Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Tiểu luận cao học báo chí truyền thông – hoàn cảnh ra đời và phát triển trong điều kiện kinh tế xã hội hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.93 KB, 63 trang )

Đề tài:
Báo chí truyền thông – Hoàn cảnh ra đời và phát triển trong điều kiện
kinh tế xã hội hiện đại


SỰ RA ĐỜI VÀPHÁT TRIỂN CỦA BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG

1. Khái niệm Báo chí-Truyền thông (LAN ANH)
Khái niệm Truyền Thông
Theo John R.hober (1954), truyền thông là quá trình trao đổi
tư duy hoặc ý tưởng bằng lời.
Theo Martin P. Adelsm thì cho rằng, truyền thông là quá trình
trao đổi liên tục qua đó chúng ta hiểu được người khác và làm cho
người khác hiểu được chúng ta. Đó là một quá trình luôn thay đổi,
biến chuyển và ứng phó với tình huống.
Theo quan niệm của Dean C. Barnlund (1964), truyền thông
là quá trình liên tục nhằm làm giảm độ không rõ rang để có thể có
hành vi hiệu quả hơn.
Theo Frank Dance (1970) truyền thong là quá trình làm cho
cái trước đây là độc quyền của một hoặc vài người trở thành cái
chung của hai hoặc nhiều người. Tức là truyền thong giúp phá vỡ
tính độc quyền, và quá trình truyền thông có thể phá bỏ tính
chuyên quyền.
Theo S. Schaehter, “truyền thong là một quá trình qua đó
quyền lực được thể hiện và tính độc quyền tăng lên”
Theo Geald Miler (1966) về cơ bản, truyền thong quan tâm
nhất đến tình huống hành vi. Trong đó nguồn truyền nội dung đến
người nhận với mục đích tác động đến hành vi của họ.


Ngoài ra có thể dẫn ra hàng tram định nghĩa quan điểm khác


nhau về truyền thong. Mỗi định nghĩa để có những khía cạnh hợp
lý riêng. Tuy nhiêm các định nghĩa quan điểm khác nhau này vẫn
có những điểm chung với nét tương đồng rất cơ bản; đồng thời lại
có những hạn chết nhất định.
Truyền thông có hốc từ tiếng Latinh là “communicare” nghĩa
là biến nó thành thong thường (hay thực tế), chia sẻ, truyền tải
thành cái chung. Truyền thong thường mô tả như việc truyền ý
nghĩ, thông tin, ý tưởng, ý kiến hoặc kiến thức từ một người/một
nhóm người/hoặc một nhóm người khác bằng lời nói, hình ảnh,
văn bản hoặc loại ký hiệu khác….
Về thực chất, đó chính là quá trình trao đổi, tương tác thong
tin, tư tưởng, tình cảm, kiến thức và kinh nghiệm với nhau về các
vấn đề của đời sống cá nhân/nhóm/xã hội theo hướng có lợi cho
cộng đồng, cho sự phát triển bền vững. Mục đích cuối cùng của
truyền thông là trao đổi nhận thức, thái độ, hành vi xã hội đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững của cộng đồng xã hội.
Từ các quan điểm trên đây và thực tiễn vận động của truyền
thông, trong cuốn cơ sở lý luận báo chí của PGS. TS Nguyễn Văn
Dững đã đưa ra một định nghĩa chung nhất về truyền thông như
sau: “Truyền thông là quá trình trao đổi liên tục trao đổi thông tin,
tư tưởng, tình cảm…, chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai
hoặc nhiều người với nhau nhằm mở rộng hiểu biết, nâng cao
nhận thức, tiến tới điều chỉnh hành vi và thái độ phù hợp với nhu


cầu phát triển của cá nhân, của nhóm và cộng đồng xã hội nói
chung, bảo đạm sự phát triển bền vững”
Dưới góc độ tiếp cận của xã hội học, truyền thông là một
trong những dạng căn bản nhất của hành vi con người. Theo
Cooley: “Đó là cơ chế để các liên hệ con người tồn tại và phát

triển”. Theo bài viết “Truyền thong và phát triển”, tạp chí người
làm báo, 29/11/2007 của Mai Quỳnh Nam cho rằng, “truyền thông
là một phạm trù cơ bản, qua đó các hệ thống xã hội được hình
thành, phát triển. Thông qua truyền thông các thành tố xã hội, hệ
thống con người, các hệ thống xã hội bao gồm cả hệ thống nhỏ,
hệ thống lớn liên tiếp được cải biến và phân hoá… thông qua
truyền thong các giá trị và chuẩn mực được chuyển giao và xã hội
hoá. Mẫu truyền thông ảnh hưởng tới các diễn biến hành động
hình thành và củng cố các hệ thống xã hội. Với ý nghĩa đó truyền
thông được xem như một thao tác xã hội”
Khái niệm Báo Chí
Báo chí trong quan niệm dân gian
Trong xã hội việt Nam ngày trước báo chí nhiều khi được ví
như “thằng Mõ”. Thằng mõ là người mếch lẻo, thóc mách, đưa
chuyện, là người hóng hớt…
Theo Ts Huỳnh Văn Tòng thằng mõ thường là một người
ngheo vô nghề nghiệp có nhiệm vụ thong báo theo chỉ thị của các
chức sắc trong lãng xã Việt Nam, tồn tại cho đến năm sáu mươi
của thể kỷ XX ở bờ nam vĩ tuyến 17. Người này còn có nhiệm vụ


tuàn tra ban đêm từng hối mõ báo hiệu giờ giấc hoặc các sự cố
thường dưới sự hướng dẫn của viên chức làng xã. Như vậy thằng
mõ đã một thời có vai trò trong đời sống của cư dân nông thong
Việt Nam xưa.
Dưới góc độ báo chí truyền thông ở Việt Nam thì thằng mõ
được xem là một dạng thức “người đưa tin” cổ xưa và sơ khai.
Ở một khía cạnh khác, báo chí được hiểu là phương tiện
thong báo thong tin về những sự việc mới diễn ra hang ngày cho
nhiều người biết. Báo chí là phương tiện thông tin thời sự, phương

tiện giao tiếp xã hội; là diễn đàn cung cấp trao đổi và chia sẻ
thông tin và chia sẻ thông tin công khai.
Ở góc tiếp cận từ lý thuyết trong cuốn giáo trình nghiệp vụ
báo chí, tập I, khoa Báo chí, trường Tuyên huấn TW thì “Báo chí
được coi là những tư liệu sinh hoạt tinh thần nhằm thônh tin và
nói rõ về những sự kiện thời sự đã và đang diễn ra cho một nhóm
đối tượng nhất định, nhằm mục đích nhất định, xuất bản định kỳ,
đều đặn”
Hai quan niệm báo chí đối lập
Theo quan điểm của giai cấp tư sản: Báo chí là phương tiện thông
tin sự kiện, khách quan độc lập và không phụ thuộc vào chính trị,
không can dự vào cuộc đấu tranh giai cấp
Theo quan điểm của giai cấp vô sản: báo chí là công cụ tuyên
truyền, là phương tiện đấu tranh giai cấp trên mặt trận tư tưởng –


