Đặt vấn đề.
Qua 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt đợc những
thành tựu quan trọng trong mọi lĩnh vực kinh tế xã hội. Có thể nói, nền kinh
tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã đợc xác lập và phát huy
hiệu quả. Trong những thành công này có đóng góp một phần không nhỏ của bộ
phận kinh tế Nhà nớc (KTNN) với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là công cụ
hữu hiệu để Nhà nớc điều tiết nền kinh tế. Không còn nghi ngờ gì nữa KTNN là
lực lợng đảm bảo cho mục tiêu XHCN ở nớc ta.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự phát triển của KTNN có những
biểu hiện suy giảm. Trong khi các thành phần kinh tế khác có những biểu hiện
phát triển vợt bậc, đặc biệt là kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài. Tốc độ cải cách
tiến hành chậm, nhiều cơ chế chính sách còn vớng mắc cha đợc tháo bỏ triệt để,
tàn d của chế độ quan liêu bao cấp vẫn còn nặng nề, vấn đề nợ đọng, lao động
dôi d cha đợc giải quyết thoả đáng, còn những tranh cãi về mặt lí luận, nhiều ý
kiến khác nhau cha đợc tổng kết thực tiễn kết luận.
Phát triển KTNN là đòi hỏi sống còn với nền kinh tế và định hớng XHCN
ở Việt Nam. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã nhấn mạnh sự cần
thiết tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nớc để thực hiện tốt vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân ( Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX. Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2001, Tr 189); Nghị quyết Hội nghị lần
thức 3, Ban chấp hành Trung ơng Đảng khoá IX (gọi tắt là Nghị quyết Trung -
ơng 3) đã đề ra các giải pháp cơ bản về vấn đề này theo hớng tiếp tục đẩy mạnh
sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nớc.
Để có thể thành0 công còn rất nhiều những khó khăn cần giải quyết. Đây là một
vấn đề nghiên cứu rộng và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà kinh tế trong và
ngoài nớc.
Xuất phát từ những thực tiễn trên, tác giả của đề án đã chọn đề tài Kinh
tế Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở Việt Nam làm nội
dung nghiên cứu với hy vọng tìm hiểu sâu hơn về KTNN và đa ra các kiến giải
của nhiều nhà kinh tế giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quát về vấn đề này,
đồng thời trong khả năng có thể đa một vài tham luận của cá nhân đóng góp vào
các giải pháp phát triển KTNN hiện nay.
Đề án tập trung giải quyết những vấn đề sau :
- Làm rõ khái niệm KTNN, cơ sở lý luận, sự cần thiết của vai trò chủ đạo
của KTNN.
- Mô tả thực trạng của KTNN, thực trạng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp
Nhà nớc, những vấn đề còn tồn tại, nguyên nhân.
1
- Đa ra và phân tích các giải pháp, đóng góp ý kiến nhằm phát triển
KTNN.
Về mặt phạm vi nghiên cứu của Đề án, do KTNN là khái niệm rất rộng,
khả năng của ngời viết còn nhiều hạn chế, Đề án chỉ tập trung nghiên cứu các
doanh nghiệp Nhà nớc (DNNN) là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của
KTNN và có ảnh hởng quyết định tới vai trò chủ đạo của KTNN.
Để hoàn thành việc nghiên cứu, tác giả xin chân thành cám ơn PGS . TS
Mai Hữu Thực về sự hớng dẫn, giúp đỡ tận tình và sự chỉ bảo, sửa chữa những
điểm còn khiếm khuyết của đề án.
2
Phần thứ nhất: Kinh tế nhà nớc và vai trò của nó trong nền kinh tế
thị trờng định hớng XHCN.
I. Khái quát lí luận về thời kì quá độ, Sự tồn tại khách quan nền kinh
tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ.
0.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề vật chất
và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó, những nguyên tắc
cơ bản của xã hội XHCN đợc thực hiện.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử bởi vì CNXH giai
đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa không thể tự phát ra
đời trong lòng xã hội cũ. Hơn nữa, sự phát triển của phơng thức sản xuất cộng
sản chủ nghĩa đòi hỏi một thời kỳ lâu dài.
Khái niệm quá độ lên chủ nghĩa xã hội đợc vận dụng trong mọi lĩnh vực
của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, t tởng, tập quán trong xã hội. Trong đó,
về kinh tế trong thời kỳ quá độ, theo Lê-nin, là nền kinh tế nhiều thành phần,
bên cạnh các thành phần kinh tế XHCN, còn có những thành phần kinh tế khác
nh t bản nhà nớc, t bản t nhân, cá thể v.v; về chính trị, đó là sự lãnh đạo của Nhà
nớc chuyên chính vô sản.
6 _11 _03
- Việc tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ là một tất
yếu khách quan. V.I . Lê-nin chỉ ra: danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng
vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay, có những thành phần,
những bộ phận, những mảng của chủ nghĩa t bản, chủ nghĩa xã hội hay không?
Bất cứ ai cũng thừa nhận là có. Thực vậy, đối với mỗi hình thái kinh tế xã hội có
nhiều phơng thức sản xuất biểu hiện thành các thành phần kinh tế. Trong thời kì
quá độ, cha có thành phần kinh tế nào giữ vai trò thống trị, chi phối các thành
phần kinh tế khác, mà chúng chỉ là những mảnh, những bộ phận hợp thành kết
cấu kinh tế xã hội trong một thể thống nhất biện chứng. Mỗi thành phần có kiểu
tổ chức sản xuất kinh doanh của nó hợp thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần. Điều này phản ánh đúng yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất. Trên thực tế, cách mạng vô
sản đã thành công ở những nớc t bản trung bình và những nớc kém phát triển
(trong đó có Việt Nam). Để xây dựng xã hội XHCN với trình độ phát triển cao
của lực lợng sản xuất, phải có thời gian tăng năng suất lao động, xây dựng chế
độ công hữu về t liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới. Việc áp dụng những
quan hệ sản xuất XHCN, khi sự phát triển của lực lợng sản xuất cha theo kịp,
nóng vội cải tạo các quan hệ sở hữu nh trớc đây ở các nớc XHCN là phi lịch sử.
Chỉ có phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần mới tạo động lực phát
huy mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế để phát triển, từ
đó mà xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH.
