Tải bản đầy đủ (.docx) (112 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Quản lý hoạt động mua sắm tài sản tại các đơn vị thuộc Bộ Tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.11 KB, 112 trang )

1

1
1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bài luận văn thạc sĩ này là bài của tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu trong bài luận văn thạc sĩ này là trung thực và đáng tin cậy.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về các nội dung cam đoan nêu trên.
Hà Nội, ngày ... tháng ..... năm ......
Tác giả

Nguyễn Thị Thu Trang


2
2

2

LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành nhất, tác giả luận văn xin bày tỏ sự cảm ơn
chân thành, sâu sắc tới PGS,TS. Hà Văn Sự, người đã tận tình chỉ bảo, hướng
dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến Ban Giám hiệu, các Giáo sư, Phó
giáo sư, Tiến sỹ, giảng viên Trường đại học Thương mại đã nhiệt tình giảng
dạy, truyền đạt kiến thức trong quá trình tác giả theo học tại trường. Cảm ơn
toàn thể cán bộ, nhân viên trường Trường đại học Thương mại đã tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho tác giả trong thời gian học tập và nghiên cứu nhằm
hoàn thành chương trình Cao học.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Bộ Tài chính, các Vụ,


Cục, Tổng cục đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong việc thu thập số liệu
để làm luận văn.
Sau cùng, xin được cảm ơn các thầy, cô trong Hội đồng bảo vệ và kính
mong nhận được sự quan tâm, nhận xét của các thầy, cô để tác giả có điều
kiện hoàn thiện tốt hơn những nội dung của luận văn nhằm đạt được tính hiệu
quả, hữu ích khi áp dụng vào trong thực tiễn.
Xin trân trọng cảm ơn!


3

3
3
MỤC LỤC


4
4

4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7

8
9
10
11

CHỮ VIẾT TẮT
BTC
CBCC
CNTT
GTVT
HCNN
KBNN
NSNN
MSTSC
UBND
VKSNDTC
QLCS

NGHĨA ĐẦY ĐỦ
Bộ Tài chính
Cán bộ công chức
Công nghệ thông tin
Giao thông vận tải
Hành chính nhà nước
Kho bạc nhà nước
Ngân sách nhà nước
Mua sắm tài sản công
Uỷ ban nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Quản lý công sản


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
A. DANH MỤC BẢNG


5

B. DANH MỤC BIỂU ĐỒ

C. DANH MỤC SƠ ĐỒ

5
5


6

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hàng năm, NSNN dành cho việc mua sắm tài sản công phục vụ bộ máy
quản lý tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp là rất lớn. Theo số liệu
thống kê của Bộ Tài chính trong những năm gần đây, mỗi năm Việt Nam chi
khoảng 200.000 tỷ đồng cho hoạt động mua sắm tập trung tài sản công, đó là
chưa kể các khoản chi cho hoạt động mua sắm phân tán, nhỏ lẻ. Việc mua
sắm tài sản là nhu cầu hết sức thiết thực đối với các cơ quan quản lý nói
chung cũng như Các đơn vị thuộc Bộ Tài chính nói riêng nhằm duy trì hoạt
động, thực hiện nhiệm vụ được Đảng và nhà nước giao phó nhưng mua sắm
sao cho tiết kiệm, hiệu quả, công khai, minh bạch là vấn đề hết sức quan trọng
nhất là trong điều kiện nền kinh tế đất nước đang gặp nhiều khó khăn thách
thức, tình trạng thâm hụt ngân sách và nợ công gia tăng như hiện nay.

Có thể hiểu, tài sản công là những tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước,
nói rộng ra chúng thuộc sở hữu của toàn dân. Do vậy, quản lý và sử dụng tài
sản công được coi là nghĩa vụ và trách nhiệm không chỉ đối với Chính phủ mà
đối với tất cả các Bộ, ngành, địa phương cũng như các tổ chức, đơn vị và
nhân dân. Mua sắm công là khâu đầu tiên của quá trình quản lý và sử dụng tài
sản công, do đó, quản lý tốt hoạt động mua sắm có thể coi là tiền đề phát huy
hiệu quả sử dụng của tài sản công trong hoạt động quản lý nhà nước. Thực tế
những năm qua cho thấy, việc mua sắm tài sản công tại các cơ quan HCNN
còn nhiều bất cập, vẫn tồn tại những tiêu cực, lợi dụng kẽ hở của pháp luật để
tham ô, tham nhũng biến của công thành của riêng gây thất thoát, lãng phí cho
NSNN. Vì vậy, vấn đề đặt ra đối với Nhà nước là cần xây dựng hành lang
pháp lý thống nhất và đồng bộ để công tác quản lý hoạt động mua sắm được
hiệu quả, giảm thiểu những tiêu cực. Việc nghiên cứu quản lý hoạt động mua