văn hoá; báo chí là bộ phận không thể tách rời trong bộ máy tổ
chức của đảng cộng sản; là cơ quan ngôn luận của đảng.
Khái niệm báo chí tiếp cận từ quan điểm hệ thống
Trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị khác nhau, dù cho
quan điểm chính sách và phương thức khai thác, sử dụng báo chí
khác nhau những giữa chúng vẫn có những điểm chung.
Theo cuốn cơ sở lý luận báo chí của PGS. TS Nguyễn Văn
Dững thì điểm chung này xuất phát từ bản chất của báo chí
truyền thông – Báo chí là hoạt động thông tin – giao tiếp xã hội
trên quy mô rộng lớn nhất, là công cục và phương thức kết nối xã
hội hữu hiệu nhất, là công cụ và phương thức can thiệp xã hội
hiệu quả nhất trong mối quan hệ với công chúng và dư luận xã
hội, với nhân dân và với các nhóm lợi ích, với các nước khu vực và
quốc tế…

* Truyền thông là khái niệm có thể được tiếp cận dưới hai cấp
độ.
Thứ nhất, truyền thông là hiện tượng xã hội, được nhìn
nhận như một quá trình liên tục thông tin, kiến thức, tư tưởng,
tình cảm, chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều
người nhằm gia tăng sự hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức,
tiến tới điều chỉnh thái độ và hành vi xã hội.
Truyền thông là một hiện tượng xã hội phổ biến, ra đời phát
triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người, có tác động và
liên quan đến mọi cá thể xã hội. Hiểu theo nghĩa rộng truyền


thông là một quá trình liên tục trao đổi, tương tác thông tin, tư
tưởng tình cảm, kiến thức và kinh nghiệm với nhau về các vấn đề
của đời sống cá nhân, xã hội, từ đó làm tăng sự hiểu biết, hình
thành hoặc thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi theo hướng có lợi
cho sự phát triển bền vững của cộng đồng xã hội.
Về bản chất các hoạt động này đều là hoạt động giao tiếp cơ
bản của con người nhằm cung cấp thông tin, hình thành sự hiểu
biết và làm thay đổi hành vi nhận thức của họ.
Dưới góc độ xã hội học thì truyền thông là quá trình xã hội.
Max Weber cho rằng quá trình xã hội diễn ra dưới tác động của
truyền thông đại chúng bằng sự liên kết của các yếu tố: nguồn
tin, thông điệp, người nhận. Các yếu tố này có sự liên hệ chặt chẽ
với nhau, tạo ra hiệu ứng xã hội của truyền thông và sẽ không có
hiệu ứng xã hội nào khi các kênh truyền thông đại chúng truyền
thông điệp mà không có người nhận. Quan điểm này cho thấy mối
quan hệ biện chứng giữa báo chí và công chúng và để đạt được
hiệu quả truyền thông thì việc nghiên cứu công chúng có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Cũng theo Mai Quỳnh Nam, trong một chu

trình truyền thông thì phản hồi (feedback) là yếu tố quan trọng
nhất của quá trình truyền thông.
Thứ hai, tiếp cận ở bình diện quan điểm cấu trúc chức năng
– bản chất xã hội, truyền thông được nhìn nhận như một
thiết chế kiến tạo xã hội, là phương tiện và phương thức thông
tin giao tiếp xã hội, phương tiện và phương thức kết nối xã hội, là


phương tiện và phương thức can thiệp xã hội, là phương tiện và
phương thức phục vụ quyền lực chính trị.
Truyền thông là thiết chế xã hội rộng lớn hoạt động trong mối
quan hệ với mỗi cá nhân cũng như các thiết chế xã hội khác một
cách thường xuyên, liên tục, trong đó, truyền thông đại chúng và
báo chí có thể được coi là những hạt nhân có vai trò chi phối sức
mạnh, khuynh hướng và tính chất của nền truyền thông xã hội nói
chung. Với tư cách là thiết chế kiến tạo xã hội, truyền thông có
thể đảm nhận vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hình
thành và thực thi chính sách công, bảo đảm huy động nguồn lực
sáng tạo, trí tuệ và cảm xúc của nhân dân trong quá trình phát
triển, nhất là bảo đảm phát triển bền vững.

Tài liệu tham khảo:
- Cơ sở lý luận báo chí của PGS. TS Nguyễn Văn Dững
2. Bản chất xã hội của hoạt động báo chí (ĐỨC ANH)
Báo chí là loại hình hoạt động thông tin chính trị xã hội có những chức năng
xã hội của mình. Chỉ có hiểu những chức năng xã hội của báo chí là gì; bao gồm
những chức năng nào; được thực hiện bằng cách nào ... thì mới có thể bàn đến nội
dung của hoạt động báo chí.
Phần 1: Khái niệm
1. Thuật ngữ chức năng:

- Theo từ điển tiếng Việt: Chức năng là:


+ Hoạt động, tác dụng bình thường hoặc đặc trưng của một cơ quan, một hệ
cơ quan nào đó trong cơ thể.
+ Tác dụng, vai trò bình thường hoặc đặc trưng của một người nào đó, một
cái gì đó.
2. Chức năng xã hội của báo chí:
- Từ thuật ngữ chức năng báo chí (đồng nghĩa với các thuật ngữ sứ mệnh; bổn
phận vốn có của báo chí, cái báo chí sinh ra để làm), ta hiểu được vị trí, vai trò và
tác dụng của báo chí trong đời sống xã hội.
Sự ra đời và tồn tại của báo chí đã khẳng định một cách khách quan vị trí, vai
trò và tác dụng của báo chí trong đời sống xã hội. Tổng hợp vị trí, vai trò và tác
dụng của báo chí cũng chính là chức năng xã hội của báo chí.
Toàn bộ hoạt động của con người (hoạt động có ý thức), trong đó có hoạt động
báo chí luôn mang đặc điểm mục tiêu. Con người chỉ bắt tay vào hoạt động khi đã
xác định được mục tiêu, dự định đạt được kết quả mong muốn. Đối với nhà báo xác định mục tiêu hoạt động phải phù hợp với những chức năng xã hội của báo chí.
Thiếu hiểu biết đầy đủ về chức năng báo chí hoạt động của nhà báo có thể sẽ mâu
thuẫn với những chức năng vốn có của báo chí.
Chức năng của báo chí được hình thành không phải là do sự áp đặt một cách
chủ quan từ đâu đó hay từ ai đó, mà tồn tại một cách khách quan trên cơ sở những
quy luật nội tại của báo chí.
Nói về tính khách quan của những chức năng trên cơ sở của những quy luật nội
tại của báo chí - C.Mác viết: "... muốn cho báo chí có thể hoàn thành sứ mệnh của
mình thì trước hết cần phải không có áp lực nào từ bên ngoài vào, cần phải thừa
nhận là báo chí có những quy luật nội tại của mình". (C.Mác và Ph. Ăng-ghen
Toàn tập; Tập 1, tr.227).
Vậy những nhiệm vụ khách quan đó của báo chí là gì?
Do có vị trí đặc biết trong hệ thống xã hội và có ảnh hưởng to lớn đến các mặt
của đời sống xã hội, vai trò của báo chí không chỉ thể hiện trong số lượng các mối