3
- Sự lãnh đạo của Nhà nớc chuyên chính vô sản sẽ đảm bảo dẫn dắt xã
hội phát triển tiến lên CNXH. Trong hệ thống chuyên chính vô sản bộ phận
quan trọng nhất là Nhà nớc. Giai cấp vô sản phải nắm lấy chính quyền, từng bớc
cải tạo xã hội, chống các thế lực thù địch dù đã mất đi vị thế chính trị song vẫn
còn rất mạnh, từng bớc xây dựng xã hội mới. Xét theo khía cạnh kinh tế, tầm
quan trọng của Nhà nớc trong hệ thống chuyên chính vô sản biểu hiện ở vai trò
và chức năng kinh tế của Nhà nớc. Trong xã hội t bản, vai trò của Nhà nớc
không chỉ dừng lại ở thuế khoá (nhằm nuôi sống bộ máy cai trị ), với sự xuất
hiện sở hữu Nhà nớc đã làm cho nhà nớc bắt đầu can thiệp vào quá trình sản
xuất. Một mình thị trờng không làm nổi chức năng điều tiết nền kinh tế, cần
phải có bàn tay của Nhà nớc đảm bảo cho nền kinh tế phát triển vững chắc (Lí
thuyết hai bàn taycủa P.Samuelson ). Vai trò và chức năng kinh tế của Nhà n-
ớc xã hội XHCN đợc Lê-nin phát triển và áp dụng trong công cuộc xây dựng
nhà nớc Xô-viết. Lê-nin cho rằng Nhà nớc 156có chức năng tổ chức quản lí nền
kinh tế quốc dân. Đặc biệt trong hệ thống chuyên chính vô sản hiện nay Nhà n-
ớc có vai trò bà đỡ-vai trò tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển kinh tế
thị trờng định hớng XHCN.
Vậy, ta có thể tóm tắt công thức của thời kì quá độ là: nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần dới sự lãnh đạo của Nhà nớc vô sản. Sản xuất hàng hoá là tất
yếu nó không đối lập với tính kế hoạch XHCN, vấn đề là phải áp dụng tính trội
của mỗi tính về mặt tích cực mà xã hội mong muốn. Sản xuất hàng hoá và tính
hàng hoá với t cách là kiểu sản xuất tồn tại trong nhiều phơng thức sản xuất
khác nhau không những nhông mất đi mà còn cần phát triển cùng với tính kế
hoạch định hớng phát triển từ thấp đến cao. Hay có thể gọi là nền kinh tế thị tr-
ờng định hớng XHCN mà chúng ta đang phát triển hiện nay. Trong đó để thực
hiện, nhất thiết phải có vai trò quản lí kinh tế của Nhà nớc. Bởi sự cải biến kinh
tế xã hội trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải gắn vói sự
cải biến về chính trị. Không thể cải biến kinh tế xã hội nếu thiếu vai trò kinh
tế của Nhà nớc. Theo Mác và Ănghen, sự ra đời của vai trò kinh tế của nhà nớc
thúc đẩy các điều kiện kinh tế xã hội của xã hội mới phát triển và hoàn thiện.
Đó chính là khởi nguyên của t tởng về vai trò chủ đạo của KTNN.
Xét trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, nền kinh tế của chúng ta nhỏ bé
và lạc hậu việc áp dụng một nền kinh tế quan liêu bao cấp theo mô hình kinh tế
chỉ huy nh vừa qua là cha phù hợp. Để tiến lên CNXH tất yếu phải trải qua thời
kì quá độ với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Chúng ta quá độ
thẳng lên chủ nghĩa xã hội song tiếp thu những thành tựu mà nhân loại đã đạt đ-
ợc dới chủ nghĩa t bản để phát triển kinh tế và KTNN phải giữ vai trò chủ đạo.
Đó chính là những nội dung cơ bản mà Việt Nam đã phát triển t chủ nghĩa Mác-
Lênin áp dụng vào thời kì đổi mới.
4
II. Quan niệm về KTNN
KTNN là một thuật ngữ bao hàm một nội dung khá rộng, đợc xác định
theo ý nghĩa khác nhau tuỳ theo góc độ nghiên cứu. ở Việt Nam, thuật ngữ
KTNN đợc sử dụng rộng rãi từ sau Đại hội VIII thay cho thuật ngữ kinh tế quốc
doanh. Theo cách hiểu chung nhất hiện nay, KTNN là thuật ngữ chỉ phần tài
sản thuộc sỏ hữu Nhà nớc. Phần tài sản đó bao gồm :
1. Tài nguyên khoáng sản, đất đai, .v.v. là tài sản quốc gia do Nhà nớc
làm chủ sở hữu.
2. Hệ thống các quỹ bảo hiểm do Nhà nớc đảm nhiệm và các quỹ dự trữ
quốc gia.
3. Ngân hàng Nhà nớc, kho bạc nhà nớc, tài chính nhà nớc.
4. Các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nớc ở tất cả các ngành, các lĩnh vực.
5. Phần vốn Nhà nớc đầu t vào các thành phần kinh tế khác dới dạng
công ty cổ phần.
Xét về vị trí, trong nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN, KTNN giữ vai
trò chủ đạo.
Về hình thức thể hiện KTNN bao gồm hai hệ thống: hệ thống doanh
nghiệp và hệ thống phi doanh nghiệp. Hệ thống doanh nghiệp bao gồm các
doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh và các doanh nghiệp công
ích. Hệ thống phi doanh nghiệp bao gồm ngân sách Nhà nớc, các quỹ quốc gia,
tài nguyên thuộc sở hữu nhà nớc, v.v
III. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc.
Vận dụng lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, ta có thể khái quát đặc điểm
của thời kì quá độ là: nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dới sự lãnh đạo
của nhà nớc chuyên chính vô sản hay có thể nói đó là nền KTTT định hớng
XHCN ở Việt Nam hiện nay. Trong hệ thống này đặc biệt nổi lên vai trò kinh tế
của Nhà nớc. Mọi ngời đều biết rằng sự cải biến kinh tế xã hội trong thời kì
quá độ lên CNXH, tất yếu phải gắn với cải biến về chính trị. hay không thể cải
biến kinh tế xã hội nếu thiếu vai trò kinh tế của Nhà nớc. Nhà nớc bằng những
công cụ, chíng sách kinh tế vĩ mô điều tiết hạn chế những tiêu cực, mặt trái của
kinh tế thị trờng. Nhà nớc XHCN không đứng ở bên ngoài mà trực tiếp tham gia
vào hoạt động sản xuất với t cách là thành phần kinh tế đại diện cho phơng thức
sản xuát của hình thái xã hội tơng lai. Muốn vậy, KTNN phải giữ vai trò chủ
đạo. Thực vậy, nếu KTNN không có ảnh hởng chi phối đợc các thành phần kinh
5
tế khác, không làm cho các mối quan hệ kinh tế diễn ra theo tính chất của ph-
ơng thức sản xuất XHCN thì việc xây dựng CNXH chỉ là ảo tởng.
