Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

TỔNG QUAN VỀ NHÀ MÁY XI MĂNG 78

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.87 KB, 14 trang )

TỔNG QUAN VỀ NHÀ MÁY XI MĂNG 78
1. Quá trình hình thành và phát triển
1.1 Quá trình hình thành
Nhà máy xi măng 78 được thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1978, tiền thân là
Xí nghiệp xi măng 78 thuộc Quân chủng Phòng Không - Không quân, Bộ Quốc
phòng.
Sau ngày giải phóng miền Nam tháng 4 năm 1975 thống nhất đất nước, năm
1976 trong khi cả nước đang tưng bừng như một công trường xây dựng thực hiện
theo di chúc của Bác Hồ “Xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” thì
cuối năm 1977, tình hình biên giới Tây Nam Việt Nam – Campuchia diễn biến
phức tạp.
Bước sang năm 1978, tình hình quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc và biên
giới phía Bắc ngày càng căng thẳng. Yêu cầu triển khai các trận địa phòng không
sẵn sàng chiến đấu bảo vệ bầu trời Tổ quốc Việt Nam và xây dựng doanh trại của
Quân chủng được đặt ra khẩn trương. Trong khi đó, thị trường vật liệu xây dựng
nhất là xi măng lại khan hiếm. Để đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng trận địa,
doanh trại của Quân chủng và góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước,
theo đề nghị của đồng chí Đại tá Nguyễn Điện – Cục trưởng Cục Hậu cần Quân
chủng, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân chủng giao cho Đảng ủy, thủ trưởng Cục Hậu
cần nghiên cứu làm luận chứng kinh tế kỹ thuật xây dựng xí nghiệp xi măng.
Tháng 3 năm 1978, công trường của xí nghiệp bước vào thi công mặt bằng, đến
tháng 5 năm 1978, tiến hành đào móng và xây dựng các hạng mục của xí nghiệp.
Ngày 15/12/1978: tiến hành sản xuất thử dây truyền hoàn chỉnh.
Ngày 20/12/1978: cho ra lò những tấn xi măng đầu tiên.
Ngày 22/12/1978, trước sự chứng kiến của Đảng ủy Bộ Tư lệnh Quân chủng,
các Cục, đại diện chính quyền địa phương, đồng chí Trung tướng Nguyễn Xuân
Mậu – Chính ủy Quân chủng xuống dự lễ cắt băng khánh thành xí nghiệp và lấy
tên là “Xí nghiệp xi măng 78”.
Năng lực đất đai, nhà xưởng:
+ Diện tích đất: 165.967 m
2


+ Diện tích nhà xưởng: 14.550 m
2

Địa chỉ: Xã Đồng Tân, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
Điện thoại: +84 – 25 825 200 Fax: +84 – 25 825 200
1.2. Quá trình phát triển
Quá trình phát triển của nhà máy được chia thành các giai đoạn chủ yếu sau:
* Giai đoạn từ 1979 đến 1988:
Công ty thực hiện chính sách vừa sản xuất vừa hoàn thành dây truyền công
nghệ, xây dựng hệ thống kho, xưởng, điện, nước. Đồng thời kết hợp vừa làm vừa
học hỏi kinh nghiệm nâng cao công suất, chất lượng sản phẩm. Do vậy kết quả sản
xuất hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch. Tính trung bình trong 10 năm đạt 104%
kế hoạch, chất lượng xi măng đảm bảo, kịp thời cung cấp xi măng cho việc xây
dựng doanh trại Quân chủng, nộp ngân sách 44.942.000 đồng.
* Giai đoạn từ 1989 đến 1998:
Theo Nghị quyết Đại hội Đảng VI, từ năm 1989 công ty chuyển sang chế độ
hạch toán kinh tế.
Từ năm 1991, công ty đã đầu tư nghiên cứu và áp dụng khoa học công nghệ
mới vào sản xuất. Đến năm 1992, công ty đã sản xuất xi măng PC400 thay cho xi
măng PC300 trước đây.
Từ năm 1993 – 1995, công ty đã đầu tư 1,4 tỷ đồng để mua sắm, lắp đặt hai
máy nghiền có công suất 2 tấn/giờ và đại tu hàng loạt máy móc thiết bị, nâng cao
công suất thực tế của công ty lên 1,5 lần.
Theo Quyết định số 489/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng ngày 18 tháng 04 năm
1996, “Xí nghiệp xi măng 78” được đổi tên thành “Công ty xi măng Phòng
không”. Để đáp ứng yêu cầu sản xuất của Quân chủng và sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng chí Phạm Anh Vương - Giám đốc công ty đã trực
tiếp chỉ đạo xây dựng và bảo vệ luận chứng kinh tế kỹ thuật, với công suất là
60.000 tấn/năm, sản xuất xi măng PC400 theo phương pháp công nghệ tiên tiến và
lấy tên là Công ty xi măng Phòng không.