quan hệ, trong khối lượng và ý nghĩa của những thông tin về các lĩnh vực mà báo
chí phản ánh, mà còn ở chất lượng của các mối qaun hệ đó, có nghĩa là mở rộng


phạm vi chiếm lĩnh thực tế, chú ý tới các lĩnh vực mới, thu hút các đối tượng công
chúng mới, thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu thông tin của công chúng ... Do đó,
nhận thức rõ nhiệm vụ khách quan (chức năng) của báo chí là rất phức tạp.
Lý luận báo chí của chủ nghĩa Mác- Lê nin và thực tiẽn hoạt động của báo chí
cách mạng đã cho thấy báo chí tác động tới xã hội theo nhiều khuynh hướng, thực
hiện một số nhóm chức năng: Chức năng tư tưởng, chức năng quản lý - giám sát xã
hội, chức năng khai sáng - giải trí, chức năng kinh doanh ...
Phần 2: Các chức năng xã hội của báo chí
I. CHỨC NĂNG TƯ TƯỞNG
- Hoạt động tư tưởng là hoạt động tác động vào thế giới tinh thần của con người
hình thành hệ ý thức xã hội cho phù hợp với những mục tiêu đã xác định.
Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng luôn coi trọng công tác tư tưởng,
coi công tác tư tưởng là một trong số những công tác quan trọng nhất, song song
với công tác tổ chức và công tác kiểm tra.
Nội dung công tác tư tưởng của Đảng ta:
- Truyền bá hệ tư tưởng.
- Truyền bá Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng.
Mục đích của công tác tư tưởng:
- Để quần chúng nhân dân biến hệ tư tưởng của Đảng thành hệ tư tưởng của
quần chúng nhân dân.
- Để giác ngộ, nâng cao tính tự giác cho quần chúng nhân dân.
- Để bồi dưỡng niềm tin, tình cảm cách mạng, cổ vũ hành động.
Các loại hình của công tác tư tưởng:
- Hoạt động lý luận (Quán triệt và phổ biến hệ tư tưởng; Tổng kết thực tiễn để
hình thành đường lối chiến lược, chủ trương, chính sách).
- Hoạt động tuyên truyền.



- Hoạt động cổ động.
(Khi đã có đường lối chiến lược, Chủ trương, chính sách ... thì tuyên truyền và
cổ động cho chúng).
Các công cụ tư tưởng:
- Hệ thống các trường lớp chính trị.
- Sinh hoạt tư tưởng theo các cơ quan, đoàn thể, đơn vị, tổ chức ...
- Đội ngũ báo cáo viên.
- Bảo tàng, Triển lãm, Pa nô, Áp phích, Các đội tuyên truyền ...
- Văn học nghệ thuật.
- Báo chí (bao gồm các loại hình) là công cụ đặc biệt quan trọng.
Trong số các công cụ tư tưởng của Đảng thì báo chí đóng vai trò cực kỳ quan
trọng. Chính vai trò, tác dụng của báo chí trong việc giáo dục chính trị, lãnh đạo tư
tưởng đối với quần chúng nhân dân đã tạo thành nhóm chức năng tư tưởng của báo
chí. Báo chí là công cụ tư tưởng quan trọng bởi lẽ báo chí hàng ngày hàng giờ
thông qua hoạt động chuyển tải thông tin truyền bá hệ tư tưởng của Đảng vào quần
chúng nhân dân, hướng tính tích cực xã hội của quần chúng nhân dân vào việc thực
hiện những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt ra.
Nhóm chức năng tư tưởng của báo chí bao gồm các thành tố:
1. Chức năng mục tiêu:
- Lý luận báo chí cách mạng đã chỉ rõ ý nghĩa to lớn của báo chí trong việc
hình thành đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân. Vai trò của báo chí cũng
tăng nhanh đồng hành với sự phất triển của xã hội cùng với việc mở rộng quy mô
của các hoạt động xã hội và thu hút quần chúng nhân dân tham gia vào các phong
trào, các hoạt động xã hội.
- Báo chí làm nhiệm vụ khách quan là chuyển tải thông tin một cách nhanh
chóng, toàn diện và có định hướng. Cũng như mọi hoạt động khác của con người,
hoạt động báo chí bao giờ cũng hướng tới những mục tiêu xác định. Mục tiêu của
hoạt động báo chí là nâng cao tính tự giác cho đối tượng công chúng. (Tự giác là



làm việc gì tự mình hiểu mà làm, không cần phải nhắc nhở, đốc thúc). Để nâng
cao tính tự giác cho công chúng, báo chí phải nâng cao nhận thức và tự nhận
thức cho họ. Nhận thức và tự nhận thức nằm trong mối quan hệ biện chứng. Nhận
thức (là khả năng của con người phản ánh và tái hiện hiện thực vào tư duy) - là
toàn bộ những tri thức về thế giới xung quanh: những quy luật, những hiện tượng,
những khuynh hướng, những quá trình của đời sống xã hội. Còn tự nhận thức là
hiểu được vị trí của mình trong thế giới, trong các mối quan hệ xã hội; hiểu được
mục đích, ý nghĩa của cuộc sống, hiểu được mục đích và yêu cầu, hiểu được cách
thức để đạt được mục đích và thỏa mãn những nhu cầu ấy ... Sự tự giác là kết quả
của nhận thức và tự nhận thức. Tự giác là động lực mạnh mẽ của hành vi, nó quy
định tính tích cực xã hội của con người.
-

Để thực hiện tốt chức năng mục tiêu – báo chí phải:

+ Giúp cho công chúng nhận thức thế giới khách quan một cách toàn diện,
sâu sắc và đúng đắn.
+ Định hướng xã hội cho công chúng một cách toàn diện, đúng đúng đắn và
khoa học.
2. Chức năng định hướng.
Để nâng cao tính tự giác cho đối tượng công chúng đòi hỏi báo chí phải định
hướng cho họ một cách toàn diện và đúng đắn.
Định hướng xã hội - là tác động, giáo dục, giúp đỡ cho công chúng hiểu và
đánh giá đúng các sự kiện, hiện tượng của đời sống xã hội để từ đó họ xác định
được mục tiêu, khuynh hướng và đặc điểm hành vi của mình.
Sự định hướng như vậy thể hiện ở các mặt:
- Thứ nhất: Qua thông tin báo chí cung cấp giúp cho công chúng hiểu được
cái gì đang diễn ra. Sự định hướng bắt đầu từ hiểu biết tất cả các sự kiện hàng ngày

diễn ra trong thế giới xung quanh để tạo thành bức tranh toàn cảnh về thế giới
khách quan của con người mà con người sống trong nó. Đối với báo chí, mô hình
thông tin, hệ thống các khái niệm về cuộc sống là rất quan trọng.


