Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.26 KB, 22 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN SÁNG KIẾN
Học, học nữa, học mãi!
Danh ngôn nổi tiếng của Lê - Nin là hành trang theo tôi suốt cả cuộc đời.
Thật vậy! Là giáo viên đứng trên bục giảng, bản thân không ngừng phấn đấu
học hỏi. Học ở bậc thầy cô, học ở trường lớp, học ở đồng chí, đồng nghiệp, học ở
sách báo, ở mọi phương tiện và luôn luôn tự hoàn thiện mình để góp một phần
nho nhỏ cho ngành giáo dục huyện nhà.
Trong giai đoạn đổi mới của đất nước, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh hơn
nữa công tác giáo dục, coi đây là một trong những yếu tố đấu tiên, yếu tố quan
trọng góp phần phát trển kinh tế - xã hội. Mục tiêu của giáo dục là: “Nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”.
Bồi dưỡng nhân tài cho đất nước là một trong những nhiệm vụ của ngành
giáo dục, xem trọng “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Bồi dưỡng học sinh
giỏi cũng là công tác cực kì quan trọng giúp cho ngành giáo dục phát hiện nhân
tài, lựa chọn những mầm giống tương lai cho đất nước trong sự nghiệp trồng
người. Đồng thời giúp cho học sinh thực hiện được ước mơ là con ngoan, trò giỏi
và có định hướng đúng về nghề nghiệp của mình trong tương lai.
Trong những năm gần đây, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử 8
đạt được thành tích đáng kể. Tuy nhiên chất lượng của học sinh giỏi chưa ổn định
chưa đáp ứng kì vọng của nhà trường đề ra. Điều đó, xuất phát từ nhiều nguyên
nhân khác nhau như xã hội có những nhận thức chưa đầy đủ về vị trí chức năng
của bộ môn Lịch sử, nhiều phụ huynh cho đây là môn học phụ không mang lại
tương lai cho con em mình, không muốn cho con em tham gia. Vì thế, tình trạng
học sinh chưa nắm được những sự kiện lịch sử cơ bản hay nhớ sai hoặc nhầm lẫn
kiến thức lịch sử là hiện tượng khá phổ biến.
Để đạt được kết quả cao trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi, bản thân tôi
luôn trăn trở, tìm tòi, khảo nghiệm cách thức, biện pháp, phương pháp phù hợp
nhất, làm thế nào để phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử, để các em
nắm vững kiến thức bước vào kỳ thi học sinh giỏi cũng như các kỳ thi khác. Từ
kinh nghiệm vốn có của mình, tôi mạo muội chọn đề tài: “Một số biện pháp


nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử 8”. Hy vọng những
kinh nghiệm này sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào thành tích giáo dục của nhà
1


trường nói riêng và của huyện nhà nói chung.
2. ĐIỂM MỚI CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài đã đưa ra được những giải pháp cụ thể trong công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi môn Lịch sử 8, đã xác định được tư tưởng cho học sinh làm cho học sinh
yên tâm và hứng thú trong học tập.
Cách kiểm soát kiến thức của học sinh thông qua từng chuyên đề và qua các
bài kiểm tra.
Học sinh có kỹ năng phân tích vấn đề thông qua các hoạt động bàn bạc, thảo
luận trong quá trình học tập.
Cách hướng dẫn học sinh nhận dạng đề ra, cách làm bài của học sinh.
* Phạm vi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Với sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp nâng cao chất lượng bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử 8” áp dụng cho đối tượng học sinh khối 8 nơi
tôi đang công tác và giáo viên giảng dạy môn Lịch sử 8 ở các trường THCS.

2


II. PHẦN NỘI DUNG
1. THỰC TRẠNG NỘI DUNG CẦN NGHIÊN CỨU
1.1. Về phía giáo viên
Phần lớn giáo viên đều nhận thức được tầm quan trọng của công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử. Những người được phân công giảng dạy tâm
huyết với công tác bồi dưỡng, có năng lực chuyên môn vững vàng, biết áp dụng
các phương pháp đặc trưng bộ môn và ứng dụng công nghệ thông tin vào quá

trình dạy học góp phần nâng cao chất lượng đội tuyển.
Song phương pháp ôn tập bồi dưỡng còn đơn điệu chủ yếu dạy kiến thức ở
sách giáo khoa kết hợp với sách giáo viên, các tài liệu tự sưu tầm được và kinh
nghiệm của bản thân. Tuy nhiên khả năng kết hợp đa dạng các phương pháp trong
ôn tập bồi dưỡng chưa linh hoạt, tính sáng tạo chưa cao.
Bên cạnh công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, giáo viên còn phải bảo đảm chất
lượng đại trà, thậm chí còn làm công tác kiêm nhiệm khác, khối lượng công việc
nhiều do đó việc đầu tư cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cũng có phần bị hạn
chế.
1.2. Về phía học sinh
Trước đây học sinh quan niệm môn Lịch sử chỉ là môn học thuộc lòng,
không cần phải tư duy, không có bài tập, không cần đọc thêm tài liệu tham khảo.
Vì vậy học sinh chỉ học một cách hời hợt theo nội dung vở ghi, ít và thiếu phần
mở rộng, liên hệ. Kết quả là khi kiểm tra, học sinh không nắm được các kiến thức,
sự kiện, thời gian, câu hỏi mở rộng, nâng cao không giải quyết được.
Thời gian học môn bồi dưỡng của học sinh chưa nhiều do các em còn phải
học các môn chính khóa và dành thời gian nhiều cho các môn học khác.
Học sinh chưa thực sự yêu thích môn học, phần lớn các em đều cho rằng học
Lịch sử rất khó, khô khan, quá nhiều sự kiện cần ghi nhớ… Hơn nữa chương trình
Lịch sử 8 quá trừu tượng, phần kiến thức lịch sử thế giới quá dài, độ nhớ của các
em không được lâu. Do đó, học sinh cảm thấy nhàm chán khi học lịch sử, nhận
biết sự kiện không sâu sắc nhầm lẫn giữa sự kiện này với sự kiện kia. Chính vì
vậy chất lượng đội tuyển chưa ổn định.
* Kết quả cụ thể số học sinh bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử 8 qua các năm
trước khi áp dụng đề tài như sau:
3