7

sắm tài sản nhà nước nhằm tìm hiểu về thực trạng công tác quản lý trong lĩnh
vực này, những tồn tại, hạn chế để từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp nâng
cao năng lực quản lý và hoàn thiện hệ thống pháp luật về mua sắm.
Bộ Tài chính là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về: Tài chính - ngân sách (bao gồm: Ngân sách nhà nước; thuế; phí, lệ
phí và thu khác của ngân sách nhà nước; dự trữ nhà nước; các quỹ tài chính
nhà nước; đầu tư tài chính; tài chính doanh nghiệp; tài chính hợp tác xã và
kinh tế tập thể; tài sản công theo quy định của pháp luật); hải quan; kế toán;
kiểm toán độc lập; giá; chứng khoán; bảo hiểm; hoạt động dịch vụ tài chính
và dịch vụ khác thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ; thực hiện đại diện
chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính theo Nghị định 87/2017/NĐ-CP ngày
26/7/2017, Bộ Tài chính bao gồm 29 đơn vị gồm các cục, tổng cục, tạp chí,

viện và trường đào tạo cán bộ. Các đơn vị trực thuộc “là cơ quan hành chính
nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính, thực hiện chức năng tham mưu giúp Bộ
trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước về các hoạt động chuyên môn liên
quan đến tài chính.
Hoạt động mua sắm tài sản ngành tài chính được thực hiện theo phân cấp
tại Luật 15/2017/QH14 và Nghị định 151/2017/NĐ-CP về việc phân cấp, uỷ
quyền và tổ chức thực hiện đối với lĩnh vực tài chính, tài sản, đầu tư xây
dựng, kiểm tra, kiểm toán nội bộ, ứng dụng CNTT, mua sắm tập trung trong
các đơn vị thuộc hệ thống Bộ Tài Chính, theo đó Bộ Tài Chính tổ chức mua
sắm tập trung và cấp phát cho toàn ngành Thuế đối với các danh mục tài sản,
hàng hóa do Bộ Tài chính quy định với số lượng mua sắm nhiều, tổng giá trị
mua sắm lớn và có yêu cầu được trang bị đồng bộ, hiện đại gồm các danh
mục như: Ô tô, máy phát điện, thiết bị công nghệ tông tin, ấn chỉ,… Trong đó,
hoạt động mua sắm trong lĩnh vực công nghệ thông tin là hoạt động chủ yếu,


8

triển khai định kỳ hàng năm theo kế hoạch, danh mục do Bộ Tài chính phê
duyệt với tổng nguồn kinh phí triển khai lớn nhất.
Trong những năm gần đây, công tác mua sắm thiết bị tài sản của ngành
Tài chính được tổ chức mua sắm theo phương thức tập trung tại Bộ Tài Chính
“nhằm đảm bảo sự trang bị đồng bộ, hiện đại và để đạt được mục tiêu cải
cách, hiện đại hóa ngành Tài chính. Với nguồn kinh phí cho chi ứng dụng
công nghệ thông tin hàng năm tương đối lớn, do đó, công tác quản lý hoạt
động mua sắm tài sản ngành Tài chính nhằm đạt được hiệu quả cao nhất là
yêu cầu cấp thiết đối với ngành Thuế trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác
quản lý hoạt động mua sắm tài sản nói chung và tài sản của ngành Thuế nói
riêng, tôi đã chọn đề tài “Quản lý hoạt động mua sắm tài sản tại các đơn vị

thuộc Bộ Tài chính” cho luận văn thạc sỹ của mình với mong muốn góp phần
hoàn thiện hơn hoạt động quản lý mua sắm tài sản thiết bị tài sản nói chung
tại đơn vị nơi tôi đang công tác.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
Trong những năm qua, nghiên cứu về quản lý hoạt động mua sắm tài sản
tại các cơ quan hành chính nhà nước (HCNN) ở Trung ương cũng như địa
phương đã có một số công trình nghiên cứu của các tác giả đề cập. Các công
trình nhiên cứu chủ yếu đi sâu phân tích pháp luật mua sắm công và quản lý
hoạt động đấu thầu mua sắm tài sản, hàng hóa, nhấn mạnh tầm quan trọng của
mua sắm công và đề xuất kiến nghị, giải pháp đối với vấn đề này, có thể kể
đến một số nghiên cứu tiêu biểu gồm:
- Trần Thị Đông Anh: “Pháp luật về đấu thầu điện tử của một số nước,
kinh nghiệm và khả năng áp dụng vào Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ, 2009,
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Tác giả tập trung nghiên cứu các quy định về
đấu thầu điện tử trong các văn bản pháp luật của một số nước như Hàn Quốc,


9

Anh, Philippin, các quy định của liên hợp quốc có liên quan đến đấu thầu điện
tử, trên cơ sở đó có so sánh khung p háp lý liên quan đến đấu thầu điện tử của
Việt Nam để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và đề ra giải pháp hoàn thiện;
- TS Nguyễn Thị Thủy Chung: “Mua sắm công ở Việt Nam, thực trạng
và giải pháp”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, 2016, Viện chiến lược và
chính sách tài chính. Tác giả tập đã khái quát diễn biến tình hình mua sắm
công ở Việt Nam trong những năm gần đây, những kết quả đạt được và những
tồn tại hạn chế. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
hoạt động mua sắm công;
- Nguyễn Thị Thùy Dung: “Quy chế đấu thầu quốc tế mua sắm hàng
hóa”, Luận văn thạc sĩ, 2004, Đại học Đà Nẵng. Luận văn đưa ra những giải