- Thứ hai: Qua việc cung cấp thông tin báo chí giúp cho công chúng xác định
rõ được rằng trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể cần đạt tới cái gì, cả về trước
mắt, cả về lâu dài từ quan điểm chính thống.
- Thứ ba: Sự định hướng được thể hiện qua việc đánh giá các sự kiện, hiện
tượng, các quá trình, các khuynh hướng, các nhân vật ... (Đương nhiên là từ quan
điểm chính thống). Sự đánh giá đó sẽ có sức thuyết phục, tác động mạnh mẽ tới đối
tượng khi nó như là những kết luận được rút ra từ việc phân tích các sự kiện, hiện
tượng, các quá trình, các khuynh hướng, các nhân vật ... ấy của thực tiễn (từ quan
điểm chính thống).
- Thứ tư: Sự định hướng còn thể hiện ở việc phổ biến những giá trị, những
chuẩn mực, những phương thức, phương pháp hoạt động ... nhằm thực hiện những
mục tiêu đề ra và đạt được những kết qủa cao nhất trong những điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể.
Kết quả định hướng của báo chí đến mức nào phụ thuộc vào mức độ công khai
các vấn đề của đời sống xã hội; vào sự dễ hiểu, cập nhật của thông tin; vào khả
năng phản ánh và xem xét công khai, thẳng thắn các vấn đề của đời sống xã hội
trên báo chí.
Định hướng của báo chí trong thực tế có thể toàn diện, sâu sắc và đúng đắn; có
thể toàn diện nhưng không sâu sắc và đúng đắn; và cũng có thể là rất yếu kém. Báo
chí cách mạng - với bản chất giai cấp và vai trò lịch sử của mình - phải định hướng
một cách sâu sắc, toàn diện và đúng đắn, hình thành ý thức khoa học và tiến bộ cho
công chúng xã hội, làm sao để công chúng báo chí nhận thức đúng về thế giới xung
quanh, hiểu được vị trí và vai trò của mình để lựa chọn thái độ và hành vi cho phù
hợp. Định hướng xã hội toàn diện, sâu sắc, đúng đắn và khách quan sẽ tác động
trực tiếp tới hoạt động của công chúng trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc, thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ xã hội đã đề ra.
Báo chí thực hiện chức năng mục tiêu, hình thành tính tự giác thông qua định
hướng xã hội một cách toàn diện, sâu sắc, đúng đắn và khách quan - mang đặc
điểm tổng hợp; có nghĩa là báo chí phải tác động tới các mặt của thế giới tinh thần,
tới toàn bộ các bộ phận cấu thành của cấu trúc ý thức xã hội: Thế giới quan; Ý thức
lịch sử, văn hóa và Dư luận xã hội.


3. Chức năng giáo dục chính trị tư tưởng.
Chức năng giáo dục chính trị tư tưởng của báo chí được thể hiện ở sự giáo dục,
bao gồm giáo dục thường xuyên và giáo dục lại đối với công chúng báo chí.
Giáo dục - là hoạt động nhằm hình thành ý thức ở đối tượng. Khi nhận được
những thông tin (về quá khứ và hiện tại, về những quy luật vận động và phát triển
của xã hội, về những giá trị và chuẩn mực của cuộc sống ...) tạo ra sự thay đổi về
chất trong mỗi con người. Nếu những thông tin tiếp nhận ấy là chân thực và khách
quan thì quan điểm riêng được hình thành sẽ là tích cực (và ngược lại). Để đạt
được hiệu quả giáo dục, báo chí khi truyền bá những thông tin về thực tiễn phải
giúp cho công chúng hiểu biết được những quy luật, những sự kiện, hiện tượng,
những quá trình của đời sống xã hội, phải quan tâm đến việc tạo ảnh hưởng tư
tưởng mạnh mẽ tới họ, phải phối hợp và gắn với những giá trị, những chuẩn mực,
những tư tưởng hiện hành, có nghĩa là gắn với chức năng mục tiêu của hoạt động
thông tin, với toàn bộ các hình thức định hướng xã hội.
Nội dung quan trọng nhất của giáo dục là hình thành tư duy kinh tế, giáo dục ý
thức chính trị, ý thức lao động, ý thức đạo đức, ý thức luật pháp, tinh thần yêu
nước ... và đấu tranh chống lại những tư tưởng và những chuẩn mực đạo đức xa lạ.
Hoạt động giáo dục trong báo chí góp phần tạo ra niềm tin của công chúng. Sự
xuất hiện của niềm tin đối với báo chí - đó là kết quả của việc tiếp thu thông tin cá
nhân, hình thành từ sự tin tưởng vào những phản ánh, phân tích và đánh giá, đề
xuất, kiến nghị và kết luận của báo chí. Niềm tin đối với báo chí khác với đức tin
trong tôn giáo. Đức tin trong tôn giáo là sự ngộ nhận thiếu bằng chứng ... còn niềm

tin đối với báo chí được hình thành từ báo chí và do báo chí - thông qua những
bằng cớ xác thực của thực tiễn. (Thông qua kỹ năng phản ánh, phân tích, đánh giá
các sự kiện, hiện tượng, các quá trình, các khuynh hướng ... hàng ngày của báo
chí). Do vậy, để hình thành niềm tin của công chúng, đòi hỏi báo chí phải sử dụng
một cách linh hoạt và sáng tạo các phương pháp tái tạo thực tiễn trong các tác
phẩm báo chí, vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo những đặc điểm, những
quy luật của hoạt động tuyên truyền, cổ động và tổ chức mà nhờ những phương
pháp này thực hiện một cách hiệu quả nhiệm vụ giáo dục của báo chí.
- Tuyên truyền: là hoạt động truyền bá những tư tưởng nền tảng, quan điểm cơ
bản của hệ tư tưởng của chế độ. Nội dung tuyên truyền cơ bản:


+ Tuyên truyền hệ tư tưởng.
+ Tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
+ Tuyên truyền các quan niệm khái quát về thời đại.
+ Tuyên truyền hình thành lối sống mới.
- Cổ động: là hoạt động của báo chí để phổ biến những thông tin thời sự, tác
động tích cực và có định hướng vào lập trường, thái độ, tình cảm ... của công
chúng. Bằng những thông tin phản ánh các sự kiện, hiện tượng hàng ngày về thực
tiễn, cổ động được thể hiện trong những đánh giá rõ ràng nhằm hình thành nên mối
quan hệ của công chúng với các sự kiện, hiện tượng ấy cho phù hợp với ý nghĩa
của nó, định hướng hoạt động cho công chúng.
- Tổ chức: Kết quả hoạt động tuyên truyền và cổ động của báo chí được phản
ánh trong việc hình thành ý thức và tự ý thức ở công chúng, trong việc giáo dục ý
thức, trong việc định hướng toàn diện, sâu sắc và đúng đắn (khoa học). Đó là bước
đi đầu tiên, quan trọng của công tác tổ chức. Nó tạo điều kiện quan trọng và cần
thiết cho tính tích cực trong các hoạt động xã hội của công chúng để chuyển sang
bước thứ hai: tập hợp và hướng dẫn hoạt động của công chúng nhàm thực hiện
những mục tiêu chung của xã hội trong từng giai đoạn xã hội cụ thể.
Tuyên truyền, cổ động và tổ chức có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đan xen

trong nhau, là điều kiện và tiền đề của nhau khó có thể phân định rạch ròi.

II. CHỨC NĂNG QUẢN LÝ - GIÁM SÁT XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ
1. Khái niệm.
a). Quản lý - là sự tác động có ý thức, có hệ thống của chủ thể quản lý tới khách
thể quản lý nhằm đảm bảo cho khách thể quản lý hoạt động có hiệu quả trong việc
thực hiện những mục tiêu đã đề ra.
b). Quản lý xã hội - khách thể quản lý là những tổ chức, những đơn vị, những cơ
quan, đoàn thể, những cá nhân thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội,
của cả xã hội nói chung. Xã hội bản thân nó là một thực thể cực kỳ đa dạng và
phức tạp về số lượng và chất lượng của các bộ phận cấu thành, về vị trí của chúng


trong hệ thống xã hội, về chức năng xã hội của chúng, về tính chất của sự tác động
lẫn nhau giữa chúng với nhau và giữa chúng với thế giới xung quanh. Mỗi một
khách thể đó lại thuộc về một lớp những hệ thống hỗn hợp (chủ thể quản lý) lớn
hơn (bao gồm cả yếu tố con người và sự vật).
c). Bản chất của hoạt động quản lý - Chủ thể quản lý tác động tới khách thể quản
lý bằng thông tin dưới dạng các quyết định quản lý. Hoạt động quản lý do vậy luôn
gắn với quá trình thu thập, xử lý thông tin để soạn thảo các quyết định quản lý và
khi đã có quyết định quản lý thì phổ biến những quyết định quản lý ấy một cách
nhanh chóng, đầy đủ ... tới khách thể quản lý.
Hoạt động quản lý là hoạt động mang tính chu kỳ. Bất kỳ một chu kỳ quản lý
nào cũng bắt đầu từ việc thu thập, xử lý thông tin và kết thúc bằng việc thu nhận
những thông tin và cũng là điểm bắt đầu của chu kỳ quản lý mới. Việc khởi thảo
chiến lược quản lý (những mục tiêu và nhiệm vụ lâu dài), soạn thảo và lựa chọn
các quyết định quản lý, tổ chức thực hiện các quyết định quản lý, điều chỉnh và
kiểm tra, tổng kết và đánh giá ... cũng xuất phát từ việc thu thập thông tin, xử lý
những thông tin thu thập được và kết thúc bằng việc phổ biến những thông tin mới.
Như vậy, quản lý xã hội không thể tách rời quá trình liên tục sản xuất và tái

sản xuất thông tin.
Hiệu quả của hoạt động quản lý do vậy bị quy định bới sự "nhiễu thông tin" và
trình độ, năng lực của chủ thể quản lý.
- Nhiễu thông tin - là những yếu tố bên ngoài tác động thường xuyên, liên tục
(cả tác động tích cực, cả tác động tiêu cực) vào quá trình quản lý. Sự tác động như
vậy rất đa dạng. Một số có tác động với cường độ yếu, tác động trong một thời
gian ngắn. Số khác tác động yếu nhưng lại thường xuyên hoặc lâu dài không làm
rối loạn nghiêm trọng cơ cấu và chức năng của cả hệ thống. Thông tin đầy đủ và
kịp thời về những tác động "nhiễu" như vậy tạo điều kiện cho chủ thể quản lý ổn
định hệ thống trong trường hợp "nhiễu" yếu và thời gian tác động ngắn, và thích
ứng, thích nghi trong trường hợp tác động "nhiễu" thường xuyên hay lâu dài. Có
những tác động "nhiễu" phá hoại cơ cấu quản lý và gây rối loạn các chức năng của
cả hệ thống hay một số bộ phận cấu thành nào đó của hệ thống quản lý. Để khắc
phục - chủ thể quản lý phải khôi phục cơ cấu chức năng nhằm ổn định hệ thống,
duy trì hoạt động của hệ thống. Để làm được điều đó cần phải thu thập thông tin


đầy đủ và chính xác không những chỉ về bản thân các yếu tố gây nhiễu, mà còn cả
những thông tin về trạng thái bên trong của hệ thống, về tiềm năng và khả năng
khôi phục những chức năng và những bộ phận của cơ cấu bị rối loạn.
- Trình độ, năng lực của chủ thể quản lý - Hiệu quả của hoạt động quản lý phụ
thuộc vào khả năng của chủ thể quản lý trong việc thu thập thông tin (bao gồm cả
thông tin về thực trạng tình hình của đối tượng quản lý, cả thông tin về những yếu
tố gây nhiễu), xử lý thông tin (tiếp thu những tác động có lợi, loại bỏ các tác động
có hại để soạn thảo và đề ra các biện pháp phù hợp để tổ chức thực hiện các quyết
định quản lý. Hiệu quả của hoạt động này phụ thuộc vào trình độ đảm bảo đầy đủ
thông tin cho hệ thống quản lý, vào kinh nghiệm xử lý các mối quan hệ tác động
qua lại giữa hệ thống quản lý với đối tượng quản lý, vào kinh nghiệm xử lý các
tình huống, các vấn đề có liên quan đến những tác động có hại đã được ghi lại và
bảo quản nhờ hệ thống lưu giữ thông tin ...) và phổ biến thông tin (các hình thức

