để
nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế…
Bên cạnh những biến đổi tích cực còn có biến đổi tiêu cực như: tỷ trọng
sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước còn lớn trong nền kinh tế, hiệu quả đầu tư
thấp, nhiều doanh nghiệp thua lỗ, mô hình quản trị tập đoàn còn nhiều bất cập.
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa biểu hiện ở kinh tế tập thể, kinh tế hợp
tác cũng có những biến đổi tích cực được thể hiện: chúng ta đã chuyển đổi mô
hình hợp tác xã từ kế hoạch hóa, tập trung quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị
trường dựa trên liên kết tự nguyện, bình đẳng, dân chủ thể hiện đúng đắn bản
chất của kinh tế tập thể, đã ban hành luật hợp tác xã kiểu mới nhằm phát triển
kinh tế tập thể, gần đây kinh tế tập thể có sự khởi sắc trở lại..
Tuy nhiên, kinh tế tập thể ở nước ta còn có biến đổi tiêu cực; số lượng
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 12


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.


giảm xuống, chiếm tỷ lệ rất nhỏ bé trong nền kinh tế, chưa thu hút đông đảo các
hộ kinh doanh cá thể vào làm ăn tập thể.
Để phát huy biến đổi tích cực, hạn chế biến đổi tiêu cực, chúng ta phải có
các giải pháp kịp thời, để quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ngày càng làm tốt
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
4.4. Những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất: Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai: Vấn đề hợp tác xã kiểu mới trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba: Hoàn thiện về cơ chế, chính sách, pháp luật của quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
5. Phương hướng, giải pháp chủ yếu để phát huy những nhận thức
tích cực, hạn chế những nhận thức tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở việt nam hiện nay
5.1. Phương hướng
5.1.1. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà
nước trong quá trình phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
đổi mới
Một là, không ngừng tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và tính hiệu
lực của Nhà nước trong việc hoàn thiện hệ thống lý luận về quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý Nhà nước
trong việc phát huy những biến đổi tích cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay bằng biện pháp hoàn thiện cơ chế hoạt động giữa các
tổ chức trong hệ thống chính trị.
Ba là, nâng cao tính hiệu lực của chức năng kiểm tra, giám sát của Đảng
và năng lực điều hành, quản lý của Nhà nước trong việc phát huy những biến đổi
tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa

ở nước ta hiện nay.
5.1.2. Phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cơ sở vận dụng
sáng tạo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất
Một là, phát triển sở hữu nhà nước sao cho giảm về số lượng, tăng về chất
lượng, các cơ quan đại diện chủ sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước cần quy về
một mối để dễ quản lý thích ứng với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 13


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

Hai là, xây dựng cơ chế quản lý mới theo kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế các loại hình doanh nghiệp, các thành phần
kinh tế vừa hợp tác, vừa cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật.
Ba là, thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân phối cho phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển hiện nay.
Bốn là, phải tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt, quan trọng
của nền kinh tế nhằm dẫn dắt tạo điều kiện cho các quan hệ khác phát triển và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Năm là, trong kinh tế tập thể cần phải triệt để tuân thủ nguyên tắc: tự
nguyện, bình đẳng, dân chủ, công khai, minh bạch trong kết nạp các xã viên vào
hợp tác xã.
5.2. Giải pháp
5.2.1. Về sở hữu

* Đối với sở hữu của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế
nhà nước
Một là, Nhà nước cần xác định rõ chủ sở hữu trong doanh nghiệp nhà
nước.
Hai là, Nhà nước cần giảm sở hữu nhà nước, doanh nghiệp nhà nước cần
tập trung vào những ngành, lĩnh vực thiết yếu, quan trọng.
Ba là, Nhà nước đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhằm xã
hội hóa sở hữu nhà nước.
Bốn là, tăng cường liên kết, liên doanh giữa doanh nghiệp nhà nước với
các thành phần kinh tế khác để hình thành sở hữu hỗn hợp.
* Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế tập thể
Tôn trọng nguyên tắc bình đẳng, đồng sở hữu trong hợp tác xã.
Phân biệt rõ hai loại tài sản trong hợp tác xã để tránh chồng chéo là: tài
sản được chia và tài sản không được chia.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục để nhân dân hiểu rõ về quyền
lợi, lợi ích khi tham gia hợp tác xã.
5.2.2. Về tổ chức, quản lý:
Để thúc đẩy quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phát triển cần thực hiện
đồng bộ các giải pháp sau:
* Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế nhà nước
Thứ nhất, Nhà nước cần xóa bỏ bao cấp trong doanh nghiệp nhà nước, các
doanh nghiệp nhà nước chuyển hoàn toàn sang cơ chế thị trường bình đẳng với
các thành phần kinh tế khác
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 14