pháp, tình huống cụ thể để hoàn thiện pháp luật đấu thầu quốc tế mua sắm
hàng hóa trong mối quan hệ các quy định của Việt Nam và các tổ chức quốc
tế;
- Phạm Trung Kiên: “Quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu mua sắm
hàng hóa trong khu vực công ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ, 2014, Đại học
Quốc gia Hà Nội. Nội dung luận văn tác giả tập trung nghiên cứu những quy
định của nhà nước về hoạt động đấu thầu mua sắm công ở Việt Nam, những
vấn đề lý luận và thực tiến, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện
quản lý hoạt động đấu thầu trong mua sắm công ở nước ta;
- Lương Thị Thùy Linh: Pháp luật Việt Nam về đấu thầu mua sắm công.
Hướng hoàn thiện từ kinh nghiệm của Cộng Hòa Pháp, Luận văn thạc sĩ,
2011, Đại học Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn tập trung phân tích
thực trạng về hoạt động đấu thầu mua sắm công tại Việt Nam, những bất
cập, hạn chế và hướng hoàn thiện từ kinh nghiệm mua sắm công tại Cộng
Hòa Pháp;
- Lê Thanh Sang: “Quản lý hoạt động đầu tư mua sắm trang thiết bị tin


10

học tại Các đơn vị thuộc Bộ Tài chính”, Luận văn thạc sĩ, 2013, Trường Đại
học Thương mại. Luận văn tập trung trình bày các vấn đề lý luận, phân tích
thực trạng, đưa ra những dự báo khái quát những thay đổi của môi trường đầu
tư, các quan điểm về việc tăng cường quản lý hoạt động đấu thầu mua sắm
trang thiết bị tin học tại các đơn vị thuộc Bộ Tài chính;
- Nguyễn Thị Như Trang: “Pháp luật về đấu thầu mua sắm công. Những
vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ, 2011, Trường Đại học Luật Hà
Nội. Luận văn tập chung đi sâu nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt
Nam về hoạt động đấu thầu mua sắm và đưa ra các quy định của một số nước
như Trung Quốc, Hàn Quốc, Cam-pu-chia làm tiêu chuẩn để định hướng sự

hoàn thiện pháp luật đấu thầu mua sắm công của Việt Nam trong thời gian tới.
Nhìn chung, đã có rất nhiều nghiên cứu trước đây liên quan đến nội dung
quản lý hoạt động mua sắm tại cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, các
nghiên cứu trên chỉ tập trung nghiên cứu ở tầm vĩ mô; nghiên cứu tập trung về
hoạt động đấu thầu, pháp luật đấu thầu mua sắm và đề xuất các giải pháp
hoàn thiện pháp luật về đấu thầu. Trong luận văn này, học viên có sự kế thừa
cơ sở lý luận về quản lý hoạt động mua sắm tài sản nhà nước của các công
trình nghiên cứu trên và tập trung đi sâu nghiên cứu về thực trạng công tác
quản lý hoạt động mua sắm tài sản tại một số đơn vị của Bộ Tài Chính.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý
hoạt động mua sắm tài sản công, luận văn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện
công tác quản lý hoạt động mua sắm tài sản tại Các đơn vị thuộc Bộ Tài
chính.”
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quản lý hoạt động mua sắm tài


11

sản trong cơ quan hành chính nhà nước;
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý hoạt động mua sắm tài sản tại
cơ quan Các đơn vị thuộc Bộ Tài chính qua đó chỉ ra những ưu điểm, hạn chế
và nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế đó làm có sở cho đề xuất các
giải pháp, kiến nghị;
- Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý hoạt động
mua sắm tài sản tại cơ quan các đơn vị thuộc Bộ Tài chính.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về
quản lý hoạt động mua sắm tài sản trong cơ quan hành chính nhà nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Tại cơ quan Các đơn vị thuộc Bộ Tài chính cụ thể là
nghiên cứu điển hình tại Cục Quản lý Công sản thuộc Bộ Tài chính;
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng trong giai đoạn từ 2016-2018 và
đề xuất đến năm 2020;
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về tài sản nhà
nước; cơ quan HCNN; đặc điểm, phân loại, vai trò của tài sản trong cơ quan
HCNN; các phương thức mua sắm; nguyên tắc quản lý và nội dung công tác
quản lý hoạt động mua sắm tài sản nhà nước; đề xuất giải pháp đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập dữ liệu
- Đối với dữ liệu thứ cấp: Dữ liệu thứ cấp thu thập từ các nguồn tài liệu
sau:
+ Nguồn bên trong: Các báo cáo tổng kết công tác chi ngân sách nhà
nước (nội dung chi mua sắm tài sản) hàng năm của các đơn vị thuộc Bộ Tài
chính, Bộ Tài chính từ năm 2016 đến năm 2018.