Số lượng học
Giải cá nhân Xếp vị thứ đồng đội

sinh tham gia
Năm học 2015 - 2016
02
01
15
Năm học 2016 - 2017
02
01
11
1.3 Nguyên nhân của thực trạng
Qua trao đổi với các đồng nghiệp và thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy
một số nguyên nhân sau:
Một là chương trình chính khóa quá nhiều môn, thêm vào đó các em lại tham
gia bồi dưỡng học sinh giỏi nên rất hạn chế về thời gian tự học, tự nghiên cứu.
Hai là tài liệu Bồi dưỡng học sinh giỏi có khá nhiều, tuy nhiên các tài liệu đó
đơn thuần chỉ chứa đựng nội dung kiến thức thuần tuý, chưa có tài liệu đề cập đến
kinh nghiệm, cách thức, phương pháp, các kĩ năng làm bài lịch sử một cách cụ thể
để giúp giáo viên dễ dàng tiếp cận. Do đó công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
thường gặp khó khăn, kết quả chưa ổn định.
Ba là thực tế hiện nay, môn Lịch sử ít được học sinh, phụ huynh chú trọng
đầu tư và cho rằng đây là môn học phụ khó xác định nghề nghiệp trong tương lai.
Do đó việc hình thành đội tuyển học sinh có năng khiếu học tập bộ môn rất khó
khăn. Đa số học sinh lựa chọn, tham gia bồi dưỡng các môn học khác, đội tuyển
Sử phải chọn sau điều đó ảnh hưởng không nhỏ công tác bồi dưỡng và chất lượng
của đội tuyển.
Mặt khác, học sinh chưa bắt kịp với sự đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát triển năng lực, chưa chủ động và linh hoạt trong bồi dưỡng.
2. GIẢI PHÁP
Ôn luyện học sinh giỏi không giống như tiết dạy ở lớp học bình thường. Vì ở
lớp ta dạy cho học sinh phù hợp với ba đối tượng (khá giỏi, trung bình và yếu

kém). Song dạy cho học sinh đi thi có nghĩa là ta đưa các em “mang chuông đi
đánh đất người”. Đối tượng dự thi đều ngang tầm nhau về mặt học lực, nhận thức.
Vì vậy ngoài kiến thức sách giáo khoa giáo viên cần có thêm tài liệu nâng cao, để
giúp các em trong đội tuyển bồi dưỡng học sâu, hiểu rộng.
Người dạy phải có niềm tin và tâm huyết với nghề. Phải biết băn khoăn, trăn
trở khi học sinh không hiểu bài, biết vui mừng phấn khởi khi học sinh thành đạt.
Hay nói cách khác là người dạy phải lấy kết quả của học sinh làm thước đo tay
nghề của nhà giáo.
Thời gian

4


Yếu tố cơ bản nhất là người dạy luôn luôn biết tự hoàn thiện mình. Có tâm
huyết với nghề chưa đủ, hơn thế nữa phải có năng lực chuyên môn vững vàng,
biết xác định được kiến thức trọng tâm, biết làm chủ điều mình dạy và phải biết
dạy học sinh cách học để học sinh bình tĩnh, tự tin lĩnh hội kiến thức và tư duy
sáng tạo. Nâng quan điểm từ biết để hiểu để vận dụng vào làm bài.
Sau đây tôi xin trình bày một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử 8 như sau:
1. Phát hiện và tuyển chọn học sinh giỏi
Phát hiện và lựa chọn học sinh là yếu tố quan trọng đầu tiên của người thầy,
bởi nếu lựa chọn những học sinh không đúng yêu cầu thì kết quả mang lại sẽ bị
hạn chế rất nhiều, có khi lại uổng công vô ích. Công tác tuyển chọn học sinh giỏi
xin phép được nói rộng ra hai khối tự nhiên và xã hội:
Đối với khối tự nhiên: Học sinh giỏi toán, chắc chắn sẽ học khá các môn lí,
hoá, sinh.
Đối với khối xã hội: Học sinh học giỏi môn ngữ văn, ắt sẽ học khá môn lịch
sử.
Từ thực tế đó giúp ta dễ dàng trong khâu tuyển chọn, song học sinh cứ xem

thường môn Lịch sử cho đó là môn học phụ. Mặt khác giáo viên dạy môn Lịch sử
cũng thường bị lép vế trong khâu tuyển chọn học sinh, phải lựa chọn đối tượng
sau cùng. Những em có năng khiếu đặc biệt thường thích ôn luyện các môn học tự
nhiên. Vì có kiến thức cơ bản, vững vàng các em cần nắm rõ các công thức, quy
tắc, định nghĩa, định lí rồi linh hoạt nhạy bén, áp dụng để làm bài. Còn các môn
học ít tiết như Lịch sử, Địa lí cần học bài dài và nhiều nên phần đông các em rất
chán. Bởi vậy giáo viên cần động viên, khuyến khích thì học sinh mới chịu đi ôn.
Khi lựa chọn được đối tượng để bồi dưỡng rồi thì giáo viên phải biết yêu
nghề tận tụy với nghề. Luôn luôn biết khích lệ, níu kéo các em vào niềm ham mê
yêu thích bộ môn. Đồng thời giáo viên cũng phải biết xây dựng vun đắp uy tín
của mình để có được lòng tin đối với học sinh.
2. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn
Việc xây dựng kế hoạch bồi dưỡng sẽ giúp cho người giáo viên nắm chắc về
nội dung cơ bản cần truyền đạt cho học sinh, xác định cụ thể con đường, cách
thức, nhiệm vụ của mình. Hiện nay ngoài các buổi học chính khóa, học sinh còn
phải học phụ đạo, sinh hoạt ngoại khóa, lao động... nên thời gian ôn thi học sinh
5


giỏi sẽ bị hạn chế. Do vậy muốn cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được tốt,
người giáo viên cần xây dựng kế hoạch cụ thể; trong quá trình dạy, giáo viên bám
sát và làm theo kế hoạch đó để đảm bảo thời gian, bảo đảm đủ nội dung kiến thức.
Tùy thuộc vào nội dung kiến thức của từng giai đoạn lịch sử, tùy vào tình hình
thực tế cụ thể, giáo viên đưa ra kế hoạch bồi dưỡng cho phù hợp.
Thông thường, kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi môn sử được xây dựng
theo cấu trúc gồm có ba yêu cầu (số tiết thực hiện của chuyên đề, tên chuyên đề
và những nội dung kiến thức trọng tâm của chuyên đề).
Tuy nhiên nếu lập kế hoạch không thì chưa đủ mà giáo viên cần phải soạn
một đề cương ôn thi chi tiết để làm cơ sở cho việc bồi dưỡng của giáo viên và học
tập của học sinh. Đề cương phải biên soạn ngắn gọn, súc tích, nêu bật được trọng

tâm của vấn đề, trong quá trình bồi dưỡng, giáo viên dựa vào đó để mở rộng phân
tích, dẫn chứng để làm rõ bản chất của vấn đề. Cùng với đề cương chi tiết là hệ
thống các câu hỏi ôn tập, các dạng đề thường gặp (kể cả đề của những năm gần
đây) để học sinh tham khảo và để sau khi học xong có thể tự kiểm tra kiến thức
của mình.
3. Sử dụng các phương pháp bộ môn để hướng dẫn các em nắm vững
kiến thức
3.1 Dạy học sinh nắm kiến thức cơ bản
Phân phối chương trình và yêu cầu kiến thức trong chương trình Lịch sử 8 ở
trường THCS chỉ dừng lại ở mức độ nhất định, bài giảng trong SGK đều nhằm
mục đích cung cấp kiến thức cơ bản về tiến trình lịch sử thế giới và Việt Nam
theo diện rộng, chưa đi vào chiều sâu. Đối với học sinh giỏi yêu cầu phải hiểu biết
sâu sắc và toàn diện. Các em phải nắm chắc bản chất các sự kiện, hiện tượng lịch
sử, các vấn đề lịch sử,… để có đủ tự tin, có sự sáng tạo khi giải quyết bất kì đề thi
nào.
Trong chương trình bồi dưỡng, bản thân tôi kết hợp dạy kĩ hệ thống kiến
thức cơ bản theo sách giáo khoa kết hợp chuẩn kiến thức kĩ năng bằng việc lựa
chọn những sự kiện, những vấn đề lịch sử trọng tâm dạy cho các em rồi tiến hành
mở rộng kiến thức bằng các chuyên đề nâng cao.
Các chuyên đề trong chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử 8 đi sâu
làm rõ được hoàn cảnh lịch sử, nội dung bản chất của các vấn đề lịch sử, các giai
đoạn lịch sử, mối quan hệ giữa quá khứ - hiện tại - tương lai. Đảm bảo cho học
6