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

Thứ hai, Nhà nướccần phân định rõ hai loại hình doanh nghiệp nhà nước
đó là; doanh nghiệp nhà nước hoạt động vì mục tiêu chính trị - xã hội và doanh
nghiệp nhà nước vì mục tiêu lợi nhuận.
Thứ ba, Nhà nước nên phân định rõ chức năng chủ sở hữu và chức năng
quản lý kinh doanh của nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ tư, Nhà nước cần xây dựng đội ngũ quản trị giỏi trong các doanh
nghiệp nhà nước.
* Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế tập thể
Xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác xã đa dạng với nhiều hình thức từ
thấp đến cao, nòng cốt là các Hợp tác xã kiểu mới.
Nhà nước tạo điều kiện về mọi mặt và quản lý Hợp tác xã bằng pháp lý,
cơ chế, chính sách; tài chính, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, ứng dụng khoa học
công nghệ... nhằm giúp cho kinh tế hợp tác.
Tăng cường vai trò, trách nhiệm của tổ chức Liên minh Hợp tác xã, Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, hội, hiệp hội trong phát triển kinh tế Hợp
tác xã
5.2.3. Về phân phối sản phẩm
* Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế nhà nước
Một là, Doanh nghiệp nhà nước phải triệt để tuân thủ nguyên tắc phân
phối theo lao động, xóa bỏ bao cấp trong doanh nghiệp nhà nước.
Hai là, Nhà nước nên bỏ chế độ kiêm nhiệm, phân phối theo công chức,
viên chức trong doanh nghiệp nhà nước.
Ba là, Doanh nghiệp nhà nước ngoài phân phối theo lao động phải đa
dạng hóa các hình thức phân phối
* Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế tập thể
Phân phối thu nhập trong hợp tác xã phải theo mức độ sử dụng sản phẩm,
dịch vụ của các thành viên hợp tác xã.
Cần phân bổ phân phối theo vốn góp để tạo công bằng trong phân phối

thu nhập và khuyến khích các thành viên góp vốn vào hợp tác xã.
5.2.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo môi trường pháp lý phù hợp để
phát huy tính năng động của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải
quyết hài hòa quan hệ giữa nhà nước với thị trường.
Một là, tạo lập môi trường bình đẳng giữa kinh tế Nhà nước với các thành
phần kinh tế khác
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 15


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

Hai là, tiếp tục nâng cao nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Ba là, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thể chế về sở hữu.
Bốn là, hoàn thiện thể chế phân phối đảm bảo gắn kết giữa tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm là, hoàn thiện thể chế đảm bảo nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng,
hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
6. Vận dụng sáng tạo đường lối chỉ đạo của Đảng nhằm phát huy các
tiềm năng, thế mạnh của địa phương để phục vụ phát triển kinh tế tại tỉnh
Lào Cai
Lào Cai là tỉnh miền núi, biên giới, nằm ở vùng Tây Bắc của Việt Nam, có