- Thứ nhất, KTNN dựa trên chế độ sở hữu công cộng về t liệu sản xuất, là
chế độ phù hợp với xu thế xã hội hoá của lực lợng sản xuất.
- Thứ hai, KTNN nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu xơng sống của
nền kinh tế, do đó nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động của các
thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo hớng đã định
- Thứ ba, KTNN là lợng đảm bảo cho sự phát triển ổn định của nền
kinh tế: là lợng có khả năng can thiệp, điều tiết, hớng dẫn, giúp đỡ,
liên kết tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
- Thứ t, KTNN có thể tác động các thành phần kinh tế khác không chỉ
bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế mà còn bằng con đờng gián tiếp, thông qua
các thể chế và hoạt động của kiến trúc thợng tầng XHCN.
- Thứ năm, KTNN dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học công nghệ hiện
đại, tiên tiến; do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh đóng góp phần lớn cho ngân
sách Nhà nớc và tích tụ để có thể không ngừng tái sản xuất mở rộng.
- Thứ sáu, KTNN là lực lợng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế,
đô thị mới; là lực lợng có khả năng đầu t vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng
sống còn nhng lại ít ai giám đầu t vì nó đòi hỏi vốn quá nhiều mà thời gian thu
hồi vốn chậm.
Nghị quyết đại hội IX của Đảng ta đã chỉ rõ: KTNN phát huy vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế, là lực lợng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nớc
định hớng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN giữ những vị trí then chốt; đi
đầu tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gơng về năng suất, chất lợng, hiệu quả
kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật.
6
Phần thứ hai: Thực trạng phát triển
và đổi mới KTNN
I. Tổng quan sự phát triển của KTNN trong 15 năm đổi mới, phát
triển.
Trong 15 năm qua, KTNN đã có những chuyển biến đáng kể: KTNN giữ
vai trò chủ đạo, DNNN giữ những vị trí then chốt nắm trong tay những nguồn
lực cơ bản của xã hội, là công cụ để nhà nớc định hớng và điều tiết vĩ mô nền
kinh tế.Trong đó nổi bật có những nét đáng chú ý sau:
- Chúng ta đã chuyển đổi thành công từ chế độ quản lý quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trờng có sự điều tiết của Nhà nớc.
- Tiến hành sắp xếp, đổi mới DNNN và đã thu đợc những kết quả bớc đầu
đáng khích lệ.
- Tốc độ tăng trởng của KTNN khá đều đặn, hàng năm đóng góp từ
40-46% cho GDP.
Bên cạnh đó, KTNN vẫn còn tồn tại những mặt yếu kém nh : cha đợc
củng cố tơng xứng vai trò chủ đạo, cha có những chuyển biến đáng kể trong sắp
xếp và đổi mới DNNN và còn nhiều vấn đề phức tạp mà bài viết sẽ đề cập cụ
thể trong các phần sau.
1. Thực trạng phát triển.
Trong những năm vừa qua, hoạt động của các DNNN giữ một vị trí quan
trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nó là một bộ phận nắm giữ cơ sở vật
chất chủ yếu, huyết mạch chính của nền kinh tế quốc dân; nơi tập trung chủ
yếu giai cấp công nhân và cán bộ kĩ thuật, cán bộ quản lý của đất nớc, nơi đa lại
nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nớc. Hiện nay ở nớc ta có khoảng 5280
DNNN với tổng số vốn gần 116 ngàn tỉ đồng. Xét về mặt số lợng chỉ chiếm
khoảng 17% tổng số doanh nghiệp và hàng năm đóng góp từ 40-46% trong tỉ
trọng GDP của cả nớc. Các DNNN là lực lợng chủ yếu nắm hầu hết các nguồn
lực cơ bản trong xã hội: 86,6% tổng vốn, 85% tài sản cố định, 100% mỏ, 80%
rừng, 90% lao động đợc đào tạo có hệ thống và đợc nhận hầu hết các u đãi của
Nhà nớc so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nhìn
chung lực lợng DNNN đang chiếm giữ một vị trí then chốt trong các ngành kinh
tế quan trọng của đất nớc.
Thời gian qua, thực hiện đờng lối đổi mới của Đảng, từ năm 1991 đến
nay Chính phủ đã đẩy mạnh công cuộc đổi mới và sắp xếp lại các DNNN. Đây
là một chủ trơng lớn, còn nhiều vấn đề phải bàn đến, ngời viết xin đề cập chi
tiết trong những phần sau.
7
Nhìn chung, hiện nay các DNNN vẫn làm ăn thua lỗ, hiệu quả kinh tế đạt
thấp, tồn tại nhiều bất cập, mức tiết kiệm của DNNN còn hạn chế. Theo báo cáo
của tổng cục quản lí vốn và tài sản Nhà nớc tại doanh nghiệp năm 1998 chỉ có
37% số DNNN làm ăn có hiệu quả, số còn lại thua lỗ nặng. Theo báo cáo của
Bộ trởng Tài chính tại Quốc hội thì cuối năm 1999 chỉ có 20% số DNNN kinh
doanh có hiệu quả. Tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của DNNN giảm dần
năm 1996: 11,2%, 1997: 9,7%, 1998: 9,1%, 1999: 9,2%. Con số trên chứng tỏ
khả năng sinh lợi của các DNNN thấp và có xu hớng ngày càng giảm. ở các
DNNN tình trạng phổ biến là ứ đọng hàng hoá, khả năng mở rộng sản xuất và
đổi mới công nghệ để sản xuất ra các mặt hàng có giá trị cao hơn, có khả năng
xuất khẩu hơn rất ít. Sản phẩm giá thành còn cao, giá xuất xởng của nhiều loại
sản phẩm chủ yếu của ta cao hơn hẳn giá sản phẩm nhập khẩu.
Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trởng và hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các DNNN sau một thời gian liên tục đạt 13% đến năm 1999đã giảm
xuống còn khoảng 8-9%. Hiệu quả sử dụng vốn giảm, năm 1995: 1 đồng vốn
tạo ra đợc 3,16 đồng doanh thu và 0,19 đồng lợi nhuận, đến năm 1998 chỉ tạo ra
đợc 2,9 đồng doanh thu và 0,14 đồng lợi nhuận. Nợ nần trong các doanh nghiệp
còn rất cao, năm 1996 tổng số nợ của các DNNN là 174.797 tỉ đồng, năm 1999
đã lên tới 199.060 tỷ đồng, trong đó nợ phải trả bằng 109% vốn nhà nớc trong
các doanh nghiệp và khả năng thanh toán nợ của các doanh nghiệp lại rất thấp.
Trong khu vực công nghiệp hoạt động của các DNNN cũng đem lại hiệu quả
thấp; Năm 1997 (không kể các ngành khai khoáng là than và dầu khí) tỷ trong
xuất khẩu trên tổng giá trị sản xuất công nghiệp của: DNNN là 17,2%, đầu t n-
ớc ngoài 46,2%, ngoài quốc donah 46,6%. 5 tháng đầu năm 2000, giá trị sản
xuất công nghiệp tăng khoảng 14,3% so với cùng kỳ năm 1999, trong đó khu
vực DNNN tăng 12,5% (Trung ơng quản lý tăng 11,8%, đại phơng quản lý tăng
13,9%); khu vực ngoài quốc doanh tăng 18,8%, khu vực có vốn đầu t nớc ngoài
tăng 13,9%. Những số liệu trên đây cho thấy hiệu quả hoạt động của khu vực
quốc doanh thấp hơn nhiều so với khu vực liên doanh và ngoài quốc doanh.
Từ hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, mức đóng góp cho ngân
sách Nhà nớc của các DNNN cũng ít hơn các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác. Năm 1998, công nghiệp Nhà nớc chiếm 47,4% vốn, 28,5%
lao động và sản xuất ra 48% tổng giá trị sản xuất toàn nghành, nhng chỉ đóng
góp 40,7% thu ngân sách trong lĩnh vực công nghiệp. Trong khi đó khu vực có
vốn đầu t nớc ngoài với 46,7% vốn, 8,2% lao động đã sản xuất ra 31,8% tổng
giá trị sản xuất và đóng góp 56,8% tổng số nộp ngân sách toàn ngành. Đặc biệt
tổng giá trị sản xuất của khu vực DNNN ngày càng thấp so với tốc độ toàn
ngành công nghiệp vốn đã chậm dần.
Theo số liệu của Bộ tài chính, tổng thu ngân sách Nhà nớc 6 tháng đầu
năm 2000 ớc tính đạt 41,2% dự toán cả năm và tăng 6,4% so với cùng kỳ năm
trớc, trong đó thu từ khu vực KTNN chiếm 20,8% tổng số thu, đạt 40,2% và
8
giảm 9,0%, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài chiếm 28,7% đạt 46,9%
và tăng 68,7%.
2. Thực trạng đổi mới và sắp xếp lại DNNN.
Ngay từ đại hội VI, Đảng ta đã đề xuất chủ trơng thực hiện đổi mới sắp
xếp lại DNNN nh là một bộ phận quan trọng trong đờng lối đổi mới toàn diện
đất nớc, đáp ứng yêu cầu thực hiện vai trò chủ đạo của KTNN. Từ đó đến nay
qua các thời kì chủ trơng này lại đợc bổ xung và phát triển.
2.1. Sự cần thiết phải đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà n ớc.
Cải cách DNNN là quá trình tất yếu, khách quan. Nó xuất phát từ những
yêu cầu cấp thiết đặt ra ở trong nớc cũng nh trên thế giới.
Hiện nay, trong bối cảnh thế giới, xu hớng toàn cầu hoá đang diễn ra
mạnh mẽ. Đây là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nớc tham
gia. Đây là một cơ hội giúp chúng ta phát triển, đồng thời nó cũng tiềm ẩn
nhiều nguy cơ, mặt tiêu cực nh sự phân hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trờng sinh
thái. Điều này đặt ra cho chúng ta những yêu cầu và thách thức phải đổi mới để
hội nhập. Muốn vậy phải cải cách nền kinh tế, tăng cờng nội lực, để phát triển
đón nhận những thời cơ mà thời đại đem lại. Mà một trong những việc phải làm
đầu tiên là cải cách hệ thống DNNN làm cho nó thích nghi một cách toàn vện
với cơ chế mới, tạo đòn bẩy cho sự tăng trởng. Điều này khẳng định tính tiên
phong của thành phần kinh tế XHCN.
Thời đại ngày nay ghi nhận những phát triển vợt bậc của khoa học kĩ
thuật và công nghệ mà những ứng dụng của chúng đem lại những biến đổi lớn
lao trong đời sống xã hội. Thế giới đang chuyển sang nền kinh tế trí thức. Việt
Nam cũng chuyển mình đón nhận những thành tựu do khoa học kĩ thuật đem
lại. Hệ thống các DNNN phải đi đầu cải tiến, đổi mới sản xuất, áp dụng công
nghệ kỹ thuật hiện đại, là tấm gơng tiêu biểu trong sự nghiệp phát triển kinh tế.
Thực tiễn những năm vừa qua cho thấy, việc áp dụng quá lâu cơ chế quản
lý quan liêu bao cấp đã gây ra sự khủng hoảng trong đời sống kinh tế xã hội.
Suốt mộ thời gian dài Nhà nớc là ngời đứng ra quyết định tất cả các vấn đề về
sản xuất cũng nh tiêu thụ trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp chỉ thụ động sản
xuất theo kế hoạch đề ra, chúng chỉ nh những phân xởng trong xí nghiệp kinh tế
quốc dân. Lối quản lý này làm sơ cứng nền kinh tế, mất đi động lực phát triển,
phí phạm tài nguyên và các vấn đề lợi ích khác không đợc giải quyết thoả đáng.
Đại hội Đảng VI đã đề ra đờng lối đổi mới kinh tế, chuyển đổi cơ chế quan liêu
bao cấp sang thực hiện cơ chế thị trờng. Cùng với nó là quá trình cải tổ sâu sắc
trong hệ thống DNNN đáp ứng đòi hỏi của cơ chế mới thời kỳ mới.
9
Cơ chế quản lý không phù hợp, cùng với những nguyên nhân khách quan
nh chiến tranh cấm vận để lại di chứng rất nặng nề cho nền kinh tế. Đó là tình
trạng yếu kém của hầu hết cácDNNN, sản xuất đình trệ. Hiện tại, các doanh
nghiệp có những khó khăn chủ yếu sau trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, máy
móc nhà xởng cũ kỹ, năng kực đội ngũ cán bộ không đáp ứng đợc những yêu
cầu đặt ra, sử dụng vốn kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ kéo dài, nợ nần chồng
chất gây gánh nặng cho nền kinh tế. Cải cách DNNN làm cho chúng phát triển
là một trong những yêu cầu cấp bách đặt ra trong hiện tại cũng nh tơng lai.