và phương thức phổ biến các Quyết định quản lý).
Như vậy, quản lý có mối liên hệ hữu cơ với thông tin và diễn biến của quá trình
thông tin. Sự tuần hoàn liên tục của thông tin giữa các bộ phận cấu thành trong hệ
thống xã hội, giữa hệ thống với môi trường xung quanh là một thuộc tính không
thiếu được của quản lý. Nhờ có thông tin mà hệ thống quản lý có khả năng thực
hiện được sự tác động qua lại hợp lý với môi trường xung quanh, phối hợp và quy
định mối quan hệ giữa các bộ phận của hệ thống, hướng sự vận động của các bộ
phận này và cả hệ thống vào việc thực hiện những mục tiêu đã đề ra. Nhờ vậy, hệ
thống quản lý có khả năng duy trì sự ổn định, phát triển và hoàn thiện hệ thống.
2. Chức năng quản lý - giám sát của báo chí.
Báo chí thực hiện chức năng quản lý xã hội bằng việc cung cấp và duy trì dòng
thông tin tuần hoàn trong cơ thể xã hội theo cả 2 chiều. Một mặt, với khả năng
nhanh chóng, kịp thời, chính xác và rộng khắp, báo chí (gồm tất cả các loại hình:
báo in; phát thanh; truyền hình; báo mạng điện tử) là những phương tiện có ưu thế
tuyệt đối trong việc chuyển đến khách thể quản lý những thông tin dưới dạng các
quyết định quản lý. Mặt khác, báo chí phản ánh thực trạng tình hình không chỉ của
đối tượng quản lý một cách đa dạng, phong phú, chính xác và kịp thời ... tới xã hội,
tới chủ thể quản lý, giúp cho chủ thể quản lý có thêm những nguồn thông tin để
soạn thảo và tổ chức thực hiện các quyết định quản lý.


Với đặc điểm của hoạt động thông tin, báo chí có tác động trực tiếp tới từng bộ
phận cấu thành của hệ thống xã hội, tời toàn xã hội. Nhưng sự tác động như vậy
cũng có thể diễn ra theo 2 hướng:
- Nếu báo chí phục vụ cho mục tiêu tiến bộ, thông tin báo chí chân thực và đúng
đắn thì báo chí sẽ tác động tới các quá trình xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
- Nếu báo chí phục vụ cho những mục tiêu vụ lợi thì báo chí sẽ làm rối loạn hệ
thống quản lý, sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Bởi lẽ thông tin tự thân nó không thể thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của xã
hội mà chỉ có thể thông qua những người chịu sự tác động của thông tin, và họ thể

hiện sự tác động đó trong hành vi của mình, trong kỹ thuật và công nghệ mới,
trong những hình thức quản lý mới đối với sản xuất, xã hội, tổ chức lao động ...
3. Các phương thức quản lý xã hội của báo chí
Báo chí thực hiện chức năng quẩn lý, giám sát xã hội theo một số phương thức
chủ yếu sau:
a). Đăng tải, phổ biến các quyết định quản lý và hướng dẫn tổ chức thực hiện
các quyết định quản lý. Phương thức này trong thực tế báo chí được thể hiện dưới
các hình thức sau:
- Đăng tải nguyên văn các quyết định quản lý.
- Giải thích, phân tích, bình luận ... cả về ý nghĩa lý luận, thực tiễn về ý nghĩa,
vai trò, mục đích ... của các quyết định quản lý, giúp cho công chúng hiểu đúng và
quán triệt những quyết định quản lý để đưa chúng vào cuộc sống.
- Phổ biến thông tin dưới dạng các mô hình thực tiễn tổ chức thực hiện các
quyết định quản lý.
b). Phản ánh, phân tích tình hình thực tiễn. Phản ánh, phân tích hiện trạng tình
hình các mặt trong đời sống, sinh hoạt của các tầng lớp quần chúng nhân dân cùng
với những nhận xét và đánh giá cụ thể. Những đánh giá như vậy có thể về:
- Những điển hình tiên tiến - nơi có những yếu tố chất lượng và hiệu quả, có
những kinh nghiệm tốt đã được tích lũy cần được ủng hộ và nhân rộng, tuyên
truyền và phổ biến.


- Những tồn tại, yếu kém, những tiêu cực, lạc hậu ... cần mang ra mổ xẻ, phân
tích, tranh luận ... để khắc phục chúng trong thực tế.
- Có thể những đánh gía đó mang tính dự báo, khi đăng tải trên báo chí có thể
hạn chế được những tác động tiêu cực.
Những phản ánh, phân tích và đánh giá tình hình thực tiễn như vậy có thể do
nhà báo thực hiện, cũng có thể do các chuyên gia, các lực lượng công chúng xã hội
với tư cách là cộng tác viên cung cấp.
Báo chí cũng đăng tải đa dạng và linh hoạt các ý kiến của quần chúng nhân dân:

thư bạn đọc, đường dây nóng, đơn khiếu nại, tố cáo, những đề xuất, kiến nghị, ý
kiến, giao lưu ... và thông qua đó tái hiện bức tranh xác thực và toàn diện về tình
hình thực tiễn, giúp cho công chúng xã hội, các cơ quan chức năng, cơ quan quản
lý ... kịp thời điều chỉnh, bổ sung hoặc đề ra những biện pháp quản lý mới phù hợp.
c). Kiểm tra việc thực hiện các quyết định quản lý, phát hiện các sai lầm, ách tắc
trong việc thực hiện các quyết định quản lý; phát hiện ra các thiếu sót ngay trong
các quyết định quản lý, giúp cho chủ thể quản lý và các cơ quan chức năng điều
chỉnh những quyết định và biện pháp quản lý cho phù hợp.
Đắu tranh phê bình, chống tiêu cực là một trong những nội dung hoạt động
kiểm tra giám sát rất hiệu quả, tất nhiên để làm công việc này đòi hỏi kỹ năng và
lòng dũng cảm, trách nhiệm nghề nghiệp của báo chí và các nhà báo.
Như vậy, hoạt động báo chí, về mặt bản chất, khi thực hiện nhóm chức năng tư
tưởng cũng chính là thực hiện chức năng quản lý xã hội ở những bình diện khác.