182,086km đường biên giới giáp với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc); diện tích tự
nhiên 638.389ha; 8 huyện và 1 thành phố, 164 xã, phường, thị trấn; dân số trên
730 nghìn người, gồm 25 dân tộc anh em, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số
chiếm trên 66,2%. Với vị trí địa lý thuận lợi, khí hậu thuận lợi cho phát triển
nông nghiệp đặc hữu, hệ thống giao thông liên vùng, giàu tài nguyên thiên
nhiên, bản sắc văn hóa độc đáo...; tất cả đã tạo nên những tiềm năng, lợi thế để
Lào Cai thu hút đầu tư phát triển toàn diện kinh tế - xã hội.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhất là trong giai đoạn từ khi tái
lập tỉnh đến nay, được sự quan tâm, động viên, định hướng của các cơ quan
Trung ương, Tỉnh ủy Lào Cai luôn kiên trì lãnh đạo Đảng bộ và nhân dân trong
tỉnh tập trung cao độ đẩy mạnh thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; coi trọng thu hút đầu tư, xác định công nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ
là khâu đột phá thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; gắn phát
triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới, bảo vệ môi trường và bảo đảm an sinh
xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; phấn đấu xây dựng Lào Cai trở thành trung
tâm công nghiệp luyện kim mầu và hóa chất, trọng điểm về phát triển kinh tế đối
ngoại, du lịch, dịch vụ cửa khẩu. Với quyết tâm của Đảng bộ, chính quyền, nhân
dân, Lào Cai không ngừng vươn lên, đạt được nhiều thành tựu, trở thành điểm
sáng trong phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc.
Lào Cai có đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, phân tầng độ cao lớn, đan
xen một số tiểu vùng á nhiệt đới, ôn đới, đất đai mầu mỡ, thuận lợi cho phát
triển nông, lâm nghiệp, thủy sản, đặc biệt là nhiều loại cây trồng, vật nuôi đặc
hữu có giá trị kinh tế cao, như rau, hoa cao cấp, cây ăn quả ôn đới, cây dược
liệu. Phát huy lợi thế tài nguyên đất đai, khí hậu, trong nhiều nhiệm kỳ qua, Tỉnh
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 16



Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

ủy Lào Cai đã ban hành các đề án, nghị quyết về phát triển nông, lâm nghiệp,
đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp được
chuyển dịch phù hợp, theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành trồng trọt, chăn nuôi,
tăng tỷ trọng ngành lâm nghiệp, thủy sản và dịch vụ nông nghiệp. Sản xuất nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng nhanh, năm 2019 đạt 2.400ha; giá trị sản
phẩm trên đơn vị canh tác ứng dụng công nghệ cao bình quân 229,55 triệu
đồng/ha; sản xuất theo hướng ứng dụng một phần công nghệ cao đạt 7.765ha;
bước đầu hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa như cây ăn quả ôn đới
1.897ha, chuối cấy mô 2.195ha (sản lượng khoảng 60.000 tấn), dứa 1.073ha (sản
lượng khoảng 31.000 tấn), chè 5.400ha, vùng trồng cây dược liệu với diện tích
trên 1.000ha, có 27 sản phẩm được công nhận OCOP. Sản xuất giống cây trồng
được quan tâm. Lào Cai là một trong số ít tỉnh đã chọn tạo được ba tổ hợp giống
lúa lai. Chăn nuôi từng bước phát triển theo hướng hình thành các vùng chăn
nuôi tập trung, với 9 cơ sở chăn nuôi công nghiệp, công nghệ cao và 417 trang
trại. Diện tích, sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng hằng năm, với một số giống
thủy sản có giá trị kinh tế cao (cá lăng chấm, cá chiên, cá nheo vàng...), cá nước
lạnh (cá tầm, cá hồi), góp phần tăng lợi nhuận sản xuất cho các hộ dân gấp 2 đến
2,5 lần so với phương pháp nuôi thông thường và duy trì tốc độ tăng trưởng bình
quân 21,1%/năm. Lâm nghiệp chuyển đổi từ trồng rừng gỗ nhỏ sang trồng rừng
gỗ lớn và trồng rừng đa mục đích, phát triển các loài cây lâm sản ngoài gỗ kết
hợp với bảo vệ và phát triển rừng ổn định, bền vững, phát triển vùng nguyên liệu
quế, chiết xuất tinh dầu gắn với nhà máy chế biến, tổng diện tích trồng quế
23.083,3ha. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 55,2%, cao hơn 13,55% so với trung bình cả
nước. Công nghiệp chế biến lâm sản được đầu tư theo hướng ứng dụng công
nghệ mới, hiện đại để nâng cao giá trị. Với nhiều giải pháp đồng bộ, tài nguyên
về đất đai, khí hậu trong sản xuất nông nghiệp tại Lào Cai được khai thác có
hiệu quả, giá trị sản phẩm trên 1ha đất canh tác đạt 75 triệu đồng/năm, giá trị sản

xuất nông nghiệp đạt trên 6.500 tỷ đồng, bình quân tăng 6,01%/năm. Những kết
quả trong sản xuất nông nghiệp đã bảo đảm an ninh lương thực, giảm nghèo bền
vững, đến nay đã có 49/143 xã đạt chuẩn nông thôn mới; dự kiến đến năm 2020
có 55/143 xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Phát huy tiềm năng về tài nguyên, khoáng sản, tỉnh đã tập trung thu hút
đầu tư vào sản xuất, chế biến sâu đồng, sắt, apatit, xây dựng các nhà máy thủy
điện vừa và nhỏ... Sản xuất công nghiệp Lào Cai có bước phát triển vững chắc,
quy mô lớn, tốc độ tăng trưởng cao thuộc các tỉnh trong nhóm đầu của cả nước,
là lĩnh vực quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh; từng bước khẳng định là
trung tâm luyện kim, hóa chất, phân bón của vùng và cả nước (tốc độ tăng
trưởng bình quân đạt 14%/năm), giải quyết việc làm cho trên 21 nghìn lao động
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 17