12

+ Nguồn bên ngoài: Sách, báo, tạp chí, website của Bộ Tài chính,
website của Các đơn vị thuộc Bộ Tài chính, các luận văn, nghiên cứu về quản
lý hoạt động mua sắm tài sản nhà nước.
- Đối với dữ liệu sơ cấp, đề tài sử dụng 02 phương pháp:
+ Phương pháp điều tra khảo sát:
Chuẩn bị khảo sát: Xây dựng phiếu khảo sát và phát phiếu tới cán bộ
công chức (CBCC) thuộc Vụ, Tổng Cục và Cục tin học và thống kê tài chính
làm công tác mua sắm tài sản tại các đơn vị thuộc Bộ Tài chính. Kích thước

mẫu: 100 người: Phiếu khảo sát này gồm phần chung liên quan đến vị trí,
chức vụ, thâm niên công tác, các công việc đảm nhiệm khi thực hiện mua sắm
tài sản công nghệ thông tin, thuận lợi, khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ,…
Thời gian khảo sát: Tháng 9/2019
Kết quả, số phiếu phát ra: 110 phiếu, số phiếu thu về 108 phiếu, số phiếu
đủ điều kiện phân tích: 100 phiếu.
Xử lý kết quả khảo sát: Thực hiện phân tích dữ liệu, tổng hợp và phân
loại dữ liệu khảo sát trên bảng Excel, từ đó tổng hợp tất cả các phiếu khảo sát
thành một bảng tổng hợp kết quả khảo sát.
+ Phương pháp phỏng vấn:
Chuẩn bị câu hỏi phỏng vấn: Các câu hỏi xoay quanh chủ đề về đặc
điểm, vai trò của hoạt động quản lý việc mua sắm tập trung tài sản tại Các
đơn vị thuộc Bộ Tài chính và những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản
lý hoạt động mua sắm tài sản tại Các đơn vị thuộc Bộ Tài chính.
Tiến hành phỏng vấn: Tiến hành phỏng vấn chuyên sâu đối với các lãnh
đạo Cục Quản lý công sản thuộc Cơ quan Các đơn vị thuộc Bộ Tài chính (05
người).
Thời gian phỏng vấn: Tháng 9/2019.


13

5.2. Phương pháp phân tích dữ liệu
- Đối với dữ liệu thứ cấp: đề tài sử dụng các phương pháp gồm thống kê,
phân tích, tổng hợp dữ liệu.
+ Phương pháp thống kê: Nguồn dữ liệu sau khi thu thập được từ nguồn
bên trong, bên ngoài, tác giả tiến hành phân loại, thống kê theo các tiêu chí
đánh giá nhằm phục vụ quá trình viết luận văn;
+ Phương pháp phân tích: Từ dữ liệu thu thập được, tác giá tiến hành
phân tích dữ liệu từ đó phát hiện ra những vấn đề trong quản lý hoạt động

mua sắm tài sản tại các đơn vị thuộc Bộ Tài chính;
+ Phương pháp tổng hợp: Sau khi thống kê, phân tích dữ liệu, tác giả
thực hiện tổng hợp để có cái nhìn tổng thể của vấn đề quản lý hoạt động mua
sắn tài sản tại các đơn vị thuộc Bộ Tài chính.
- Đối với dữ liệu sơ cấp:
+ Phân tích kết quả khảo sát: Trên cơ sở các thông tin thu được từ phiếu
khảo sát, tác giả tiến hành tổng hợp, phân tích, đánh giá các thông và tổng
hợp thành bảng kết quả khảo sát;
+ Phân tích kết quả phỏng vấn: Kết quả phỏng vấn sẽ được bổ sung cho
những nội dung mà phiếu khảo sát chưa làm rõ, từ đó đánh giá một cách
chính xác, khách quan cho vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học của vấn đề nghiên cứu
Đề tài đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý hoạt động mua sắm tài
sản trong các cơ quan hành chính nhà nước; phân tích và đánh giá thực trạng
làm rõ thêm về cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý hoạt động mua sắm tài
sản tại các đơn vị thuộc Bộ Tài chính.
Đề xuất phương hướng và giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý góp
phần nâng cao năng lực quản lý đối với hoạt động mua sắm tài sản nhà nước
tại các đơn vị thuộc Bộ Tài chính.


14

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục, tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của đề tài được kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG MUA SẮM TÀI SẢN TRONG CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG MUA SẮM TÀI SẢN

TẠI CÁC ĐƠN VỊ THUỘC BỘ TÀI CHÍNH.
Chương 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN
THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG MUA SẮM TÀI SẢN TẠI
CÁC ĐƠN VỊ THUỘC BỘ TÀI CHÍNH.


15

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG MUA SẮM TÀI SẢN TRONG
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
Nhà nước là chủ sở hữu của mọi tài sản công, song Nhà nước không
phải là người trực tiếp sử dụng toàn bộ tài sản công. Tài sản công được Nhà
nước giao cho các cơ quan hành chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công,
các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, các tổ chức kinh tế, các tổ chức, đoàn
thể khác v.v... trực tiếp quản lý, sử dụng. Như vậy, quyền sở hữu tài sản và
quyền sử dụng tài sản có sự tách rời. Để thực hiện vai trò chủ sở hữu tài sản
công của mình, Nhà nước phải thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước đối
với tài sản công. Thực tế cho thấy sự phát triển khác nhau của mỗi nền kinh tế
gắn với hệ thống quản lý nhà nước ở mức độ chặt chẽ, linh hoạt và khoa học
khác nhau, không những thế tài sản nhà nước có khả năng sinh lợi và được sử
dụng hiệu quả khác nhau. Một cách tiếp cận nhanh nhất khi tìm hiểu về hiệu
quả quản lý của một quốc gia đó chính là cách thức tổ chức, khai thác, hiện
trạng sử dụng tài sản công tại các cơ quan nhà nước khi chúng ta đến làm việc
hay tiếp cận các cơ quan hành chính này.
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI SẢN CÔNG VÀ QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG MUA SẮM TÀI SẢN CÔNG
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
a. Khái niệm cơ quan hành chính nhà nước:
Trong các quan hệ kinh tế xã hội các khái niệm như Quốc hội, Chính

“phủ, Bộ, ngành, Toà án, đảng, đoàn thể... xuất hiện thường xuyên và được
hiểu chung là cơ quan của nhà nước. Câu hỏi được đặt ra là: Làm thế nào
phân định sự khác biệt giữa nhà nước, chính phủ, toà án...rồi cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp
của nhà nước...?