III. CHỨC NĂNG KHAI SÁNG - GIẢI TRÍ
- Khai sáng là hoạt động truyền bá những tri thức toàn diện để nâng cao dân trí,
nâng cao trình độ văn hóa, hiểu biết cho công chúng.
- Giải trí là hoạt động sử dụng hữu ích thời gian nhàn rỗi làm cho đầu óc thảnh
thơi, tái tạo sức lao động một cách hiệu quả.
Khai sáng, giải trí là chức năng khách quan của báo chí, có mối liên hệ mật thiết
với các chức năng tư tưởng và chức năng quản lý giám sát của báo chí. Trong hoạt


động thông tin hàng ngày, báo chí một mặt phổ biến kiến thức mới, truyền bá
những tri thức văn hóa toàn diện nhằm nâng cao trình độ hiểu biết, văn hóa của
công chúng, mặt khác, giúp cho công chúng sử dụng thời gian nhàn rỗi một cách
hữu ích và dễ chịu, tạo điều kiện nghỉ ngơi, tái tạo sức lao động.
Sự phát triển rộng khắp của các loại hình báo chí là tiền đề quan trọng để cung
cấp thông tin, nâng cao trình độ hiểu biết, văn hóa của công chúng, đồng thời
thông qua báo chí xã hội hóa, đại chúng hóa những giá trị văn hóa tinh thần của

nhân dân, giúp cho mọi thành viên trong xã hội có điều kiện bổ sung vốn tri thức,
làm phong phú thêm đời sống tinh thần ... của mình. Đây chính là điều kiện, là
phương tiện để con người phát triển một cách toàn diện - mục đích cao cả của chế
độ, mơ ước ngàn đời của nhân loại.
Báo chí hàng ngày chuyển tới công chúng những thông tin chứa đựng khối
lượng tri thức to lớn về các vấn đề, các lĩnh vực hoạt động của con người: giới
thiệu, phản ánh, phân tích, đánh giá tất cả những gì vừa xảy ra, đang xảy ra trong
tự nhiên, trong đời sống xã hội có liên quan đến con người và được con người quan
tâm. Một trong những nội dung báo chí quan tâm hàng đầu là những giá trị văn hóa
- nhân văn: các tác phẩm văn học nghệ thuật, các lễ hội, các sinh hoạt văn hóa: các
liên hoan phim, ảnh, âm nhạc, các cuộc thi đấu thể thao, các công trình kiến trúc
nổi tiếng, các chương trình du lịch, giáo dục, phổ biến kiến thức ...
Tuy nhiên, mỗi loại hình báo chí cố gắng khai thác những ưu thế loại hình trong
việc thực hiện chức năng giáo dục, văn hóa, giải trí.
Báo chí có ưu thế đặc biệt để giáo dục, nâng cao vốn tri thức văn hóa, giải trí.
Nhưng báo chí hiện đại về tầm ảnh hưởng đã vượt ra ngoài khuôn khổ của một
quốc gia, bất chấp biên giới hay mọi rào cản giữa các quốc gia, dân tộc. Đây cũng
đồng thời là một thách thức đối với việc giáo dục ý thức văn hóa công dân, bảo tồn
và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống: cùng với việc phổ biến những giá trị
văn hóa đích thực, báo chí có khả năng chuyển tải cả văn hóa không phù hợp, thậm
chí độc hại, xa lạ. Bởi vậy, để thực hiện có hiệu quả chức năng khai sáng, giải trí
của mình, báo chí phải:
Một mặt - gia tăng số lượng và chất lượng thông tin, nâng cao tính tư tưởng, sự
hấp dẫn của các tác phẩm báo chí hay các chương trình phát sóng. Báo chí phải tác
động mạnh mẽ, tích cực đến tính tích cực xã hội của công dân bằng sự hấp dẫn,


tính thuyết phục của thông tin. Khi công chúng thừa nhận những giá trị văn hóa
tinh thần đích thực họ sẽ tự bảo vệ mình trước sự tấn công và ảnh hưởng của
văn hóa độc hại. Trình độ văn hóa sẽ là nền tảng cho việc tiếp thu và hình thành

những tư tưởng sâu sắc hơn, và ngược lại, những tư tưởng đó lại tác động, quy
định việc lựa chọn thưởng thức những giá trị văn hóa đích thực.
Mặt khác, báo chí nhận xét, phân tích, phê phán những gì phi văn hóa tác động
đến công chúng. Thực ra đây cũng là hoạt động phản tuyên truyền trong lĩnh vực
văn hóa - phân tích rõ tính chất độc hại, không thích hợp, phi nhân văn của các sản
phẩm văn hóa rẻ tiền, kích thích những thị hiếu tầm thường ... nhằm hướng công
chúng tới những giá trị văn hóa đích thực của dân tộc và của nhân loại.

IV. CHỨC NĂNG KINH DOANH
1. Khái niệm:
- Kinh doanh theo nghĩa hẹp là tổ chức việc sản xuất, buôn bán sao cho sinh
lợi. Hay nói cách khác, đó là hoạt động sản xuất và dịch vụ theo phương châm lấy
thu bù chi và có lãi.
- Kinh doanh là chức năng vốn có của báo chí. Trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ
thể, trong mỗi thể chế xã hội cụ thể chức năng này có nội dung và hình thức biểu
hiện, có những điều kiện và cách thức thực hiện cũng khác nhau.
2. Nội dung: Cũng như bất kỳ hoạt động kinh doanh nào khác, để hoạt động kinh
doanh báo chí đạt hiệu quả cần tăng thu đồng thời với giảm chi trong toàn bộ hoạt
động báo chí, trong từng bước của hoạt động báo chí.
- Nguồn thu của báo chí: doanh số bán báo; quảng cáo; các loại hình dịch vụ có
thể ...
- Nguồn chi của báo chí: cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật; lao động sống
(tiền lương, nhuận bút); các chi phí cho quá trình sản xuất ...
3. Các phương thức và hình thức kinh doanh của báo chí.
Phân tích những đặc điểm, nội dung của các nguồn chi có thể giảm, nguồn
thu có thể tăng ... và mối liên hệ tác động chi phối giữa chúng.


Để thực hiện tốt chức năng kinh doanh của báo chí cần:
- Nâng cao chỉ số phát hành, cũng đồng nghĩa với việc tổ chức và thực hiện