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

với mức thu nhập 5,5 triệu/người/tháng (gấp 1,7 lần so với thu nhập bình quân
chung của tỉnh). Các nhà máy chế biến sâu khoáng sản được ưu tiên đầu tư,
nhiều nhà máy đi vào hoạt động, phát huy hiệu quả như: Nhà máy tuyển đồng
Tả Phời công suất 35.000 tấn tinh quặng/năm, nhà máy luyện đồng Bản Qua
công suất 20.000 tấn đồng thỏi/năm. Nhà máy phân bón DAP số 2 công suất
330.000 tấn/năm, Nhà máy gang thép Lào Cai công suất 500.000 tấn phôi
thép/năm... Tiềm năng phát triển thủy điện được khai thác hợp lý, góp phần quan
trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, trên địa bàn tỉnh có 67 dự án thủy
điện đi vào hoạt động với tổng công suất là 1.063MW, bổ sung nguồn điện quan
trọng cho lưới quốc gia (100% xã, phường, thị trấn, thôn bản được sử dụng điện

lưới quốc gia; 97% hộ được sử dụng điện) và cung cấp nguồn nước quan trọng
cho vùng hạ du.
Vị trí địa lý thuận lợi, có cửa khẩu quốc tế Lào Cai - Hà Khẩu đóng vai trò
trung tâm trên tuyến hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh, là cầu nối, cửa ngõ không chỉ của Việt Nam mà còn cả các
nước ASEAN với thị
trường tỉnh Vân Nam và
miền Tây Nam (Trung
Quốc), hệ thống giao thông
liên vùng, liên quốc tế;
Lào Cai đã tập trung xây
dựng khu kinh tế cửa khẩu,
từng bước hoàn thiện kết
cấu hạ tầng, dịch vụ, tạo
môi trường thúc đẩy xuất
nhập khẩu hàng hóa chính
ngạch, loại hình dịch vụ
cửa khẩu phát triển phong phú, đa dạng, chất lượng, như tài chính, ngân hàng,
thủ tục hải quan, tạm nhập tái xuất, logistic. Kim ngạch xuất - nhập khẩu tăng
cao, đạt 3 tỷ USD/năm, bình quân tăng 18,4%/năm. Kim ngạch luôn duy trì xuất
siêu, trung bình chiếm từ 65 đến 70% giá trị xuất, nhập khẩu và có chuyển biến
tích cực theo hướng tăng cao tỷ trọng qua cửa khẩu quốc tế. Mặt hàng xuất khẩu
chủ yếu là nông sản; nhập khẩu chủ yếu là than cốc, hóa chất, phân bón, máy
móc thiết bị công nghiệp. Thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt trên 2.000 tỷ
đồng, chiếm 21% tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn. Hiện nay, tỉnh Lào
Cai đang xúc tiến xây dựng khu hợp tác biên giới Lào Cai (Việt Nam) với Hà
Khẩu (Vân Nam - Trung Quốc); Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 40/2016/QĐ-TTg, ngày 22-9-2016, về việc mở rộng Khu Kinh tế cửa khẩu
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai


Trang - 18


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

Lào Cai, Quyết định số 1627/QĐ-TTg, ngày 23-11-2018, về việc phê duyệt
Quy hoạch chung xây dựng Khu Kinh tế cửa khẩu Lào Cai - tỉnh Lào Cai đến
năm 2040, tầm nhìn đến năm 2050.
Những năm qua, tỉnh Lào Cai đã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
vùng cao, vùng nông thôn, vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh, đặc biệt là các công
trình giao thông trọng điểm kết nối các tỉnh trên hành lang kinh tế Côn Minh Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; hoàn thành và khai thác hiệu quả
đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai; xây dựng thành phố Lào Cai đạt đô thị loại II,
tỷ lệ đô thị hóa của tỉnh đạt 26%; hoàn thành tiêu chí nông thôn mới về giao
thông cho 75/144 xã với 2.259km đường giao thông nông thôn được đầu tư kiên
cố; 100% các xã có hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin; 100% thôn có điện
lưới quốc gia; 95% hộ dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh.
Hiện nay tỉnh đang xúc tiến xây dựng Sân bay Sa Pa, đường cao tốc Nội Bài Lào Cai giai đoạn 2, đường sắt Hà Nội - Lào Cai , đường nối cao tốc Nội Bài Lào Cai đi Sa Pa, Lai Châu, Cầu Bản Vược (Việt Nam) - Bá Sái (Trung Quốc),
Cầu Phú Thịnh, Cầu Làng Giàng… tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị
phục vụ du lịch, cửa khẩu thành phố Lào Cai, huyện Sa Pa, huyện Bát Xát, trọng
tâm là xây dựng thị xã Sa Pa trở thành khu du lịch quốc gia mang tầm cỡ quốc
tế, phát triển Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai thành trung tâm trung chuyển, xuất,
nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam, ASEAN và quốc tế, hoàn thiện các tiêu chí
thành phố Lào Cai là đô thị loại I.
Về văn hóa, Lào Cai là địa bàn cư trú của 25 cộng đồng các dân tộc thiểu
số, có nhiều di sản văn hóa, di tích khảo cổ và trên 13 nghìn hiện vật thời kỳ văn
hóa Đông Sơn, bãi đá cổ Sa Pa được xếp hạng di sản văn hóa của nhân loại; nghi
lễ kéo co của người Tày, người Giáy được UNESCO đưa vào danh sách di sản
văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Nhân dân các dân tộc tỉnh Lào Cai

còn sở hữu nền văn hóa dân gian với hơn 100 bộ sách bằng chữ Pali của dân tộc
Thái từ thế kỷ XIII, hàng nghìn bộ sách cổ bằng chữ Nôm của dân tộc Tày, Dao,
Giáy, trên 30 lễ hội dân gian truyền thống cùng hệ thống tín ngưỡng dân gian,
phong tục, tập quán, trò chơi, chữ viết, văn học, nghệ thuật, âm nhạc, ngành,
nghề thủ công, mỹ nghệ... thể hiện sự tài năng, khéo léo và óc thẩm mỹ, tinh tế
của người Lào Cai. Từ quá trình đấu tranh bảo vệ, xây dựng vùng đất biên
cương cũng để lại cho Lào Cai nhiều di tích văn hóa và lịch sử nổi tiếng như
thành cổ Nghị Lang (huyện Bảo Yên); đền Trung Đô, đền Bắc Hà (huyện Bắc
Hà); đền Bảo Hà, đền Phúc Khánh (huyện Bảo Yên); đền Thượng... Bên cạnh
đó, Lào Cai cũng nổi tiếng với các vùng sinh thái nông nghiệp, gắn với các đặc
sản của vùng miền, như rượu ngô, mận (Bắc Hà); rau ôn đới, cây dược liệu quý,
cá hồi, cá tầm (Sa Pa); rượu Shan Lùng (Bát Xát); gạo Séng Cù (Mường
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 19


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

Khương)... hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Đây là nguồn tài nguyên vô
giá của nhân dân Lào Cai nói riêng, của cả nước nói chung và là nguồn lực quan
trọng để phát triển kinh tế du lịch của địa phương.
Trong nhiều nhiệm kỳ qua, Lào Cai đã xác định mục tiêu “Xây dựng Lào
Cai trở thành một trong những trọng điểm du lịch của Việt Nam, xây dựng Sa Pa
trở thành khu du lịch quốc gia, quốc tế giàu bản sắc, hiện đại, phát triển du lịch
Sa Pa là đột phá để phát triển du lịch của tỉnh”, Tỉnh đã ban hành nhiều, nghị
quyết chuyên đề, cơ chế, chính sách, tăng cường quan hệ đối ngoại, tích cực liên
kết với các tỉnh trong vùng Tây Bắc để phát huy các tài nguyên, giá trị văn hóa