16

Theo giáo trình Tài chính nhà nước của Học viện Tài chính và giáo
trình Kinh tế và Tài chính công của Trường đại học Kinh tế quốc dân, khi đề
cập đến chính phủ là đề cập đến cơ quan hành pháp của một nhà nước. để cấu
thành nên một nhà nước cần có hệ thống tam quyền phân lập là lập pháp
(Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) và tư pháp (Toàn án, Viện kiểm sát). Dựa
theo giáo trình tài chính nhà nước thì các cơ quan được nhắc tới là cơ quan
hành chính nhà nước đại diện cho khu vực công. Bên cạnh cơ quan hành
chính còn có các đơn vị sự nghiệp nhà nước, đây là các đơn vị thực hiện cung
cấp các dịch vụ xã hội công cộng và các dịch vụ nhằm duy trì sự hoạt động
bình thường của các ngành kinh tế quốc dân. Hoạt động của các đơn vị này
không vì mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu mang tính chất phục vụ. Các đơn vị
sự nghiệp chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực văn hoá xã hội như y tế, văn hoá,
thể thao truyền hình... Hoạt động trong lĩnh vực kinh tế có các đơn vị sự
nghiệp của ngành như: sự nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, giao thông thuỷ
lợi,... Do hoạt động mang tính phục vụ là chủ yếu, các đơn vị sự nghiệp được
chia ra gồm đơn vị sự nghiệp không có thu và đơn vị sự nghiệp có thu. Mặc
dù vậy các đơn vị này vẫn hưởng toàn bộ hay một phần kinh phí hoạt động từ
ngân sách nhà nước. Việc phân tách rõ chức năng nhiệm vụ giữa hai cơ quan
này rất cần thiết cho công tác quản lý tài sản nhà nước sau này.
Ngoài ra, nhắc tới khu vực công còn phải liệt kê các tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội

và hệ thống doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò then chốt trong điều tiết kinh
tế. Tuy nhiên, xếp ở vị trí trung tâm trong quản lý và điều hành của một nhà
nước đó là hệ thống cơ quan hành chính. Vậy địa vị pháp lý của cơ quan hành
chính nhà nước được quy định như thế nào? địa vị pháp lý hành chính là tổng
thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính của các cơ quan hành chính nhà
nước, đây là những khả năng pháp lý quan trọng tạo điều kiện cho các cơ


17

quan hành chính nhà nước thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ quản lý hành
chính nhà nước của mình, địa vị pháp lý hành chính của các cơ quan hành
chính nhà nước do pháp luật quy định. Tuy nhiên, mỗi cơ quan hành chính
nhà nước có địa vị pháp lý hành chính riêng được quy định cụ thể, rõ ràng,
không chồng chéo, trùng lặp trong quá trình thực thi hoạt động quản lý nhà
nước, đó cũng chính một điểm khác biệt cơ bản giữa cơ quan hành chính và
đơn vị sự nghiệp sẽ được trình bày trong phần tiếp theo.
Tóm lại: Cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan có chức năng quản lý
hành chính nhà nước. Các cơ quan hành chính thực hiện hoạt động chấp hành
- điều hành (đó là những hoạt động được tiến hành trên cơ sở luật và để thực
thi luật) nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Như vậy hoạt động
chấp hành - điều hành hay còn gọi là hoạt động quản lý hành chính nhà nước
là phương diện hoạt động chủ yếu của cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ
quan nhà nước khác cũng thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước
nhưng đó không phải là phương diện hoạt động chủ yếu mà chỉ là hoạt động
được thực hiện nhằm hướng tới hoàn thành chức năng cơ bản của các cơ quan
nhà nước đó như: chức năng lập pháp của Quốc hội, chức năng xét xử của toà
án nhân dân, chức năng kiểm sát của viện kiểm sát nhân dân. Chỉ các cơ quan
hành chính nhà nước khi thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước là
để nhằm hoàn thành chức năng quản lý hành chính nhà nước.

b. Khái niệm tài sản công, hoạt động mua sắm:
Nguồn lực của một quốc gia là có hạn, việc sử dụng nguồn lực tối ưu là
cơ sở hình thành các lý thuyết kinh tế học. Một quốc gia muốn tồn tại và phát
triển phải có chiến lược quản lý tốt tài sản quốc gia. Tỷ trọng tài sản công
trong tổng số tài sản quốc gia lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào quan hệ sản xuất đặc
trưng của các hình thái kinh tế - xã hội ở các giai đoạn lịch sử của mỗi nước.
Ở Pháp, “Tài sản quốc gia được hiểu là toàn bộ tài sản và quyền hạn đối