sinh đạt được mức độ về kiến thức: nhận biết, thông hiểu, vận dụng, phân tích,
đánh giá.
Những kiến thức từ các chuyên đề là công cụ giúp học sinh giải quyết tốt các
loại đề thi. Giáo viên tiến hành dạy từng chuyên đề phù hợp với chương trình khả
năng tiếp nhận của từng đối tượng học sinh bồi dưỡng. Sau khi dạy xong một

chuyên đề, một bài lịch sử, giáo viên yêu cầu học sinh phải dành một khoảng thời
gian để suy nghĩ, nhìn nhận vấn đề đó, đặc biệt là ý nghĩa của sự kiện đó với giai
đoạn trước và sau nó.
Ví dụ: Khi ôn tập về cuộc Duy Tân Minh Trị của Nhật Bản - năm 1868 (phần
lịch sử thế giới cận đại). Sau khi trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản, giáo
viên có thể nêu câu hỏi: Bản chất, kết quả của cuộc cải cách Minh Trị? Tại sao
nói chính sách giáo dục là nhân tố "chìa khóa" của công cuộc hiện đại hoá đất
nước?
Với câu hỏi này thì bằng kiến thức đã học, đã ôn tập, học sinh tự nghiên cứu
hoặc được sự hướng dẫn của giáo viên để rút ra các nội dung trả lời cụ thể như
sau:
Về bản chất:
Trên cơ sở những đặc trưng cuộc cách mạng, học sinh sẽ rút ra kết luận đây
là cuộc cách mạng tư sản không triệt để.
Học sinh phải nêu được những biểu hiện để chứng minh đó là cuộc cách
mạng không triệt để: Ruộng đất rơi vào tay địa chủ mới; chính quyền không hoàn
toàn thuộc về giai cấp tư sản.
Kết quả: Học sinh nêu tác dụng của cải cách Minh Trị: Tạo điều kiện cho
chủ nghĩa tư bản phát triển; Nhật thoát khỏi thân phận một nước thuộc địa và phụ
thuộc. (Đặt trong bối cảnh lịch sử của Châu Á).
Chính sách giáo dục được xem là nhân tố chìa khoá cho công cuộc hiện đại
hóa của đất nước Nhật Bản:
Ý nghĩa : Giáo dục là chìa khoá nâng cao dân trí, đào tạo những con người
có khả năng lĩnh hội và vận dụng có hiệu quả những thành tựu của khoa học tiên
tiến.
Tác dụng: Tạo điều kiện cho việc tiếp thu tinh hoa văn hoá của thế giới, kinh
nghiệm quản lý kinh tế xã hội. Tạo điều kiện cho kinh tế công nghiệp tư bản phát
triển. Đưa Nhật hội nhập vào thế giới tư bản chủ nghĩa.
7



Khẳng định tầm quan trọng của giáo dục: So với các nước phương Tây, Nhật
là một nước công nghiệp, văn hoá khoa học kỹ thuật lạc hậu. Nhật tiến lên con
đường hiện đại hoá chỉ có thể đạt được kết quả từ sự đổi mới giáo dục, mà giáo
dục là "đòn bẩy" thúc đẩy đất nước phát triển và đổi mới xã hội một cách toàn
diện trên tất cả các mặt để Nhật tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa.
Theo bản thân, các em được tham gia dự thi học sinh giỏi môn Lịch sử 8
phải nắm vững kiến thức cơ bản của bộ môn Lịch sử 8 - kiến thức cơ bản ở đây
không chỉ là những sự kiện đơn lẻ mà phải bao gồm hệ thống những hiểu biết cần
thiết về những sự kiện, niên đại, nhân vật, địa danh, các nguyên lý, quy luật,
những kết luận khái quát, phương pháp, kĩ năng. Vì vậy, khi nắm vững kiến thức
học sinh mới có khả năng vận dụng để giải quyết được với các loại câu hỏi, bài
tập.
Bên cạnh đó việc quan trọng để cung cấp kiến thức cho học sinh là chọn và
giới thiệu những tài liệu đảm bảo chất lượng cho các em. Thị trường sách hiện
nay khá phong phú nhưng quỹ thời gian của học sinh thì có hạn, nên bản thân
chọn mua hoặc phôtô tài liệu cho học sinh như: Học tốt Lịch sử 8 (Ngọc Đạo
Phương Thảo), Chuyên đề bồi dưỡng Sử 8, Bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử 8
(Trương Ngọc Thơi), Phát triển năng lực trong môn Lịch sử 8 (Nguyễn Thị Bích –
Hoàng Thanh Tú) , Bí quyết chinh phục điểm cao Lịch sử 8 (TS. Nguyễn Văn
Ninh - Nguyễn Thị Phương Thanh), Hướng dẫn trả lời câu hỏi và bài tập Lịch sử
8, Bài tập bổ trợ và nâng cao Lịch sử 8; Bộ đề thi Lịch sử 11. Giáo viên còn giới
thiệu các địa chỉ tin cậy trên mạng internet để học sinh tham khảo…phục vụ công
tác bồi dưỡng đạt kết quả.
3.2 Rèn luyện kĩ năng ôn tập cho đội tuyển.
3.2.1 Kĩ năng ghi nhớ các sự kiện lịch sử cơ bản
Học Lịch sử không phải bắt buộc học sinh phải học thuộc lòng một cách máy
móc, một lúc phải nhớ quá nhiều sự kiện, song phải biết ghi nhớ, hiểu một số sự
kiện quan trọng, gắn với niên đại, địa danh, nhân vật lịch sử. Nếu không ghi nhớ
và không hiểu sự kiện lịch sử thì không thể làm tốt bài lịch sử, bởi vì bài lịch sử

không thể viết như một bài chính trị mà cần có sự kiện để chứng minh.
Ví dụ, khi học về cách mạng tháng Mười Nga, học sinh phải ghi nhớ và hiểu
nước Nga năm 1917 có hai cuộc cách mạng. Cách mạng tháng Hai thắng lợi đó là
lật đổ được chế độ Nga hoàng song cục diện chính trị tồn tại hai chính quyền song
8