gắn kết phát triển du lịch. Khuyến khích thực hiện các dự án lớn đầu tư vào hệ
thống các khu vui chơi giải trí, khách sạn, khu nghỉ dưỡng tại Lào Cai, với
nguồn vốn thu hút đầu tư đạt trên 35.000 tỷ đồng, đến nay đã hình thành một số
sản phẩm du lịch đặc sắc, như khu vui chơi giải trí cáp treo Phan-xi-pan, khu
sinh thái Topas; du lịch tâm linh - lịch sử; Tỉnh cũng có nhiều khách sạn tiêu
chuẩn 5 sao; hình thành hệ thống các làng du lịch cộng đồng do người dân trực
tiếp đầu tư và khai thác, đây là loại hình “du lịch xanh” được khách du lịch quốc
tế yêu thích khám phá, nhận được giải thưởng Homestay Asian. Tỉnh đang triển
khai các sản phẩm du lịch mới, như Công viên văn hóa Sa Pa; khu vui chơi giải
trí Bản Qua - huyện Bát Xát; xây dựng mô hình phát triển du lịch gắn với phát
triển nông nghiệp trồng hoa, quả và làng nghề truyền thống tại Sa Pa, Bắc Hà,
Bát Xát... Với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, cùng với sự vào cuộc của người
dân, doanh nghiệp, Lào Cai đã từng bước định vị và xây dựng được thương hiệu
du lịch; Sa Pa được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Khu du lịch Quốc gia,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đồng ý thành lập thị xã Sa Pa từ 1-1-2020. Các
chỉ tiêu về du lịch không ngừng tăng lên qua các năm, du lịch phát triển nhanh,
từng bước trở thành ngành kinh tế “mũi nhọn”, nổi bật với khu du lịch quốc gia
Sa Pa, khu du lịch huyện Bắc Hà và thành phố Lào Cai. Lượng khách du lịch
đến Lào Cai hằng năm tăng bình quân trên 21%/năm, dự kiến năm 2019 đón
khoảng 5 triệu lượt khách, doanh thu đạt trên 15.000 tỷ đồng, góp phần tích cực
vào sự phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương.
Với những tiềm năng, thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên và giá trị văn
hóa bản địa phong phú, đa dạng, sau gần 30 năm tái lập tỉnh gắn với thực hiện
công cuộc đổi mới của đất nước, Lào Cai đã đạt được những thành tựu vượt bậc,
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. So với năm 1991, tốc độ tăng trưởng kinh tế
của tỉnh (GRDP) luôn duy trì ở mức cao, bình quân đạt 10,1%/năm, quy mô nền
kinh tế tăng khoảng 70 lần; sản lượng lương thực bình quân gấp 3 lần, 100% số
trẻ trong độ tuổi được đi học; 164 xã, phường, thị trấn có trạm y tế, tỷ lệ hộ
nghèo còn 12,91%. Thu ngân sách tăng trưởng ổn định, năm sau cao hơn năm
Học viên: Ngô Hữu Quý

Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 20


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

trước, năm 2019 dự kiến đạt 9.000 tỷ. Sản xuất công nghiệp là nền tảng giữ
vững tốc độ tăng trưởng cao, năm 2019 dự kiến đạt trên 30 nghìn tỷ đồng. Thu
nhập bình quân đầu người đạt 61,84 triệu đồng/năm tăng khoảng 130 lần so với
năm 1991. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông,
lâm, thủy sản, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ (công
nghiệp - xây dựng chiếm 44,3%, nông nghiệp chiếm 12,18%, du lịch - dịch vụ
chiếm 43,52%). Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và chỉ số sẵn sàng
ứng dụng công nghệ thông tin (ICT Index), cải cách hành chính luôn được đánh
giá nằm trong nhóm các tỉnh dẫn đầu của cả nước.
Qua thực tiễn phát huy các tài nguyên và giá trị bản địa phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương, Lào Cai rút ra một số bài học kinh nghiệm trong
công tác lãnh đạo, chỉ đạo và định hướng phát triển nền kinh tế trong thời gian
tới, cụ thể như sau:
Một là, trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện phải có quyết
tâm chính trị cao, hành động quyết liệt, trách nhiệm, thực hiện tốt công tác dự
báo, kịp thời nắm bắt các xu hướng phát triển mới của đất nước và thế giới để
điều chỉnh linh hoạt, kịp thời, tránh tụt hậu. Thực hiện tốt công tác quy hoạch,
cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, khuyến khích thu hút các dự án quy mô
lớn, nhà đầu tư chiến lược, tạo điều kiện khởi nghiệp, sáng tạo và cơ hội cống
hiến, phát triển cho đội ngũ doanh nhân.
Hai là, quan tâm phát triển, giải quyết hài hòa lợi ích chính đáng của các
tầng lớp trong xã hội, các dân tộc, địa bàn đặc biệt khó khăn với những bước đi