Việc sắp xếp, đổi mới DNNN phải theo hớng tập trung nắm giữ những
đầu mối chính, tạo sự năng động tự chủ của các doanh nghệp. Nhà nớc chỉ nắm
giữ những ngành, lĩnh vực chủ chốt làm tăng tính hiệu quả của hoạt động Nhà
nớc. Điều này không hề làm giảm sút sức mạnh của KTNN mà còn tạo cho
Nhà nớc một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế. Từ đó mà định hớng
XHCN ngày càng đợc xác lập
2.2. Ph ơng h ớng chung, đ ờng lối chỉ đạo, mục tiêu nguyên tắc
Trên tinh thần Đại hội IX, Ban chấp hành Trung ơng Đảng đã họp và ra
nghị quyết TW3 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quảDNNN. Nghị quyết nêu rõ :
* Quan điểm chỉ đạo.
- KTNN có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hớng xã hội chủ
nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nớc. DNNN (gồm
DNNN giữ 100% vốn và DNNN giữ cổ phần chi phối) phải không ngừng đợc
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế,
làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nớc định hớng và điều tiết vĩ mô, làm l-
ợng nòng cốt, góp phần chủ yếu để KTNN thực hiên vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế thị trờng định hớng XHCN, là chủ lực trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Việc xem xét, đánh giá hiệu quả của DNNN phải có quan điểm toàn
diện cả về kinh tế, chinh trị, xã hội; trong đó, lấy lãi suất sinh lời trên vốn làm
một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp
kinh doanh, lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm kết quả chủ yếu để
đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp công ích.
- Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để DNNN có cơ cấu hợp lý, tập trung vào
những nghành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn
đói với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỉ trong lớn
trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. Đại bộ phận DNNN,
cho phá sản DNNN yếu kém, thua lỗ kéo dài mà Nhà nớc không cần nắm giữ.
Qua 3 đợt, DNNN đã giảm từ 12 300 doanh nghiệp còn 5 571 ( giảm 55% về số
lợng, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và do địa phơng quản lý ). Cơ cấu DNNN
bắt đầu đợc điều chỉnh hợp lý, có tác động tích cực đến quá trình tích tụ và tập
10
trung vốn, hình thành và phát triển một số doanh nghiệp mới có trình độ công
nghệ cao và có sức cạnh tranh. Số doanh nghiệp có vốn dới 1 tỷ đồng giảm từ
50% năm 1994 xuống còn 26% năm 1999 ; số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỉ
đồng tăng tơng ứng, từ 10% lên 20% ; vốn bình quân của một doanh nghiệp
tăng từ 3,3 tỷ đồng lên 21 tỉ đồng. Trong quá trình sắp xếp lại các doanh
nghiệp, Nhà nớc đã giải quyết trợ cấp thôi việc một lần cho 72 vạn lao động.
Ba là, tổ chức, củng cố và phát triển các tổng công ty nhà nớc ( TCTNN )
nhằm tập trung nguồn lực của Nhà nớc vào các ngành then chốt mà Nhà nớc
cần chi phối Thời gian qua, đã sắp xếp lại 250 liên hiệp xí nghiệp và Tổng
công ty. Thủ tớng chính phủ quyết định thành lập 17 tổng công ty 91 và uỷ
quyền cho các bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ơng
quản lý 77 tổng công ty 90. Các TCTNN có 1 534 doanh nghiệp thành viên
hạch toán độc lập, chiếm 27,5% tổng số doanh nghiệp cả nớc, 61% về lao động
( riêng 17 tổng công ty 91 có 491 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập,
chiếm 8,8% số lợng DNNN, 35% lao động ). Nhìn chung, các TCTNN đã chi
phối đợc các ngành, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế và đã trở thành công
cụ quan trọngđể Nhà nớc điều tiết quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trờng định hớng
XHCN, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Các TCTNN đã bảo toàn và
tích tụ đợc vốn ngày càng tăng, huy động nhiều nguồn lực đầu t, đổi mới công
nghệ,tăng nhanh năng suất lao động, hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh ( năm
1999, riêng 17 tổng công ty 91 đã bổ sung thêm nguồn vốn 15 850 tỷ đồng,
chiếm 22,5% tổng số vốn, doanh thu tăng 12%, lợi nhuận tăng 23%, nộp ngân
sách tăng 29% ).
Bốn là, cổ phần hoá một bộ phận DNNN mà Nhà nớc không cần nắm giữ
100% vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy sản xuất kinh
doanh phát triển. Tính đến hết tháng 11/2001, cả nớc đã có 771 doanh nghiệp đ-
ợc cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu (trong đó có 698 doanh nghiệp đợc cổ
phần hoá, 41 doanh nghiệp đợc giao và 32 doanh nghiệp đợc bán), bằng 13% số
doanh nghiệp hiện có, với số vốn gần 3.000tỷ đồng, bằng hơn 2% tổng vốn nhà
nớc trong DNNN. Sau khi cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu, các doanh nghiệp
đã huy động đợc thêm hơn 2.000 tỷ đồng của các cá nhân pháp nhân, đồng thời
thông qua bán cổ phiếu, Nhà nớc đã thu thêm hơn 1150 tỷ đồng để đầu t và giải
quyết chính sách cho ngời lao động. Bên cạnh đó, phần vốn Nhà nớc tại các
doanh nghiệp sau khi chuyển đổi không mất đi mà lại tăng thêm từ 10 15%
so với giá trị trên sổ sách. Cùng với quá trình cổ phần hoá, Đảng, Chính phủ chủ
trơng để một số DNNN đầu t một phần vốn thành lập công ty cổ phần mới. Đến
ngày 18-5-2000, DNNN đã đầu t vốn thành lập 279 công ty cổ phần mới với
tổng số vốn Nhà nớc là 868,8 tỷ đồng, chiếm 46% vốn điều lệ. Kết quả sản xuất
kinh doanh cho thấy : 267 công ty (96,4%) có lãi, 12 công ty còn lại (3,6%)
hoà vốn.