song: Chính phủ lâm thời và các Xô -viết đại biểu. Đây là cuộc cách mạng dân
chủ tư sản. Lê-nin và Đảng Bôn - sê-vích quyết định tiếp tục làm cách mạng và
thắng lợi, lật đổ chính phủ lâm thời nhằm chấm dứt tình trạng hai chính quyền
cùng song song tồn tại. Đó là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới.
Muốn làm tốt bài thi môn Lịch sử các em cần phải ghi nhớ tốt sự kiện lịch
sử. Tuy nhiên nhiều em chưa có cách ghi nhớ phù hợp. Qua nhiều năm bồi dưỡng
bản thân đưa ra cho học sinh vài gợi ý về cách ghi nhớ.
Thứ nhất, ghi nhớ thời gian xảy ra sự kiện lịch sử. Mỗi bài, mỗi chương đều
có những sự kiện gắn với thời gian nhất định. Các em có kĩ năng ghi nhớ logic,
biết tìm ra điểm tựa để nhớ, có thể lập dàn ý, lập bảng hệ thống hóa. Các em có
thể ghi nhớ máy móc mối quan hệ giữa các sự kiện, giữa thời gian và địa điểm
xảy ra sự kiện.
Thứ hai, ghi nhớ các nhân vật lịch sử. Thông thường trong lịch sử mỗi sự
kiện đều gắn liền với những nhân vật nhất định, để dễ nhớ các nhân vật lịch sử,
theo bản thân có hai cách: một là lấy người để nói việc, hai là lấy việc để nói
người. Ví dụ khi nói về Lê nin chúng ta có thể liên hệ đến Chính sách kinh tế mới
hoặc cách mạng tháng Mười Nga, khi nói về đất nước Nhật Bản thoát khỏi số
phận là nước thuộc địa và trở thành nước đế quốc hùng mạnh vào cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX chúng ta nghĩ ngay đến Thiên hoàng Minh Trị. Việc kiểm tra sự ghi
nhớ các sự kiện lịch sử phải được tiến hành thường xuyên, ta có thể kiểm tra vào
thời gian đầu của buổi bồi dưỡng. Hình thức kiểm tra nên đa dạng, các thành viên
trong đội tuyển tự kiểm tra lẫn nhau.
3.2.2. Kĩ năng khái quát, tổng hợp sự kiện lịch sử

Vấn đề ghi nhớ sự kiện là cần thiết, là yêu cầu cần đạt khi bồi dưỡng đội
tuyển học sinh giỏi Lịch sử. Tuy nhiên đó chỉ mới là yếu tố “cần” nhưng chưa
“đủ” của một học sinh giỏi môn Lịch sử. Bởi vậy, sau khi nắm được nội dung của
các sự kiện đơn lẻ học sinh phải biết so sánh, tổng hợp, khái quát, liên kết các sự
kiện đó theo dòng lịch sử, hoặc đánh giá khái quát các sự kiện thành vấn đề lịch
sử theo một yêu cầu nhất định nào đó.
Trong thực tế đây là một “điểm yếu” của các học sinh trong đội tuyển học
sinh giỏi Lịch sử hiện nay. Chúng ta thường thấy rằng, các em nắm các sự kiện
lịch sử đơn lẻ rất tốt, nhiều em nhớ đến từng chi tiết nhỏ, nhưng “điểm yếu” của
9


các em chính là sự kết nối, khái quát, so sánh, phân tích các sự kiện đó thành một
chủ đề, một vấn đề, thì các em lại rất bị động, lúng túng.
Khi hướng dẫn cho học sinh trình bày các sự kiện lịch sử theo chủ đề, giáo
viên cần chú ý rèn luyện cho học sinh không nên chỉ đơn thuần trình bày các sự
kiện một cách đơn lẻ, mà trong quá trình trình bày, học sinh cần có sự “đánh giá”,
“bình luận” các sự kiện.
Ví dụ: Khi học xong chuyên đề: Các cuộc cách mạng tư sản nổ ra và thắng
lợi. Giáo viên hỏi học sinh: Tại sao nói: Giai đoạn chuyên chính dân chủ cách
mạng Gia- cô –banh là đỉnh cao của cách mạng Pháp? Vai trò các cuộc cách
mạng tư sản trong sự phát triển của lịch sử thế giới?
Để trả lời được câu hỏi trên học sinh phải hiểu được: Đây là thời kỳ dân chủ
phát triển cao nhất, đứng đầu là Rôbexpie. Là cuộc cách mạng lỗi lạc, chính
quyền mới sau khi được thành lập đã thông qua bản hiến pháp mới vào 6/1793.
Đây là bản hiến pháp cộng hoà đầu tiên của chế độ cộng hoà của nước Pháp. Là
một trong những bản hiến pháp dân chủ nhất trong thời kỳ cận đại.
*
Giai đoạn chuyên chính dân chủ cách mạng Gia- cô –banh là đỉnh cao của
cách mạng Pháp vì:

Thời kì cầm quyền của đại tư sản: vấn đề ruộng đất chưa được giải quyết.
Thời kì cầm quyền của Gi - rông - đanh: thiết lập nền cộng hòa nhưng vẫn
còn tàn dư chế độ phong kiến, phái Gi - rông - đanh không lo chống ngoại xâm và
nội phản mà chỉ lo củng cố quyền lực, cách mạng chuyển sang tay phái Gia - côbanh từ ngày 2/6/1793.
Thời kì cầm quyền của Gia - cô - banh: So với các giai đoạn cầm quyền của
phái đại tư sản, phái Gi –rông-đanh, giai đoạn cầm quyền của phái Gia - cô-banh
đã thực hiện đầy đủ những yêu cầu đặt ra như vấn đề ruộng đất, xóa bỏ tàn dư chế
độ phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển, chống ngoại xâm, bảo
vệ Tổ quốc.
Chính quyền Gia-cô-banh thực hiện nhiều biện pháp kiên quyết để trừng trị
bọn phản cách mạng và giải quyết những yêu cầu của nhân dân. Đất công xã mà
quý tộc phong kiến chiếm đoạt, được lấy chia cho nông dân. Ruộng đất tịch thu
của giáo hội và quý tộc trốn ra nước ngoài được chia thành những khoảnh nhỏ
bán cho nông dân. Ủy ban cứu nước còn trưng thu lúa mì, quy định giá bán tối đa
10


các mặt hàng thiết yếu cho dân nghèo, đồng thời cũng quy định mức lương tối đa
của công nhân.
Năm 1793 Hiến pháp mới được thông qua tuyên bố chế độ cộng hòa, xóa bỏ
hoàn toàn sự bất bình đẳng về đẳng cấp. Ban hành sắc lệnh “ Tổng động viên toàn
quốc” (ngày 23/8/1793) để huy động sức mạnh của nhân dân cả nước chống “thù
trong, giặc ngoài”, nhân dân tình nguyện tham gia quân đội cách mạng (kết quả
42 vạn người đã tình nguyện tham gia quân đội cách mạng).
Phái Gia - cô-banh đã dập tắt các cuộc nội loạn, giành nhiều thắng lợi trên
chiến trường đuổi quân xâm lược ra khỏi biên giới. Cách mạng Pháp đạt tới đỉnh
cao.
* Vai trò các cuộc cách mạng tư sản trong sự phát triển của lịch sử thế giới:
Cách mạng tư sản diễn ra ở các mức độ khác nhau nhưng đã lật đổ sự thống
trị của giai cấp phong kiến, thiết lập hệ thống nhà nước tư sản hoặc cải tổ nhà