phù hợp, khả thi. Chú trọng xây dựng văn hóa trong kinh tế, chính trị. Coi trọng
phát triển nguồn nhân lực, phát triển con người toàn diện, khắc phục tình trạng
trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Xây dựng, phát hiện, nhân rộng những
điển hình tiên tiến, nhân tố mới tích cực trên các lĩnh vực. Lựa chọn đúng lĩnh
vực trọng tâm xây dựng đề án chuyên đề để tập trung nguồn lực và chỉ đạo thực
hiện.
Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng và củng cố hệ thống chính trị với
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường; mở
rộng quan hệ với các địa phương trong và ngoài nước trên tất cả các lĩnh vực;
xây dựng biên giới hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Bốn là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động
trong từng ngành, lĩnh vực, theo hướng tăng nhanh tỷ trọng dịch vụ, tập trung
cho phát triển kinh tế cửa khẩu, du lịch, chú trọng phát triển công nghiệp khai
thác, chế biến sâu các loại khoáng sản chiến lược cho cả nước. Ưu tiên đầu tư
cho nông lâm nghiệp, xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 21


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

ứng dụng công nghệ cao.
Năm là, thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương; nâng cao chất lượng quy hoạch vùng, đô thị. Phát triển kết cấu hạ tầng
hiện đại, phát triển đô thị chất lượng cao và các trung tâm du lịch. Tích cực thực
hiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu quả
hoạt động của các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước; chủ động đổi

mới cơ chế, chính sách, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân phát triển, đặc biệt
là kêu gọi, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chiến lược. Phát huy tiềm năng, lợi
thế của từng địa phương, ưu tiên phát triển các vùng kinh tế động lực. Tập trung
đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ đáp ứng yêu cầu phát triển.
Với quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, Đảng bộ tỉnh Lào Cai đã và
đang nỗ lực triển khai toàn diện và đồng bộ nhiều giải pháp để phát huy các tài
nguyên và giá trị của địa phương phục vụ phát triển kinh tế, đưa Lào Cai trở
thành tỉnh phát triển của khu vực Tây Bắc, góp phần cùng cả nước thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
KẾT LUẬN
Quá trình vận động, biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong
thời kỳ đổi mới được mở đầu bằng Đại hội VI của Đảng, cho đến nay đã trải qua
8 kỳ Đại hội. Sự vận động, biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở
nước ta được chia làm hai giai đoạn chính:
Giai đoạn đầu đổi mới, trải qua 3 kỳ Đại hội từ năm 1986 đến năm 2001
là quá trình tìm tòi, thử nghiệm chuyển đổi mô hình nền kinh tế nước ta từ kế
hoạch hóa, tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong giai đoạn này, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa có sự biến đổi tích
cực để thích nghi với cơ chế mới như: quan hệ sở hữu được đổi mới tập trung
hơn vào các ngành, lĩnh vực trọng yếu trong nền kinh tế, thí điểm cổ phần hóa,
giải thể các xí nghiệp thua lỗ… Quan hệ tổ chức, quản lý được chuyển sang
hạch toán xã hội chủ nghĩa và sau đó là cơ chế thị trường, quán trình tổ chức sắp
xếp lại các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện dưới các hình thức: giao, bán,
khoán, cho thuê, hình thành các tổng công ty. Quan hệ phân phối chuyển sang
trả bằng tiền thay cho hiện vật, từ bình quân sang trả theo, lao động và hiệu quả
kinh tế. Đối với kinh tế tập thể, chúng ta đã áp dụng rộng rãi chính sách khoán
và ra đời luật hợp tác xã năm 1996.
Giai đoạn từ năm 2001 đến nay, Đây là giai đoạn chúng ta đã xác định
được mô hình kinh tế tổng quát là: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa. Qua các kỳ Đại hội IX, X, XI, XII mô hình kinh tế lại được làm rõ, củng
cố thêm cùng với đó là sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cho
Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 22