Năm là, thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê những DNNN
có quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài để sử dụng có hiệu quả tài sản Nhà nớc, bảo
đảm việc làm và thu nhập của ngời lao động. Theo báo cáo cha đầy đủ, đến
11
ngày 31/1/2001, số DNNN thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê
theo Nghị định 103/1999/NĐ-CP là 105 doanh nghiệp. Hình thức doanh nghiệp
sau khi chuyển đổi chủ yếu là công ty cổ phần, cổ đông chủ yếu là số lao động
làm việc tại doanh nghiệp, ngoài ra cũng có một số trờng hợp bán cho ngời
ngoài doanh nghiệp. Phần lớn các địa phơng và doanh nghiệp lựa chọn hình
thức giao và bán (chuyển đổi sở hữu), chiếm tơng ứng 37% và 47,5%; thực hiện
thuê và khoán kinh doanh (chuyển đổi phơng tức quản lý) chỉ chiếm tơng ứng
2% và 15,2%. Đánh giá một cách tổng quát, sau khi chuyển đổi, nhiều doanh
nghiệp đã ổn định tổ chức, vốn kinh doanh có xu thế tăng, doanh thu và lợi
nhuận tăng, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nớc, đảm bảo quyền lợi cho ngời
lao động. Cụ thể, so với trớc khi chuyển đổi, vốn kinh doanh tăng 67,3 %;
doanh thu tăng 42,5%; nộp ngân sách Nhà nớc tăng 44,5%; số lao động tăng
12,8%; thu nhập bình quân của ngời lao động tăng 38,7% ( từ 280.000 lên
388.000 đồng/ngời/tháng) Từ đó cho thấy việc thực hiện giao, bán, khoán,
cho thuê các doanh nghiệp đã khắc phục đợc tình trạng giải thể, phá sản doanh
nghiệp, bán phát mại tài sản của Nhà nớc; khắc phục đợc tình trạng ngời lao
động mất việc làm, năng lực sản xuất của DNNN đợc phát huy, xoá đợc bao
cấp, bù lỗ của Nhà nớc, tăng khả năng huy động nguồn vốn trong dân.
Trong các nội dung trên, cổ phần hoá các DNNN và đổi mới cơ chế chính
sách là hai xu thế chủ đạo của tiến trình này ngời viết xin đề cập chi tiết trong
những phần sau.
*Về mặt thành tựu, có thể khái quát mặt đợc của DNNN sau quá trình
sắp xếp đổi mới nh sau :
- Hầu hết các DNNN đều có những chuyển biến tích cực: cơ cấu và quy
mô bớc đầu đợc điều chỉnh theo hớng phù hợp hơn; thích ứng đợc với cơ chế
thị trờng; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ; vốn đợc bảo toàn và
tăng thêm; vốn tích luỹ, tự bổ sung từ chỗ không đáng kể đã tăng lên 27% tổng
vốn sản suất kinh doanh; hiệu quả hoạt động từng bớc tăng lên.
- DNNN đã góp phần rất quan trọng để KTNN thực hiện vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế nhiều thành phần; chi phối đợc các ngành và lĩnh vực then
chốt; thực sự là nòng cốt tăng trởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng góp cho
ngân sách Nhà nớc; bảo đảm cân đối lớn và góp phần quan trọng trong ổn định
kinh tế vĩ mô; là lợng chính trong việc bảo đảm các sản phẩm và dịch vụ công
ích chủ yếu của xã hội.
- Số DNNN giảm mạnh nhng tốc độ tăng trởng của khu vực DNNN vẫn
duy trì mức khá cao, bình quân tăng 11%/năm trong 10 năm (1991 1999).
Năm 2000 các DNNN đóng góp 39 % GDP.
II. Vấn đề đặt ra.
12
Nh vậy, qua các phần phân tích ở trên, chúng ta đã hiểu phần nào về thực
trạng của các DNNN, bên cạnh đó còn rất nhiều tồn tại và vớng mắc cần giải
quyết. Trong phạm vi bài viết chỉ xin đa ra những vấn đề cơ bản nhất:
Thứ nhất, về mặt nhận thức quan điểm, cha có sự thống nhất cao trong
nhận thức về vai trò, vị trí của KTNN và DNNN, về yêu cầu và giải pháp sắp
xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN; nhiều vấn đề cha rõ, còn
nhiều ý kiến khác nhau nhng cha đợc tổng kết thực tiễn để kết luận. Từ đó dẫn
đến cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, cha đồng bộ.
Thứ hai, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của các DNNN
còn thấp, cha tơng xứng với điều kiện và lợi thế có đợc; tốc độ tăng trởng của
DNNN có biểu hiện giảm dần; nợ khó đòi ngày càng lớn; tính năng động của
một bộ phận không nhỏ DNNN còn hạn chế. Theo đánh giá chung, năm 1998
số DNNN thực sự kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm khoảng 40%, số doanh
nghiệp kinh doanh không có hiệu quả liên tục bị thua lỗ chiếm 20%, còn lại
40% doanh nghiệp kinh doanh cha hiệu quả khi lỗ khi lãi. Tỷ suất lợi nhuận tr-
ớc thuế trên vốn nhà nớc của DNNN không cao và có xu hớng giảm dần (Năm
1996 là 11,2 %, năm 1997 là 9,3%, năm 1998 là 9,1%, năm 1999 là 9,2%).
Không ít doanh nghiệp xây dựng d án, kế hoạch không phù hợp với định hớng
phát triển chung của ngành, thiếu tính khả thi; việc bảo toàn vốn của không ít
doanh nghiệp cha tốt, còn có tình trạng ăn vào vốn, mất vốn.
Thứ ba, đầu t đổi mới công nghệ chậm, trình độ công nghệ lạc hậu đang
là cản trở lớn đối với khả năng cạnh tranh và quá trình hội nhập. Theo số liệu
của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trờng, thì trừ một số doanh nghiệp có trình
độ khoa học và công nghệ hiện đại hoặc trung bình của thế giới và khu vực
( sản xuất thiết bị đo điện, sản xuất điện tử, sản xuất sợi dệt ) còn lại máy
móc thiết bị, dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp của ta lạc hậu so với
thế giới và khu vực từ 10 đến 20 năm, thậm chí 30 năm (cơ khí, sản xuất phôi);
trình độ cơ khí tự động hoá dới 10%, mức độ hao mòn hữu hình từ 30% đến
50%. Hậu quả trực tiếp của tình trạng trên là một số mặt hàng sản xuất trong n-
ớc nh sắt thép, phân bón, xi măng, kính xây dựng có mức giá cao hơn giá
nhập khẩu từ 20% đến 40%, riêng đờng thô cao hơn 70% - 80%. Đến tháng
10/2000 cả nớc mới có 236 doanhy nghiệp đợc cấp giấy chứng nhận đạt tiêu
chuẩn ISO/9000, trong đó chỉ có 97 DNNN.