nước phong kiến theo thiết chế tư bản. Chủ nghĩa tư bản sau khi xác lập bằng các
cuộc cách mạng tư sản sẽ phát triển lên giai đoạn cao hơn đó là chủ nghĩa đế
quốc.
Việc củng cố và phát triển của chủ nghĩa tư bản đòi hỏi phải xây dựng một
nền kinh tế vững mạnh, dựa trện sự phát minh và ứng dụng của thành tựu khoa
học kĩ thuật. Những thành tựu của khoa học xã hội và nhân văn cũng tạo nên
những chuyển biến to lớn về đời sống vật chất và tinh thần của con người.
3.2.3. Kĩ năng liên hệ, so sánh, đối chiếu tài liệu lịch sử
Với kĩ năng này yêu cầu các em phải biết liên hệ, so sánh, đối chiếu tài liệu
đang học với hiện tại. Công việc này được tiến hành trên cơ sở nắm vững sự kiện
đang học và hiểu rõ tình hình, nhiệm vụ hiện nay. Có nhiều biện pháp để tiến
hành:
Một là: Rút ra bài học kinh nghiệm của quá khứ cho hiện tại. Ví dụ: Em có
nhận xét gì về chính sách kinh tế mới? Theo hiểu biết của em, Đảng Cộng sản
Việt Nam có vận dụng chính sách này trong thời kì đồi mới hay không ?
Chính sách kinh tế mới là một bước lùi cần thiết để Liên Xô vượt qua những
khó khăn, thử thách, tạo đà vững bước vào thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội,
dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Bôn – sê – vích, đứng đầu là Lê-nin.

11


Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng kinh nghiệm này vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam trong thời kì đổi mới đó là: phát triển nền kinh tế sản xuất hàng hóa
nhiều thành phần có sự định hướng của Nhà nước.
Hai là: So sánh sự kiện lịch sử, rút ra điểm giống nhau, khác nhau, điểm
mạnh, điểm yếu là một kĩ năng không thể thiếu trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Lịch sử nói chung và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử 8 nói riêng. Nội
dung so sánh có thể là các cuộc cách mạng tư sản, các phong trào, các cuộc khởi
nghĩa...

Ví dụ: So sánh cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII với cách mạng
tháng Hai năm 1917 ở Nga. Giải thích vì sao có những điểm giống và khác nhau
đó?
Điểm giống:
Hai cuộc cách mạng đều giải quyết nhiệm vụ lật đổ chế độ quân chủ
chuyên chế, xóa bỏ những cản trở của chế độ phong kiến, mở đường cho chủ
nghĩa tư bản phát triển...
Điểm khác: Lãnh đạo cách mạng: Cách mạng tư sản Pháp do giai cấp tư sản
lãnh đạo, cách mạng tháng 2/1917 ở Nga do giai cấp vô sản lãnh đạo.
Động lực cách mạng: Cách mạng tư sản Pháp là liên minh giữa tư sản và
nông dân, cách mạng tháng 2/1917 ở Nga là khối liên minh công nông.
Hình thức chính quyền: Thắng lợi của cách mạn tư sản Pháp lập nên nền
chuyên chính của giai cấp tư sản; cách mạng tháng 2/1917 thành công, lập nên
chính quyền do giai cấp vô sản lãnh đạo, ngay sau đó giai cấp tư sản thành lập
chính phủ lâm thời, xuất hiện tình trạng hai chính quyền song song tồn tại.
Hướng phát triển: Sau khi cách mạng tư sản thắng lợi, giai cấp tư sản đưa
đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Sau khi cách mạng tháng
hai năm 1917 kết thúc, giai cấp vô sản tiếp tục đưa cách mạng đi lên, tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Giải thích:
Cả hai cuộc cách mạng có nhiệm vụ chung là đánh đổ chế độ phong kiến,
mở đường cho đất nước phát triển.
Hai cuộc cách mạng này diễn ra vào những thời đại khác nhau, hoàn cảnh
lịch sử khác nhau. Cách mạng dân chủ tư sản Pháp diễn ra trong bối cảnh chủ
nghĩa tư bản đang lên, giai cấp tư sản còn tiến bộ, có khả năng lãnh đạo quần
12


chúng đánh đổ chế độ phong kiến. Cách mạng tháng 2/1917 ở Nga diễn ra vào
thời đại đế quốc, khi mà giai cấp tư sản không còn tiến bộ; giai cấp vô sản được

trang bị lý luận cách mang tiên tiến, đảm đương sứ mệnh lãnh đạo cuộc đấu tranh
chống phong kiến.
Hai cuộc cách mạng này giai cấp lãnh đạo khác nhau cho nên giải quyết
nhiệm vụ khác nhau. Giai cấp tư sản Pháp đã hoàn thành sứ mệnh của mình khi
lãnh đạo quần chúng lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập nền chuyên chính tư sản.
Giai cấp vô sản ở Nga sau khi lãnh đạo quần chúng cách mạng lật đổ chế độ
phong kiến thì tiếp tục thực hiện sứ mệnh của mình là lật đổ chế độ tư bản chủ
nghĩa...
3.2.4. Kĩ năng phân tích, chứng minh.
Phân tích, chứng minh là một kĩ năng được xem là "khó" nhất trong các kĩ
năng khi tiến hành thực hiện một bài làm lịch sử. Với cấp độ yêu cầu đối với học
sinh THCS, kĩ năng này thường chưa đặt ra yêu cầu cao, song lại phải vận dụng
thường xuyên trong quá trình học và làm bài.
Tuy nhiên để rèn luyện kĩ năng phân tích chứng minh một nội dung, sự kiện
lịch sử đòi hỏi sự "tư duy" cao độ, bởi vậy qua quá trình bồi dưỡng đội tuyển học
sinh giỏi chúng ta nên chú ý rèn luyện cho các em kĩ năng này một cách nhuần
nhuyễn.
Rèn luyện kĩ năng phân tích, chứng minh, tức là rèn luyện cho các em biết
"mổ xẻ". Một bài tập phân tích "sâu" tức là trả lời đầy đủ, chuẩn xác yêu cầu cần
phân tích, mặc dù ở cấp THCS, trong kết cấu đề thi, kĩ năng này được đặt ra nhiều
bởi biết "phân tích" là thể hiện cao khả năng tư duy lịch sử.
Ví dụ: Từ năm 1858 -1884 là quá trình nhà Nguyễn đi từ đầu hàng từng
bước đến đầu hàng toàn bộ trước quân xâm lược nhưng nhân dân ta vẩn đứng
lên kháng chiến. Bằng những kiến thức đã học em hãy chứng minh.
Đối với yêu cầu này các em phải lấy sự kiện để chứng minh - sự kiện đó
nằm trong chuyên đề: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858 1884) đồng thời các em phải biết khái quát tổng hợp để có kiến thức toàn diện khi
đó mới làm đầy đủ.
3.3. Rèn luyện kĩ năng làm bài cho học sinh
3.3.1. Kĩ năng đọc và tìm hiểu đề
13