18

với động sản và bất động sản thuộc về Nhà nước” (điều L.1 Bộ luật Tài sản
nhà nước năm 1998).
Ở Việt Nam, điều 17 Hiến pháp năm 1992 quy định: “đất đai, rừng núi,
sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi vùng biển, thềm
lục địa và vùng trời, phần vốn do Nhà nước đầu tư vào xí nghiệp, công trình
thuộc các ngành, lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại
giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của
Nhà nước đều thuộc sở hữu toàn dân”. điều 200 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy
định tài sản thuộc hình thức sở hữu Nhà nước như sau: "Tài sản thuộc hình
thức sở hữu Nhà nước bao gồm đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn
vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông, hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng
đất, nguồn lợi từ nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài
sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh
vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an
ninh cùng các tài sản khác do pháp luật quy định".“Tiếp đó, tại các điều 239,
240, 241, 246, 254 và 644 của Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2005, điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, điều
17 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, điều 35 Pháp lệnh Thi
hành án dân sự năm 2004 đã quy định cụ thể các tài sản khác thuộc sở hữu

nhà nước do pháp luật quy định bao gồm: Các tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính, vật chứng trong vụ án hình sự bị tịch thu sung quỹ Nhà nước; vật
bị chôn dấu, chìm đắm được tìm thấy, vật vô chủ, vật không xác định được ai
là chủ sở hữu, vật do người khác đánh rơi, bỏ quên được xác lập quyền sở
hữu của Nhà nước theo quy định của pháp luật, di sản không người thừa kế
hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, tài sản
do tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước biếu tặng Chính phủ hoặc tổ chức
Nhà nước... Từ những căn cứ pháp luật hiện hành, chúng ta có thể đưa ra khái


19

niệm về tài sản công như sau: “Tài sản công là những tài sản được hình thành
từ nguồn ngân sách nhà nước, tài sản được xác lập quyền sở hữu của Nhà
nước theo quy định của pháp luật như: đất đai, rừng tự nhiên, núi, sông hồ,
nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm
lục địa và vùng trời.”
Tài sản công trong cơ quan hành chính sự nghiệp là “những tài sản mà
Nhà nước giao cho cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công, các đơn vị
lực lượng vũ trang (của Nhà nước), tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, các tổ chức khác (gọi chung là cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp)
trực tiếp quản lý, sử dụng phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan,
đơn vị.
Tài sản công - Tài sản nhà nước khu vực hành chính bao gồm: đất đai
(đất sử dụng làm trụ sở làm việc, đất xây dựng cơ sở hoạt động vì mục đích
công); nhà, công trình xây dựng khác gắn liền với đất đai (nhà làm việc, nhà
kho; nhà, công trình đảm bảo cho các hoạt động sự nghiệp...); các tài sản khác
gắn liền với đất đai; các phương tiện giao thông vận tải (ô tô, xe máy, tàu,
thuyền...); các máy móc, trang thiết bị, phương tiện làm việc và các tài sản
khác.

Những tài sản trên đây là cơ sở vật chất cần thiết để tiến hành các hoạt
động quản lý nhà nước. Các cơ quan hành chính chỉ có quyền quản lý, sử
dụng các tài sản này để thực hiện nhiệm vụ được giao, không có quyền sở
hữu. Việc sử dụng tài sản phải đúng mục đích, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định
mức do Nhà nước quy định; không được sử dụng vào mục đích cá nhân, kinh
doanh và mục đích khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Ngày 01/01/2018, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công 2017 chính thức
có hiệu lực. Theo đó, tài sản công là: “Tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, bao gồm: tài sản công phục


20

vụ hoạt động quản lý, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, an ninh
tại cơ quan, tổ chức, đơn vị; tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng; tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; tài sản công
tại doanh nghiệp; tiền thuộc ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước
ngoài ngân sách, dự trữ ngoại hối nhà nước; đất đai và các loại tài nguyên
khác.”
Mua sắm là các hoạt động mua hàng hóa, có thể dưới các hình thức mua
sắm trực tiếp, hay mua sắm trực tuyến gián tiếp qua Internet. Các chứng chỉ
xác nhận các hoạt động mua sắm có thể là hóa đơn, hợp đồng mua sắm. Có
các dạng hoạt động mua sắm chính sau:
Mua sắm cá nhân: Cá nhân thực hiện hoạt động mua sắm nhằm mục đích
tiêu dùng cho cá nhân.
Mua sắm (dự án), mà chủ thể của hoạt động là một tổ chức trong một dự
án: như chính phủ của một quốc gia trong mua sắm chính phủ, chủ đầu tư
trong dự án đầu tư, nhà thầu (tổng thầu) trong các loại dự án tổng thầu xây
dựng như: dự án chìa khóa trao tay (turn key),...
c. Khái niệm mua sắm tài sản công:

Mua sắm công hay mua sắm Chính phủ là một phạm trù kinh tế có từ lâu
đời, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của nhà nước. Trên thực
tiễn, có nhiều quan điểm và cách hiểu khác nhau về khái niệm “Mua sắm
công”. Cụ thể theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Mua sắm
công được hiểu là những mua sắm của Chính phủ và các DNNN đối với hàng
hóa, dịch vụ và các công trình. Mua sắm công là một chuỗi các hoạt động bắt
đầu từ việc đánh giá nhu cầu đến đấu thầu, quản lý thầu và thanh toán”. Luật
mẫu về MSCP của Uỷ ban về Luật Thương mại quốc tế của Liên Hiệp quốc
(UNCITRAL) định nghĩa Mua sắm công là việc một cơ quan mua sắm công
tiến hành mua sắm hàng hoá, dịch vụ xây dựng hoặc dịch vụ. Một khái niệm