Thứ t, quy mô của DNNN vẫn còn nhỏ, dàn trải, chồng chéo về ngành
nghề và tổ chức quản lý. Đến nay cả nớc có 5771 doanh nghiệp với tổng số vốn
khoảng 116 000 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp có gần 21 tỷ đồng; số
doanh nghiệp có vốn dới 5 tỷ đồng chiếm tới 65,4%. DNNN tập trung vào
những ngành những lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế mà DNNN
nhất thiết phải chi phối.
Thứ năm, lao dộng thiếu việc làm và dôi d có xu hớng ngày càng tăng là
khó khăn lớn, ảnh hởng đến quá trình đổi mới và phát triển DNNN. Theo số liệu
13
của bộ Lao động Thơng binh - Xã hội, hiện nay, số lao độnh không có việc làm
thờng xuyên và mất việc làm ở các doanh nghiệp khoảng 20%, có doanh nghiệp
lên tới 40%. Đây là một thực trạng bức xúc mà ngời viết xin đề cậpcụ thể trong
những phần sau.
Thứ sáu, trình độ quản lý của DNNN phần lớn còn yếu kém cha đáp ứng
yêu cầu của cơ chế thị trờng; nhiều cán bộ quản lý cha đợc đào tạo, đào tạo lại,
cha đáp ứng đợc yêu cầu chuyên môn, còn lúng túng trớc cơ chế thị trờng.
Thứ bảy, cơ chế chính sách quản lý kinh tế, quản lý DNNN còn nhiều
tồn tại vớng mắc cần tháo gỡ.
- Chính sách tài chính, tín dụng tuy đã đợc sửa đổi, bổ sung, nhng vẫn
còn nhều điểm cha phù hợp với loại hình DNNN hoạt động công ích và hoạt
động kinh doanh trong cơ chế thị trờng. Nhà nớc cha đủ điều kiện và cha đòi
hỏi đúng mức để DNNN tự chủ tự tạo trách nhiệm, năng độnh trong sản xuất
kinh doanh, tích tụ vốn đầu t và đổi mới công nghệ; cha xây dựng và phát triển
đợc đồng bộ thị trờng vốn để tạo ra sự chu chuyển thông suốt vốn trong toàn xã
hội, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Chính sách thuế tuy đã đợc sửa
đổi, bổ sung, nhng vẫn còn nhiều bất hợp lý, cha ổn định, cha chú trọng đầy đủ
đến việc nuôi dỡng nguồn thu và phát triển sản xuất kinh doanh , tạo điều kiện
cho tích luỹ vốn. Chế độ kế toán cha tạo điều kiện và buộc DNNN hạch toán
đúng kết quả kinh doanh; phân phối thu nhập cha tạo động lực mạnh mẽ cả đối
với ngời quản lý và ngời lao động. Chính sách tiền lơng và phân phối lợi nhuận
để lại doanh nghiệp cha gắnchặt với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều cơ
chế, chính sách tài chính không còn phù hợp với cơ chế thị trờng nhng cha đợc
sửa đổi chẳng hạn nh : Quỹ dự phòng rủi ro, Quỹ dự phòng thất nghiệp (lấy từ
lợi nhuận để lại cho doanh nghiệp), tiền thu sử dụng vốn
- Về đầu t , việc phân cấp giao quyền quyết định cho doanh nghiệp cha rõ
ràng và không đầy đủ, không chịu trách nhiệm khi phơng án đầu t không hiệu
quả và cha có cơ chế kiểm soát đầu t.
- Về quản lý Nhà nớc, cha phân định rõ các loại quyền nh :quyền quản
lý của Nhà nớc đối với DNNN; quyền của cơ quan Nhà nớc với t cách là chủ sở
hữu ; quyền của đại diện chủ sở hữu trực tiếp với doanh nghiệp ; quyền sử dụng
vốn và quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp ; còn quá nhiều văn bản
pháp qui chồng chéo, thiếu khả thi ; cơ chế phá sản của doanh nghiệp còn cha
đợc thực hiện theo luật phá sản doanh nghiệp (Đại diện ngân hàng sợ mất vốn;
đại diện công nhân viên chức sơ không giải quyết đợc chế độ với công nhân;
lãnh đạo doanh nghiệp sợ mất quyền lợi và truy cứu trách nhiệm).
* Những khó khăn gặp phải trong quá trình cải cách doanh nghiệp.
Cải cách doanh nghiệp là một chủ trơng lớn hiện nay nó có tính chất
quyết định tới sự thành công của sự nghiệp đổi mới. Song hiện nay tiến trình
14
này vẫn cha phát huy hiệu quả. Vấn đề là do đâu? Bài viết xin đề cập đến những
vớng mắc còn tồn tại trong quá trình này với mong muốn góp phần tìm ra giải
pháp.
+ Đầu tiên, xin đề cập tới việc thành lập các tổng công ty 90, 91 . Qua
thực trạng hoạt động cho thấy ở không ít tổng công ty hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp thành viên còn rời rạc, cha tạo lập đợc thực thể
kinh tế thống nhất bằng cơ chế tổ chức và điều hành. Mặc dù có nhiều lợi thế,
song một số tổng công ty cha thực hiện tốt vai trò của mình trong việc bảo đảm
cân đối kịp thời nhu cầu về một số mặt hàng thiết yếu trong sản xuất và đời
sống. Một số tổng công ty tổ chức bộ máy cán bộ quá công kềnh, cha có chính
sách phù hợp, cơ chế quyết định nhân sự hiện hành cha phát huy đợc trách
nhiệm và hiệu lực điều hành quản lý của tổng giám đốc. Tổng giám đốc không
có quyền bổ nhiệm giám đốc thành viên, giám đốc có quyền tuyển dụng lao
động không hạn chế, nhng không có quyền sa thải; tổng giám đốc, giám đốc,
hội đồng quản trị không đợc chủ động bố trí bộ máy doanh nghiệp. Việc quy
định chức năng và nhiệm vụ của tổng giám đốc và của hội đồng quản trị cha rõ
ràng; mối quan hệ của nhiều công ty với các đơn vị thành viên vẫn là hành
chính, cha dựa trên quan hệ tài chính, trách nhiệm và quyền lợi; quan hệ giữa
các đơn vị thành viên với nhau còn mang tính ghép nối cơ học. Một số tổng
công ty vin vào độc quyền để bắt nghẹt ngời tiêu dùng. Nhiều tổng công ty cha
làm tốt chức năng thị trờng, phó mặc cho các đơn vị thành viên.