có hiệu quả toàn bộ những chức năng xã hội vốn có của báo chí.
- Tổ chức đa dạng các loại hình dịch vụ mà mỗi cơ quan báo chí có ưu thế
và có khả năng.
Những nhóm chức năng của báo chí có mối liên hệ chặt chẽ, chi phối và tác
động lẫn nhau, là tiền đề và điều kiện của nhau tạo thành hệ thống hoàn chỉnh,
thống nhất trong việc tác động tới công chúng xã hội. Dù nằm trong mối quan hệ
chặt chẽ, nhưng trong thực tế mỗi nhóm chức năng xã hội của báo chí được thể
hiện dưới những hình thức và phương thức khác nhau. Vì vậy, vai trò thực tế của
báo chí trong xã hội được thể hiện đầy đủ chỉ khi hoạt động báo chí được xem xét
trong việc thực hiện tổng thể những chức năng xã hội nói trên đối với từng cơ quan
báo chí, từng loại hình báo chí hay cả hệ thống báo chí nói chung. Việc bóc tách ra
thành từng nhóm chức năng để phân tích bản chất, đặc điểm và phương thức thực
hiện ... về mặt lý luận chỉ có ý nghĩa khi ta hiểu đầy đủ mối liên hệ thống nhất giữa
chúng để từ đó vận dụng một cách sáng tạo, có hiệu quả những hiểu biết ấy vào
thực tiễn hoạt động báo chí.
3. Môi trường ra đời và phát triển của báo chí truyền thông. (HÀ CHI)
Sự phát triển của truyền thông xét theo yếu tố kỹ thuật công nghệ
Có nhiều yếu tố tác động đến sự phát triển của truyền thông (như chính trị, xã
hội, kinh tế…), song trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, khoa học kỹ thuật cũng
đóng vai trò quan trọng. Những tiến bộ về mặt khoa học kỹ thuật không những tác
động đến sự phát triển của loại hình báo chí mà còn tác động đến cả nội dung và
hình thức thể hiện thông tin.
- Cách mạng chữ viết;
- Cách mạng in ấn;
- Cách mạng truyền thông đại chúng
- Cách mạng giải trí;
- Căn nhà trở thành nơi tiếp nhận mọi thông tin và phương tiện giải trí;


- Cách mạng xa lộ thông tin;


Những đặc điểm chung của các cuộc cách mạng thông tin
Các cuộc cách mạng đều xuất phát từ nhu cầu thông tin và các phát minh khoa
học kỹ thuật;
Mỗi cuộc cách mạng đều dựa trên sự phát minh ra một hay nhiều hõn một
phương tiện truyền thông, ví dụ nhý giấy papyrus và bảng chữ cái, giấy và công
nghệ in, truyền hình và vệ tinh…;
Mỗi cuộc cách mạng xảy ra khi hội đủ các điều kiện về xã hội, kinh tế… (vd:
nhu cầu biết đọc, biết viết; sự ra đời của quảng cáo; hoặc những đòi hỏi của một xã
hội dân chủ…)
Sau mỗi cuộc cách mạng thông tin, phương tiện truyền thông đa dạng hõn, nội
dung thông tin phong phú hơn, đối tượng tiếp nhận thông tin nhiều hơn;
Những cuộc cách mạng thông tin này đã đem đến những thay đổi lớn lao trong
cuộc sống nhân loại.
Sự phân chia xã hội trong vấn đề tiếp cận thông tin (nhóm giàu – nhóm nghèo;
nhóm bảo thủ - nhóm cấp tiến; nhóm lạc hậu – nhóm hiện đại; nhóm trẻ - nhóm
cao tuổi…)
Cuộc cách mạng mới xảy ra dựa trên nền tảng của các cuộc cách mạng cũ.
Đồng thời những thành tựu của cuộc cách mạng cũ vẫn tồn tại và phát triển.
Công nghệ thay đổi nhưng tính chất thông tin có thể vẫn thế;
Công nghệ càng cao, người ta càng dành ít thời gian cho các giao tiếp xã hội.
Tuy nhiên, dù cho công nghệ phát triển đến mức độ nào đi nữa, con người vẫn cần
đến hình thức giao tiếp “mặt đối mặt”;
Sự phát triển của truyền thông xét theo yếu tố xã hội:
- Xã hội tiền nông nghiệp
- Xã hội nông nghiệp


- Xã hội công nghiệp
- Xã hội thông tin

1.1. Xã hội tiền nông nghiệp
Dân chúng sống quần tụ thành những nhóm nhỏ chuyên săn bắt và hái lượm;
Dùng tiếng nói để chuyển giao thông tin, tập tục, kinh nghiệm… từ thế hệ này
qua thế hệ khác;
Truyền thông theo lối truyền miệng tiếp tục tồn tại đến ngày hôm nay;
1.2. Xã hội nông nghiệp
Trong xã hội nông nghiệp, thông tin bắt đầu đóng vai trò quan trọng hõn, chữ
viết ra đời;
Những quyển sách chép tay lưu hành rất hạn chế, chỉ dành cho những học giả
và tu sĩ;
1.3. Xã hội công nghiệp:
Johannes Gutenberg phát minh ra máy in năm 1450, cải tiến tốc độ sản xuất
sách;
Sự đô thị hóa, yêu cầu biết chữ và nhu cầu quảng cáo những sản phẩm mới là
những yếu tố khiến báo chí phát triển;
1.4. Xã hội thông tin
Là một xã hội trong đó sự sáng tạo, phân phối, truyền bá, sử dụng, quản lý
thông tin đóng vai trò quan trọng trong tất cả các họat động kinh tế, chính trị, văn
hóa…;
Khoảng năm 1950, lực lượng lao động trong lĩnh vực thông tin tăng nhanh
chóng, chiếm khoảng 30% lực lượng lao động toàn xã hội (ở các nước phương
Tây);
Sự phố biến của máy vi tính vào cuối thế kỷ 20;
Sự tích hợp các phương tiện truyền thông vào máy vi tính;


Internet phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống
nhân loại;
Quá trình phát triển của báo chí xét theo loại hình báo chí:
- Báo chí gồm có các loại hình sau:

Báo in;
Báo nói (phát thanh);
Báo hình (truyền hình);
Báo trực tuyến (báo điện tử, báo Internet, báo online);
Các hình thức thông tin mang tính báo chí trước khi báo in ra đời
Truyền miệng:
Bia ký : không kịp thời, là một dạng nhật ký xã hội, một dạng tý liệu lịch sử. Có
những bản khắc trong hang, trên tượng...
Các hình thức thông tin mang tính báo chí trước khi báo in ra đời
Nhật ký và du ký : ghi lại những việc xảy ra theo thời gian, những điều tai nghe mắt
thấy khi đi xa…
Biên niên của các giáo trưởng (La Mã): ghi lại những sự kiện trong năm trên một
mặt bàn trắng đặt tại nhà để các công dân tới đọc;
4. Sự ra đời của Báo chí truyền thông (BCTT) trong điều kiện văn hóa – chính
trị (KHÁNH CHI)
1. Điều kiện chính trị
Chế độ chính trị quy định chế độ báo chí. Nền chính trị dân chủ sẽ là điều kiện
hàng đầu cho BCTT phát triển; đồng thời nền chính trị ấy tạo điều kiện tối đa cho
BCTT phát huy vai trò xã hội, gia tăng năng lực và hiệu quả tác động và đóng góp
vào tiến trình phát triển bền vững ủa quốc gia. Đời sống dân chủ mở ra đến đâu thì
vai trò của BCTT tăng lên đến đấy. BCTT là sản phẩm của xã hội dân chủ, là
phương tiện và phương thức biểu hiện dân chủ xã hội. Cấm đoán thông tin BCTT


×