21

khác về mua sắm công được Sue Arrowsmith đưa ra trong cuốn “Giới thiệu
quy định về mua sắm công” như sau: “Mua sắm công là hành động của Chính
phủ trong việc mua sắm hàng hoá và dịch vụ cần thiết cho việc thực hiện các
chức năng của Chính phủ”. Trong cuốn “Mua sắm công: Nguyên tắc, phân
loại và các hình thức”, tác giả Jorge Lynch định nghĩa: “Mua sắm công là một
quá trình bao gồm mọi hành động kể từ giai đoạn nhận diện và lên kế hoạch
cho một nhu cầu mua sắm cho tới khi trao hợp đồng”. Theo Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO), khái niệm mua sắm công được quy định trong Thỏa
thuận chung về mua sắm Chính phủ theo đó: “Mua sắm Chính phủ là hoạt
động mua sắm được tiến hành bởi cơ quan nhà nước ở trung ương và địa
phương”. Như vậy, xét về phương diện lý thuyết có thể quan niệm mua sắm
công là một hoạt động thường xuyên của các Chính phủ nhằm hình thành cơ
sở vật chất cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ cũng
như của các cơ quan nhà nước khác trong bộ máy nhà nước. Luật Mua sắm
công của Trung Quốc quy định: “Mua sắm Chính phủ quy định trong luật này
là việc mua sắm hàng hóa, dịch vụ, dự án được quy định trong danh mục mua

sắm tập trung được tập hợp theo quy định của pháp luật, được thực hiện bởi
tất cả các tổ chức nhà nước ở các cấp chính quyền, bởi các cơ quan, tổ chức
mà việc mua sắm được thực hiện từ ngân sách nhà nước”.
Từ những quan điểm và cách hiểu như trên, tác giả đưa ra khái niệm mua
sắm công như sau: “Mua sắm công là hoạt động mua sắm do Chính phủ và
các cơ qua sử dụng vốn ngân sách nhà nước thực hiện nhằm mua sắm các loại
hàng hóa, dịch vụ phục vụ hoạt động thường xuyên, đầu tư phát triển và thực
hiện các chức năng của nhà nước”. Với quan điểm như vậy, mua sắm công có
vai trò rất quan trọng đảm bảo cho hoạt động của bộ máy nhà nước, cũng như
thực hiện triển khai các dự án đầu tư công và duy trì, phát triển hoạt động của
các doanh nghiệp nhà nước sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách để thực hiện các


22

dự án đầu tư. Mua sắm công không bao gồm các khoản chi tiền lương để thuê
lao động và trả lương cho các cán bộ, công chức, mà chỉ bao gồm các khoản
chi mua sắm các loại hàng hóa, dịch vụ phục vụ đầu tư phát triển, duy trì hoạt
động thường xuyên, mua sắm vật tư, trang thiết bị, máy móc, hàng hóa hoặc
thuê các dịch vụ tư vấn để triển khai thực hiện các dự án đầu tư công và các
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước.
Điều 31 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công 2017 có quy định về mua
sắm tài sản công phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước như sau:
1. Việc mua sắm trụ sở làm việc và tài sản công khác được áp dụng trong
trường hợp cơ quan nhà nước chưa có tài sản hoặc còn thiếu tài sản so với
tiêu chuẩn, định mức nhưng Nhà nước không có tài sản để giao và không
thuộc trường hợp được thuê, khoán kinh phí sử dụng tài sản công.
2. Việc mua sắm tài sản công được thực hiện theo phương thức mua sắm
tập trung hoặc mua sắm phân tán.
3. Phương thức mua sắm tập trung được áp dụng bắt buộc đối với tài sản

thuộc danh mục tài sản mua sắm tập trung theo quy định của pháp luật về đấu
thầu.
Đối với tài sản không thuộc danh mục tài sản mua sắm tập trung nhưng
nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị có nhu cầu mua sắm tài sản cùng loại thì có thể
thống nhất gộp thành một gói thầu để giao cho một trong các cơ quan, tổ
chức, đơn vị mua sắm hoặc giao cho đơn vị mua sắm tập trung thực hiện việc
mua sắm.
4. Việc lựa chọn nhà thầu cung cấp tài sản được thực hiện theo quy định
của pháp luật về đấu thầu.
Cơ quan hành chính nhà nước:
Theo giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội: Cơ quan hành chính nhà nước là một tổ chức được thành lập và hoạt