+ Thứ hai, quá trình cổ phần hoá hiện nay còn nhiều vớng mắc. Trớc hết,
vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá, phong pháp xác định cha
thể hiện rõ xu thế phát triển của doanh nghiệp, còn bỏ sót yếu tố cấu thành quan
trọng là quyền sử dụng đất. Việc đánh giá còn mang tính cảm quan, thoả hiệp
giữa hội đồng doanh nghiệp và doanh nghiệp đợc định giá. Thủ tục còn rờm rà,
phức tạp. Khi tiến hành cổ phần hoá, vẫn cha tách bạch đợc ngời đại diện chủ sở
hữu và ngời quản lý trực tiếp phần vốn tại doanh nghiệp cổ phần hoá, nên xảy ra
tình trạng doanh nghiệp vừa là ngời mua vừa là ngời bán, vừa tham gia định giá,
vừa tổ chức bán cổ phần của Nhà nớc dẫn đến tình trạng chỉ bán nội bộ, hoặc
cố tình không bán ra ngoài để giảm giá hoặc trì hoãn thực hiện cổ phần hoá.
Cha có cơ chế xử lý những công nợ dây da và tài sản không cần dùng ở các
doanh nghiệp cổ phần hoá nên đã làm chậm tiến trình gây tổn thất cho Nhà nớc.
Một vấn đề nữa là chính sách đối với ngời lao động cha bình đẳng khi thực hiện
khống chế tỷ lệ giá trị u đãi trên vốn Nhà nớc nên gây thiệt thòi cho ngời lao
động có ít vốn nhà nớc . NGoài ra, việc giải quyết chính sách lao độnh mất việc,
thôi việc còn mang nặng tính bao cấp, dồn hết gánh nặng cho ngân sách nhà n-
ớc. CHủ trơng là tạo điều kiện cho ngời lao động làm chủ doanh nghiệp thông
qua mua cổ phiếu nhng đa số hội đồng quản trị không có thành viên nào là đại
diện của ngời lao động.
+ Thứ ba là vấn đề xử lý nợ và tài sản tồn đọng của DNNN. Theo kết quả
kiểm kê đến ngày 1/1/2000, tổng số nợ tồn đọng ở các DNNN lên tới 31.935 tỷ
đồng. Trong đó, nợ phải thu quá hạn là 21.218 tỷ đồng và nợ quá hạn là 10.717
15
tỷ đồng. Với tình trạng trên, nhiều doanh nghiệp nhà nớc đã rơi vào tình trạng
lãi không đủ trả nợ. Đó là cha kể đến tổng giá trị tài sản không cần dùng, chờ
thanh lý ở các DNNN hiện lên tới 3285 tỷ đồng, và trên 300 tỷ đồng nợ khó đòi
và tài sản không cần dùng, chờ thanh lý đã đợc loại trừ khi thực hiẹn chuyên đổi
sở hữu hơn 700 doanh nghiệp và bộ phận DNNN cha đợc xử lý triệt để đang
giao cho các công ty cổ phần giữ hộ. Tình trạng trên khiến cho một khối lợng
không nhỏ của cải vật chất của xã hội không đợc khai thác, sử dụng là nguy cơ
tiềm ẩn cho nền kinh tế.
+ Cuối cùng là vấn đề lao động dôi d trong sắp xếp DNNN. Theo số liệu
của Bộ Lao động, Thơng binh và Xã hội, hiện nay cả nớc có khoảng 100.000
lao động dôi d từ quá trình đổi mới, sắp xếp lại DNNN, nhng không thể bố trí đ-
ợc việc làm, cũng nh vẫn cha đợc hởng theo chế độ quy định hiện hành. Hiện
nay số lao động trong các DNNN là 1,7 triệu ngời xấp xỉ bằng con số của năm
1991 (trong khi số lợng DNNN đã giảm hơn một nửa). Theo lộ trình sắp xếp
DNNN từ nay đến năm 2003, số lao động bố trí đợc việc làm là khoảng 150.000
ngời. Đó là cha kể số lao động d thừa còn khoảng 200.000 ở các doanh nghiệp
vẫn giữ 100% vốn Nhà nớc. Đây là một gánh nặng cho sự phát triển cả trong
hiện tại lẫn tơng lai.
III. Nguyên nhân.
Để phân tích nguyên nhân hoạt động kém hiệu quả của DNNN hiện nay
chúng ta phải nhìn nhận toàn diện. Về đại thể có thể chia làm hai nhóm nguyên
nhân:
1. Nguyên nhân khách quan - Sự kìm hãm của những di sản lịch sử.
Các DNNN của nớc ta hiện nay, trừ phần nhỏ đợc thành lập mới trong giai
đoạn cải cách, đa phần là doanh nghiệp cũ dế thừa từ thời bao cấp với các đặc
trng nh công nghệ kỹ thuật lạc hậu không có nguồn thay thế. Theo thống kê của
bộ công nghiệp thì thiết bị của DNNN hiện nay có 26% của Liên Xô (cũ), 24%
của các nớc Đông Âu, 20% của các nớc ASEAN và Bắc Âu, trên 18% là của
các nớc khác, còn trong nớc chỉ chế tạo cha đến 12%; nguồn vốn khấu hao để
tái sản xuất giản đơn cũng cha đủ do chế độ trích nộp khấu hao vào ngân sách
Nhà nớc những năm trớc; lao động vừa thiếu ( thiếu lao động lành nghề) vừa
thừa ( lao động không đáp ứng yêu cầu của công việc) song cha có cơ chế giải
quyết; cơ cấu DNNN không hợp lý, không có khả năng tự đổi mới công nghệ
cũng nh ngành nghề v.v. Gánh nặng lịch sử đó không phải chúng ta có thể khắc
phục trong ngày một ngày hai. Để thoát ra khỏi tình thế quẫn bách đó, chúng ta
cũng không thể dùng giải pháp phá đi làm lại bởi năng lực sản xuất của đất nớc
và đời sống của nhiều con ngời trong cậy vào đây. Chúng ta chỉ có thể gỡ rối
dần dần, vừa cải tổ vừa giữ ổn định kinh tế và xã hội. Chính vì thế hiệu quả của
hệ thống DNNN cha thể cải thiện nhanh.
16