Việc đọc và tìm hiểu đề bài rất quan trọng. Nếu chủ quan dễ dẫn đến sai lạc
yêu cầu của đề. Trước mỗi đề ra, tôi yêu cầu học sinh phải thực hiện:
Đọc kĩ đề viết ra giấy nháp những cụm từ quan trọng, nội dung cơ bản của
đề thi và những vấn đề cốt lõi về yêu cầu của đề.
Trên cơ sở đó bắt đầu suy nghĩ với đề ra như vậy sử dụng kiến thức nào để
làm bài.
Gạch những ý cơ bản cho câu trả lời vào giấy nháp, tức là phải xây dựng
một sườn đáp án trước khi làm bài.
Ví dụ: khi tiếp xúc với đề, Bàn về cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 Hồ
Chí Minh viết “Càng nhớ lại những ngày tủi nhục, mất nước, nhớ lại những bước
đường đấu tranh cách mạng đầy hi sinh gian khổ mà cũng đầy thắng lợi vẻ vang
thì giai cấp công nhân và nông dân Việt Nam càng thấm thía công ơn to lớn của
Lê-nin và cách mạng tháng Mười”
(Hồ Chí Minh)
Bằng những sự kiện lịch sử cụ thể em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Nếu không đọc kĩ đề, các em sẽ hiểu nhầm yêu cầu của đề hỏi về ý nghĩa
lịch sử của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và liên hệ những ảnh hưởng và
bài học kinh nghiệm của cách mạng tháng Mười Nga đối với Việt Nam. Trong khi
đó yêu cầu của đề trình bày nguyên nhân, diễn biến của Cách mạng tháng Mười
năm 1917 và vai trò của Lê Nin trong cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.
Sau khi đọc kĩ đề các em phải hiểu đề. Đầu tiên các em bỏ thời gian nhất định để
suy nghĩ, phân tích, tìm hiểu những yêu cầu, nội dung cơ bản của đề, tức là nêu
những đòi hỏi của đề bài cần tập trung giải quyết. Hiểu được yêu cầu của đề giúp
các em định hướng cho cách làm bài của mình.
3.3.2. Kĩ năng xây dựng đề cương bài viết
Xây dựng đề cương bài viết nhằm đáp ứng những yêu cầu cơ bản của bài,
giữ được sự cân đối giữa các phần, chủ động thời gian làm bài.
Sau khi lập dàn ý mới bắt đầu trả lời câu hỏi. Phải có phần mở đề trước khi

làm bài các em có thể sử dụng hoàn cảnh lịch sử để mở bài nhưng không nên quá
dài dòng, chỉ cần vài câu, đủ ý để dẫn dắt vào nội dung trả lời.
Phần thân bài: Dựa trên cơ sở những ý cơ bản đã vạch ra, tập trung liên hệ
những kiến thức đã học, đã nắm được, nhớ được và sử dụng các phương pháp liên
kết câu, liên kết đoạn trong văn bản để làm bài không làm theo kiểu gạch đầu
14


dòng trên giấy nháp. Đây là trọng tâm nhất của câu trả lời, điểm cao hay thấp là ở
nội dung phần này.
Phần kết luận: Phải có phần kết luận trong làm bài, tóm tắt ý nghĩa, tác dụng
của phần thân bài để làm kết luận - cũng như phần mở đầu, chỉ cần vài câu, không
nên dài dòng học sinh có thể sử dụng phần kết quả, ý nghĩa, hay bài học kinh
nghiệm cho phần kết luận.
Trong khi các em làm bài nên chọn câu dễ làm trước - nhưng trong thi học
sinh giỏi môn Lịch sử khuyến khích làm các câu hỏi theo tiến trình lịch sử câu
nào sự kiện trước thì làm trước.
Trong quá trình làm bài hạn chế xóa lem nhem không được dùng bút tẩy, nếu
lỡ có sai thì nên gạch một nét chỗ sai. Cố gắng để chữ viết dễ đọc, trình bày bài
khoa học không nên viết chèn, hay gạch xóa quá nhiều trong bài làm.
Ví dụ: Ở đề bài, Có ý kiến cho rằng: Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ năm
1858 đến năm 1884 là quá trình triều đình Huế đi từ đầu hàng từng bước đến đầu
hàng toàn bộ trước quân xâm lược. Với những nội dung cơ bản của 4 hiệp ước
mà triều đình Nhà Nguyễn đã kí với thực dân Pháp, em hãy làm sáng tỏ ý kiến
trên.
Các em cần nêu phần mở đầu ngắn gọn “Rạng sáng ngày 1/9/1858, Pháp tấn
công Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lược nước ta, quân dân ta dưới sự chỉ huy của
Nguyễn Tri Phương thực hiện triệt để sơ tán, làm vườn không nhà trống đẩy lui
nhiều cuộc tấn công của giặc không cho chúng tiến sâu vào đất liền, kế hoạch
“đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp bước đầu bị thất bại. Sau 5 tháng xâm lược

chúng chỉ chiếm được bán đảo Sơn Trà”.
Phần thân bài: Đây là phần chủ yếu và quan trọng nhất của bài, các em phải
trình bày các sự kiện, ý tưởng... nhằm giải quyết các vấn đề được đặt ra. Trong
phần thân bài, các em cần nêu cho được các luận điểm và mỗi luận điểm có các
luận cứ để trình bày. Ví dụ với đề trên, chúng ta có thể lập đề cương phần thân bài
như sau:
+ Nêu hoàn cảnh, nội dung của Hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862).
+ Nêu hoàn cảnh, nội dung của Hiệp ước Giáp Tuất (15/3/1874)
+ Nêu hoàn cảnh, nội dung của Hiệp ước Hác-măng (Hiệp ước Qúy Mùi)
(25/8/1883)
+ Nêu hoàn cảnh, nội dung của Hiệp ước Pa-tơ nốt (6/6/1884)
15


Phần kết luận: Nêu khái quát các ý đã trình bày ở phần mở đầu và phần thân
bài.
Trong việc lập đề cương một bài viết cần tránh hai việc: Một là lập đề cương
quá sơ lược, không định hướng bài viết làm cho nên khi làm viết bài làm một
cách tùy tiện; hai là, lập đề cương quá chi tiết, mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến
việc hoàn thành bài viết.
3.3.3. Kĩ năng phân bố thời gian làm bài
Trong thực tế nhiều năm qua, không ít học sinh làm bài môn khoa học xã hội
nói chung và làm bài thi môn Lịch sử nói riêng thường bị lạm dụng về thời gian.
Việc bố trí thời gian để làm các câu hỏi trong đề bài là rất cần thiết. Muốn vậy khi
tiếp xúc với đề, các em cần phải bố trí thời gian để trả lời từng câu hỏi như thế
nào? Trước hết chúng ta phải xác định câu nào có số điểm cao nhất, yêu cầu
lượng kiến thức nhiều nhất, chúng ta giành thời gian cho câu đó nhiều nhất. Phải
tránh tính trạng câu nào học thuộc thì chăm chú làm câu đó mà không biết cách
phân định về thời gian.
Ví dụ: đề ra có bốn câu:

Câu 1 (2,5 điểm) Nêu mâu thuẫn chủ yếu giữa các đế quốc già (Anh, Pháp)
với các đế quốc trẻ (Đức, Mĩ). Mâu thuẫn đó đã chi phối chính sách đối ngoại của
các nước đế quốc như thế nào?
Câu 2 (3,5 điểm) Bàn về cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 Hồ Chí Minh
viết “ Càng nhớ lại những ngày tủi nhục, mất nước, nhớ lại những bước đường
đấu tranh cách mạng đầy hi sinh gian khổ mà cũng đầy thắng lợi vẻ vang thì giai
cấp công nhân và nông dân Việt Nam càng thấm thía công ơn to lớn của Lê-nin
và cách mạng tháng Mười”
(Hồ Chí Minh)
Bằng những sự kiện lịch sử cụ thể em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Câu 3 (1,5 điểm) Em hãy cho biết nguyên nhân thất bại và ý nghĩa lịch sử của
cuộc khởi nghĩa Yên Thế (1884 - 1913)?
Câu 4 (2,5 điểm) Sau khi hoàn thành công cuộc bình định bằng quân sự, thực
dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa Việt Nam một cách quy mô, bằng
kiến thức đã học em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

16


Với bốn câu của đề thi như vậy, chắc chắn rằng các em phải giành thời gian
nhiều nhất cho câu 2.Trong thời gian 120 phút nên bố trí như sau: Câu 1: 25; Câu
2: 40 phút; Câu 3: 20 phút; Câu 4: 25 phút
Các em phải giành một khoảng thời gian khoảng 10 phút để đọc dò lại toàn
bộ bài làm trước khi nộp bài - đây là khâu khá quan trọng nhưng rất nhiều em học
sinh hay bỏ qua.
3.4. Kĩ năng nhận dạng đề thi
Loại đề nhận thức lịch sử là đề thi theo một chủ đề hay vấn đề lịch sử nhất
định được đặt dưới dạng câu hỏi yêu cầu cần giải đáp. Loại đề này thường có nội
dung khó, yêu cầu học sinh phải suy nghĩ nhiều, hiểu biết kiến thức lịch sử chính
xác, hệ thống. Học sinh phải có năng lực độc lập suy nghĩ để giải quyết vấn đề

nêu ra, học sinh phải có trình độ tư duy cao, có khả năng lập luận, lý giải vấn đề.
Các dạng thường gặp như: Thông qua nội dung của 4 bản hiệp ước 1862, 1874,
1883, 1884 hãy chứng minh thái độ, trách nhiệm và sự đầu hàng từng bước một
của triều đình nhà Nguyễn.
Phân tích, chứng minh là một dạng đề được xem là "khó" nhất trong các
dạng đề thi khi tiến hành thực hiện một bài làm lịch sử. Với cấp độ yêu cầu đối
với học sinh THCS, dạng đề này thường chưa đặt ra yêu cầu cao, song lại phải
vận dụng thường xuyên trong quá trình học và làm bài.
Ví dụ đề thi: Bằng những kiến thức lịch sử đã học, em hãy chứng minh rằng
“Cách mạng tư sản Pháp 1789 là cuộc cách mạng tư sản triệt để nhất thời cận
đại” nhưng “vẫn là cách mạng chưa đến nơi”.
Để làm được đề này học sinh phải nắm vững các vấn đề cơ bản sau đây:
a. Cách mạng tư sản Pháp là cuộc cách mạng tư sản triệt để nhất thời cận
đại:
Triệt để trong việc giải quyết các nhiệm vụ của cách mạng tư sản:
Nhiệm vụ dân tộc: Xóa bỏ sự chia cắt, tạo thống nhất thị trường, thống nhất
dân tộc, đánh bại Liên minh phong kiến châu Âu, bảo vệ nước Pháp cách mạng…
Nhiệm vụ dân chủ: Xóa bỏ hoàn toàn chế độ phong kiến Pháp (lật đổ nền
quân chủ chuyên chế, xử tử vua Lui XVI), thành lập nền cộng hòa, nền chuyên
chính. Bước đầu giải quyết vấn đề ruộng đất, các quyền công dân (Bản tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền, ban hành hiến pháp 1793 - hiến pháp dân chủ
nhất thời cận đại).
17


Triệt để trong thái độ của giai cấp lãnh đạo cách mạng: Lãnh đạo cách mạng
chỉ có giai cấp tư sản và những bộ phận tiên tiến nhất của giai cấp tư sản lần lượt
nắm quyền lãnh đạo: Đại tư sản đến tư sản Gi-rông-đanh đến tư sản Gia-cô-banh,
thái độ cách mạng triệt để…
Triệt để trong tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân: Quần chúng

đấu tranh liên tục, quyết liệt, không chịu dừng bước khi chưa đạt mục tiêu…
b. Cách mạng tư sản Pháp vẫn là cách mạng chưa đến nơi:
Lý luận: Thực chất sau cách mạng là sự thay thế chế độ áp bức này bằng chế
độ áp bức khác nên tính chất của cách mạng tư sản luôn là không triệt để.
Trong quá trình tiến hành, Cách mạng tư sản Pháp có hạn chế là duy trì chế
độ tư hữu, kết quả cuối cùng của cách mạng là sự ra đời của nền độc tài quân
sự…Quần chúng nhân dân là lực lượng chính tham gia cách mạng nhưng lại
không được hưởng quyền lợi gì.
3.5. Chú trọng việc kiểm soát kiến thức của học sinh thông qua từng chuyên
đề và qua các bài kiểm tra.
Đây là hoạt động có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công tác bồi
dưỡng mà bản thân đã áp dụng trong thời gian được phân công trực tiếp giảng
dạy. Trước khi học chuyên đề mới những kiến thức học sinh đã bồi dưỡng ở
chuyên đề trước được giáo viên kiểm tra nhuần nhuyễn tạo cơ sở để các em dễ
dàng tiếp cận các chuyên đề sau. Bởi lịch sử có sự logic của nó chuyên đề trước là
nguyên nhân của chuyên đề sau.
Có hai cách kiểm soát kiến thức cho học sinh đó là: Kiểm tra bằng lời gọi
học sinh lên bảng trình bày, giáo viên và các thành viên trong lớp nghe, nhận xét,
bổ sung kiến thức với biện pháp này học sinh có cơ hội trình bày quan điểm của
mình trước tập thể, rèn luyện cho các em tâm lí bình tĩnh tự tin khi làm bài. Trong
quá trình kiểm soát giáo viên có thể cho học sinh tự kiểm tra lẫn nhau. Kiểm tra
bằng cách gọi học sinh ghi lại phần kiến thức đã học. Biện pháp này có hiệu quả
vừa tác động đến óc, tai mắt do vậy huy động tối đa khả năng của các em. Trong
quá trình học sinh thể hiện giáo viên có thể điều chỉnh cách trình bày bài của các
em. Qua phần kiến thức bạn trình bày các em có thể tự sữa sai và bổ sung những
kiến thức còn thiếu. Đồng thời đây cũng là thời gian để các em tự tái hiện lại kiến
thức khắc sâu nhớ bền vững kiến thức cho bản thân mình.
18