23

động theo những nguyên tắc và trình tự nhất định, có cơ cấu tổ chức nhất định
và được giao những quyền lực nhà nước nhất định, được quy định trong các
văn bản pháp luật để thực hiện một phần những nhiệm vụ, quyền hạn của nhà
nước [9, tr.8].”
Các Cơ quan nhà nước có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo thành một
thể thống nhất đó chính là bộ máy nhà nước.
Theo giáo trình Luật Hành chính trường Đại học Luật Hà Nội: Cơ quan
hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, trực thuộc
trực tiếp hoặc gián tiếp Cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, có phương
diện hoạt động chủ yếu là hoạt động chấp hành - điều hành, có cơ cấu tổ chức
và phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định [8, tr12].
Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành bộ máy nhà
nước. Mỗi cơ quan hành chính nhà nước có chức năng, nhiệm vụ khác nhau
theo quy định của pháp luật hiện hành. Các cơ quan hành chính nhà nước có

quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một thể thống nhất, bao gồm: cơ quan
lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan toà án và cơ quan kiểm sát được thành
lập để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước.
Cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan chấp hành, điều hành của cơ
quan quyền lực nhà nước, được tổ chức trên nguyên tắc tập trung dân chủ; có
chức năng, nhiệm vụ và hoạt động trên cơ sở pháp luật; có thẩm quyền trong
phạm vi hoạt động chấp hành, điều hành. Trong quá trình hoạt động có quyền
ban hành các quyết định hành chính thể hiện dưới hình thức là các văn bản
quy phạm pháp luật và các văn bản cá biệt, có hiệu lực bắt buộc đối với các
đối tượng có liên quan.
Các Cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào
cơ quan quyền lực nhà nước, chịu sự lãnh đạo, giám sát của các cơ quan quyền
lực nhà nước cấp tương ứng và chịu trách nhiệm báo cáo trước cơ quan đó.


24

Tại Việt Nam, theo Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992: Chính phủ là Cơ quan chấp hành của Quốc hội, Cơ quan
hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là Cơ quan chấp hành của
Hội đồng nhân dân, Cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách
nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các Cơ quan Nhà nước cấp
trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
d. Quản lý về mua sắm tài sản công:
Quản lý mua sắm tài sản công là quản lý ngân sách nhà nước đã được
chuyểnhoá thành hiện vật - tài sản. Quản lý mua sắm tài sản công phải gắn
với quản lý ngân sách nhà nước.
Nhà nước là chủ sở hữu của mọi tài sản công, để thực hiện vai trò chủ sở
hữu tài sản công của mình, nhà nước phải thực hiện và phát huy chức năng

quản lý nhà nước đối với tài sản công để buộc mọi tổ chức, cá nhân giao trực
tiếp quản lý, sử dụng tài sản công phải thực hiện theo ý chí của Nhà nước
-Người đại diện chủ sở hữu tài sản công. Nhà nước thực hiện thống nhất về cơ
chế, chính sách, chế độ quản lý; theo tiêu chuẩn, định mức; thực hiện phân
cấp quản lý tài sản công: phải phù hợp với phân cấp về quản lý kinh tế - xã
hội, về tổ chức bộ máy nhà nước; phải phù hợp với phân cấp về quản lý ngân
sách nhà nước; phải phù hợp với trình độ và năng lực quản lý khi được giao
trực tiếp sử dụng tài sản công; Nội dung phân cấp quản lý tài sản công: phân
định rõ phạm vi, nội dung, quyền hạn, trách nhiệm quản lý tài sản công; phân
cấp về việc xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, chế độ quản lý tài sản
công; phân cấp về quản lý nhà nước đối với tài sản công. Nhà nước phải thực
hiện: xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật về quản lý tài sản công; Sử
dụng hệ thống các công cụ đòn bẩy kinh tế để quản lý tài sản công; Sử dụng
công cụ kiểm tra, kiểm soát thường xuyên. Việc mua sắm tài sản phải căn cứ


25

vào dự toán hàng năm được giao, kế hoạch mua sắm, dự án viện trợ được cấp
có thẩm quyền phê duyệt và thông qua đấu thầu hoặc chỉ định thầu. Khi tiến
hành bàn giao phải lập biên bản giao nhận tài sản theo đúng quy định.
Quản lý nhà nước là sự quản lý xã hội bằng quyền lực nhà nước, ý chí
nhà nước, thông qua bộ máy nhà nước tạo thành hệ thống tổ chức điều khiển
các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người để đạt được mục tiêu
kinh tế - xã hội nhất định, theo những thời gian nhất định với hiệu quả cao.
Từ thực tiễn nghiên cứu và tổng hợp cũng như xuất phát từ đặc điểm, vai
trò và chức năng của quản lý nhà nước, Luận án đưa ra khái niệm QLNN về
mua sắm tài sản công như sau: “Quản lý nhà nước về mua sắm tài sản công
là sự tác động có tổ chức bằng quyền lực nhà nước đối với hoạt động mua
sắm công của các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước và các dự

án đầu tư công để định hướng hoạt động đấu thầu mua sắm công đảm bảo
cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế”. Theo đó để thực hiện
chức năng QLNN về mua sắm tài sản công, nhà nước thiết lập một hệ thống
cơ quan được tổ chức chặt chẽ, ở các cấp khác nhau từ trung ương đến địa
phương, có sự phân rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sử dụng quyền lực
nhà nước để tác động, điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của
các cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động mua sắm tài sản công bằng các công
cụ pháp luật, chính sách quản lý với các phương pháp quản lý khác nhau, để
các hoạt động mua sắm tài sản công đó diễn ra tuân thủ theo quy định của nhà
nước, nhằm đạt được các mục tiêu và yêu cầu của quản lý nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm và hình thức mua sắm tài sản công trong các cơ quan
hành chính nhà nước
a. Đặc điểm mua sắm tài sản công trong các cơ quan hành chính nhà nước:
Tài sản trong cơ quan hành chính nhà nước có các đặc điểm sau:
- Được mua sắm từ nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn của các dự án, vốn


×