Năm 1996, sản phẩm xi măng portlant bền sunfat PC30 được tặng Bằng khen
về chất lượng tại triển lãm hàng công nghiệp Việt Nam.
Năm 1997, sản phẩm xi măng portlant bền sunfat PC30 của Công ty đã được
Tổng Cục đo lường chất lượng cấp Giấy chứng nhận hợp chuẩn (Số 0055017 –
S26 ngày 28/6/1997).
Tính từ năm 1993 đến tháng 10 năm 1998, Công ty đạt doanh thu là 86,5 tỉ
đồng, lợi nhuận là 1,7 tỉ đồng, nộp ngân sách 5,8 tỉ đồng.
* Giai đoạn từ 1999 đến nay:
Để đáp ứng nhu cầu đặt hàng và giao hàng được thuận tiện, nhanh chóng, nắm
bắt kịp thời phản ứng, ý kiến của khách hàng truyền thống tại Hà Nội, Ban Giám
đốc Công ty đã đề nghị Bộ Quốc phòng cho phép và tiến hành xây dựng Văn
phòng đại diện (Trung tâm điều phối xi măng) tại Hà Nội. Đến năm 2001 thì đã
xây dựng xong với tổng diện tích là 978 m
2
, trong đó xây dựng kho chứa xi măng
với công suất là 100 tấn; địa chỉ: Số 3 Cù Chính Lan, Thanh Xuân, Hà Nội.
Theo Quyết định số 80/2003/QĐ-TTg ngày 29/4/2003 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trực
thuộc Bộ Quốc phòng giai đoạn 2003 – 2005 và theo đề nghị của Tư lệnh Quân
chủng Phòng không – Không quân, Bộ Quốc phòng đã ra Quyết định số
116/2003/QĐ-BQP sáp nhập Công ty xây dựng 244 và Công ty xi măng phòng
không vào Công ty xây dựng công trình hàng không (ACC) thuộc Quân chủng
Phòng không – Không quân. Theo Quyết định này, Công ty xi măng Phòng không
được đổi tên thành “Nhà máy xi măng 78”, trực thuộc Công ty xây dựng công trình
hàng không (ACC).
Nhà máy đã đầu tư để nâng cao công suất thiết kế từ 6 vạn tấn lên 8 vạn
tấn/năm. Nhà máy có đội ngũ kỹ thuật và kiểm tra chất lượng sản phẩm giàu kinh
nghiệm, chuyên môn giỏi để quản lý và kiểm tra thường xuyên ở tất cả các công
đoạn sản xuất theo chế độ 24/24 giờ, có phòng thí nghiệm cơ – lý hóa với đủ các
trang thiết bị cần thiết phục vụ cho việc theo dõi, kiểm tra, xử lý nhanh và chính