Công tác kiểm tra thường xuyên sau mỗi chương hoặc sau mỗi chuyên đề
được giáo viên chú trọng. Việc làm này giúp học sinh tự trình bày những kiến
thức đã thu nhận được vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các câu hỏi mở,
qua đó giáo viên sẽ có điều kiện giúp các em điều chỉnh cách trình bày bài, cách
dùng từ, diễn đạt ý. Học sinh giỏi môn Lịch sử nói chung và Lịch sử 8 nói riêng
không chỉ nắm vững kiến thức lịch sử, kĩ năng phân tích đánh giá sự kiện Lịch sử,
mà còn có sự sáng tạo. Vì vậy, trong quá trình bồi dưỡng cho học sinh chúng tôi
thường xuyên quan tâm đến việc chấm và sửa bài cho học sinh một cách chu đáo
kĩ càng để các em tự bổ sung kiến thức đây là một trong những giải pháp quan
trọng giúp cho công tác bồi dưỡng đạt kết quả cao.
4. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Bằng những biện pháp thực hiện như trên, bản thân tôi mạnh dạn áp dụng
thực hiện trong nhiều năm qua và đã mang lại kết quả hết sức khả quan.
Đối với giáo viên: Qua quá trình thử nghiệm đề tài, giáo viên được phát huy
mọi khả năng của mình trong quá trình dạy học, kiến thức bộ môn được củng cố
và nâng cao, giáo viên rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu cho bản thân. Kết
quả của trò là niềm vui, niềm động viên lớn lao nhất đối với người giáo viên. Vì
vậy làm cho giáo viên trở nên yêu nghề hơn, tự tin hơn, có tinh thần trách nhiệm
cao và luôn phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Đối với học sinh: Các em được mở mang kiến thức, phát triển tư duy, phát
huy tính độc lập sáng tạo, xóa bỏ được kiểu học nhồi nhét, học tủ, học vẹt, học
đối phó. Qua đó tạo niềm say mê hứng thú học tập bộ môn, học sinh không chỉ
hiểu, biết, mà nhận thức lịch sử một cách sâu sắc. Qua các thế hệ học trò cho thấy
số lượng học sinh giỏi bộ môn đạt tỷ lệ khá cao, có nhiều em đạt giải được chọn
vào đội tuyển bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử 9 của tỉnh. Cụ thể:
Thời gian
Năm học 2017 - 2018
Năm học 2018 - 2019

Số lượng học

sinh tham gia
03
02

19

Giải cá nhân
03
02

Xếp vị thứ
đồng đội
5
2


III. KẾT LUẬN
1. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Dạy học là trực tiếp đào tạo con người, sản phẩm của nghề dạy học chính là
con người:
Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người.
Đặc biệt công tác ôn luyện học sinh giỏi muốn đạt hiệu quả cao, người dạy
phải biết lấy thành quả đạt được của học sinh làm thước đo tay nghề nhà giáo. Bởi
lẽ ai trồng cây cũng mong có ngày hái quả, muốn có được quả ngọt, quả sai chúng
ta phải biết dày công chăm bón; song dày công chăm bón chưa đủ mà cần phải
“chăm bón đúng kỉ thuật” nữa cơ! Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cũng đòi hỏi
người dạy biết lựa chọn đúng đối tượng học sinh, có tâm huyết với nghề và không
ngừng trau dồi chuyên môn nghiệp vụ để luôn luôn tự hoàn thiện mình, biết xác
định kiến thức trọng tâm, biết làm chủ điều mình dạy và biết dạy học sinh cách

học. Biết phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh…
Trên đây là một số bí quyết nhỏ trong việc ôn luyện học sinh giỏi bộ môn
Lịch sử 8 song chỉ mang tính chất sơ lược khái quát, rèn luyện kỹ năng cho học
sinh cũng chỉ ở mức độ một số ví dụ minh họa. Bởi thời gian có hạn tôi không thể
trình bày tỉ mỉ, chi tiết. Vì vậy khi ứng dụng đòi hỏi các đồng chí, đồng nghiệp
phải phát huy hết năng lực chuyên môn và nghệ thuật sư phạm của người thầy…
Cũng xin lưu ý thêm rằng: Ngoài kiến thức cơ bản của sách giáo khoa, các bạn
nên có tài liệu tham khảo và tài liệu nâng cao đồng thời còn biết hướng học sinh
nắm được các sự kiện chính, các thuật ngữ ở những trang cuối của sách giáo
khoa.
Rất mong các bạn thành công và đạt kết quả cao trong công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi bộ môn Lịch sử để đưa chất lượng mủi nhọn của huyện nhà ngày
một nâng cao.
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm này là do chính tôi viết, không sao
chép của người khác, nếu có gì sai sót tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

20


2. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
2.1 Đối với nhà trường:
- Ban giám hiệu nhà trường cần chú ý đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị dạy
học đầy đủ, hiện đại hơn để tạo điều kiện tốt hơn nữa cho giáo viên trong dạy học
Lịch sử.
- Thư viện nhà trường cần phải trang bị nhiều tư liệu, sách phục vụ công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi
2.2 Đối với phụ huynh:
- Quan tâm tạo điều kiện, động viên tích cực con em học tập tốt hơn.
- Trang bị đầy đủ dụng cụ học tập, tài liệu học tập.

- Thường xuyên liên lạc với thầy cô giáo, nhà trường để nắm tình hình học
tập của học sinh.
- Biết khả năng năng lực của HS để tạo điều kiện tốt nhất, tuyệt đối không
xem nhẹ và phân biệt các môn học bồi dưỡng.
2.3 Đối với các nhà quản lý giáo dục:
- Phải xác định môn Lịch sử là môn học hết sức quan trọng không thể thiếu
trong chương trình giáo dục phổ thông và là môn học chính khóa, bắt buộc vì
Lịch sử là môn học về quá khứ, liên quan mật thiết đến sự hình thành và phát triển
của quốc gia, đến vận mệnh của dân tộc. Do vậy, cần được nhận thức trong một
hệ thống kiến thức và không thể xem nhẹ vai trò, vị trí của môn học này
- Đưa môn Lịch sử vào các kỳ thi bắt buộc

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo viên, giáo khoa lịch sử 8, NXB Giáo dục.
2. Ngọc Đạo Phương Thảo, Học tốt Lịch sử 8, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
3. Th.S Trương Ngọc Thơi, Bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử 8, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Bích – Hoàng Thanh Tú (Đồng chủ biên), Phát triển năng lực trong
môn Lịch sử 8, NXB Giáo dục Việt Nam.
5. TS. Nguyễn Văn Ninh - Nguyễn Thị Phương Thanh (Đồng chủ biên), Bí quyết
chinh phục điểm cao Lịch sử 8, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
6. Phan Ngọc Liên - Trần Văn Trị, Phương pháp dạy học Lịch Sử, NXB Giáo dục,
2004
7. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học cơ sở môn lịch sử, Bộ giáo
dục đào tạo - NXB Giáo dục.
8. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Lịch sử trung học cơ sở,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2009


22



×