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

phù hợp với thực tiễn đất nước và làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Sự
biến đổi được thể hiện: quan hệ sở hữu được tập trung hơn vào các ngành, lĩnh
vực then chốt, trọng yếu trong nền kinh tế để đóng vai trò là công cụ ổn định
điều tiết vĩ mô, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, đẩy mạnh cổ phần hóa, tách
chức năng sở hữu với chức năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quan
hệ tổ chức được biến đổi theo hướng xóa bỏ bao cấp hình thành cơ chế thị
trường, các thành phần kinh tế ngày càng được bình đẳng vừa hợp tác, vừa cạnh
tranh theo thị trường, doanh nghiệp nhà nước cũng được tổ chức sắp xếp lại sao
cho giảm về số lượng, tăng về chất lượng, hình thành các Tổng công ty và Tập
đoàn kinh tế nhà nước đóng vai trò là nòng cốt trong doanh nghiệp nhà nước.
Quan hệ phân phối chuyển sang kinh tế thị trường trả lương theo năng suất, chất
lượng và hiệu quả kinh tế, gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Trong
kinh tế tập thể, chúng ta đã chuyển đổi mô hình từ hợp tác xã kiểu cũ sang hợp
tác xã kiểu mới.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, còn có
những biến đổi tiêu cực tạo thành lực cản đối với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, chưa thực sự nêu gương về năng suất, chất lượng cho các quan hệ sản xuất
khác. Điều này, được thể hiện; nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn kem hiệu
quả, thua lỗ kéo dài làm thất thoát vốn của nhà nước và nhân dân hàng nghìn tỷ

đồng gây bức xúc trong dư luận.Trong quản lý, doanh nghiệp nhà nước còn ảnh
hưởng cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp cơ chế xin- cho, chưa thực sự chuyển
hoàn toàn theo cơ chế thị trường. Trong phân phối còn chưa tuân thủ nguyên tắc
phân phối theo lao động, người lao động là chủ thể nhưng không có quyền thực
sự trong doanh nghiệp, lương thấp, trong khi đó cán bộ quản lý trả lương theo
chế độ công chức nhà nước không gắn trực tiếp với hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, do vậy họ thường lợi dụng chức vụ để tham ô, tham nhũng làm
giàu phi pháp. Kinh tế tập thể ngày càng thu hẹp, không thể hiện được mục tiêu,
bản chất của mình, quá trình chuyển đổi mô hình hợp tác xã còn chậm./.
Một lần nữa, em xin cảm ơn nhà trường, các giảng viên đã giúp em hoàn
thành bài tiểu luận. Qua bài này, em có thêm kỹ năng, lý luận phục vụ công tác
chuyên môn, hoàn thành nhiệm vụ được giao./.

Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 23


Tiểu luận triết học: Những nhận thức mới trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam từ khi đổi mới đất nước (1986) đến nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các Văn kiện Hội
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, NXB Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2017.
[2] Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2017.
[3] Đường Vinh Sường: “Giáo dục đào tạo với phát triển NNL chất lượng
cao ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 4/12/2014.

[4] Đối thoại chính sách cao cấp về phát triển NNL trong kỷ nguyên số...
tại Hội nghị các quan chức cao cấp APEC lần thứ hai (SOM-2) tổ chức tại Hà
Nội, ngày 15/5/2017.
[5] Giáo trình triết học dùng cho cao học không chuyên ngành triết học
của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh do GS.TS Trần Văn Phòng chủ
biênxuất bản năm 2019.
[6] PGS, TS. NGUYỄN VĂN GIANG Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh 23/9/2020 Tạp chí Xây Dựng Đảng - Cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 - minh chứng sinh động dự báo thiên tài của C.Mác.
[7] C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, phần II, NXB CTQG, H.2000,
tr.372; tr.367, tr. 368. (4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, NXB CTQG, H.2011. (5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, NXB CTQG, H.2016.
[8] Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2919 của Bộ Chính trị về một số
chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
[9] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
[10] V.I. Lênin (1981). Toàn tập (tập 29). NXB Tiến bộ, Matxcơva.
[11] Bộ GD-ĐT (2002). Giáo trình triết học Mác - Lênin. NXB Chính trị
Quốc gia - Sự thật.
[12] Doãn Chính - Đinh Ngọc Thạch (2008). Vấn đề triết học trong tác
phẩm của C.Mác - Ph.Ăngghen, V.I. Lênin. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[13] V.I. Lênin (2004). Bút kí triết học. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.

Học viên: Ngô Hữu Quý
Lớp Thạc sỹ: Quản lý kinh tế - K27 Lào Cai

Trang - 24




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×