xác về mặt công nghệ. Nhà máy có 100% CBCNV đều được đào tạo cơ bản về kỹ
thuật sản xuất xi măng; một số được gửi đi đào tạo tại Trường Đại học Bách khoa
Hà Nội. Riêng công nhân và cán bộ quản lý khu lò nung được cử đi học tập tại
Trung Quốc.
Từ một cơ sở sản xuất yếu kém, lạc hậu về công nghệ và thiết bị cộng với sự
cạnh tranh gay gắt của thị trường, tưởng chừng nhà máy không trụ vững song với ý
chí quyết tâm, sự cần cù, dám nghĩ,dám làm, mạnh dạn đầu tư đổi mới, loại bỏ
những trang thiết bị cũ kỹ, lạc hậu bằng những trang thiết bị mới hiện đại. Cùng
với sự quản lý của cán bộ nhà máy và sự năng động, sáng tạo không ngừng của tập
thể cán bộ công nhân viên thì nhà máy xi măng 78 đã tìm được hướng đi đúng cho
mình, đứng vững trên thị trường và ngày một phát triển, trở thành một trong những
“gương mặt điển hình” của Hiệp hội xi măng lò đứng Việt Nam cũng như của tỉnh
Lạng Sơn.
Thị trường tiêu thụ chính hiện nay là Hà Nội (80% – 85%), còn lại là một số
tỉnh lân cận như Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh và Lạng Sơn.
Phát huy năng lực máy móc thiết bị, đầu tư đúng hướng, kịp thời, tạo được uy
tín về chất lượng sản phẩm truyền thống trên thị trường. Trong những năm gần
đây, cùng với sự phát triển của đất nước, công cuộc kiến thiết, xây dựng công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, sự gia tăng đầu tư của các thành phần kinh tế trong
nước và nước ngoài thì nhà máy đã phát huy được hiệu quả sản xuất kinh doanh
của mình.
Ngoài những nỗ lực và kết quả đạt được trong quá trình sản xuất kinh doanh
của Nhà máy trong những năm vừa qua thì Nhà máy còn chú trọng và quan tâm
đến các vấn đề về xã hội, môi trường… Tổ chức Đảng và các đoàn thể được củng
cố phát triển, được đánh giá là cơ sở vững mạnh liên tục.
Từ năm 2000, Nhà máy đã áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO
9001:2000
2. Các thành tựu đạt được trong quá trình phát triển
TT CHỈ TIÊU ĐVT NĂM
2003 2004 2005 2006

1 Sản phẩm chủ yếu: xi măng PCB30
Tấn

87.890

88.112

90.437

93.104
2 Doanh thu Triệu đồng 48.775 48.990 50.807 55.862
3 Chi phí sản xuất kinh doanh Triệu đồng 45.425 44.397 46.095 50.948
4 Lợi nhuận trước thuế (LNTT) Triệu đồng 3.350 4.593 4.712 4.914
5 Lợi nhuận sau thuế (LNST) Triệu đồng 2.278 3.307 3.393 3.538
13 Nộp ngân sách Triệu đồng 4.738 4.841 4.905 5.104
15 Năng suất lao động BQ/người Tấn 244,1 239,7 239,6 255
16 Thu nhập BQ người/tháng Triệu đồng 1,509 1,784 1,805 1,917
Mấy năm qua, nhà máy xi măng 78 khá thành công trong hoạt động sản xuất
kinh doanh. Sản phẩm xi măng của nhà máy không những phục vụ cho nhiệm vụ
Quốc phòng mà còn phục vụ cho mọi đối tượng khác với uy tín chất lượng ngày
càng cao. Số liệu thống kê cho thấy, năm 2003 sản lượng sản xuất và tiêu thụ xi
măng đạt 87.890 tấn thì tới năm 2006 đã lên tới 93.104 tấn, nâng tổng doanh thu từ
48.775 triệu đồng năm 2003 lên 55.862 triệu đồng năm 2006; nộp ngân sách từ

×