Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Rèn luyện kĩ năng xây dựng hình tượng nhân vật qua hình thức đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm khi làm văn tự sự trong chương trình ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.38 KB, 21 trang )

1


2

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Người ta vẫn nói văn học là một cái gì đó rất trừu tượng, nó khơng phải một
bàn tay nhưng lại có sức mạnh vơ hình kéo con người ta lại gần nhau hơn. Đó chính
là tâm tư, tình cảm của con người, là ý thức xã hội hình thành trong não chúng ta.
Văn học mang đến cảm xúc khác biệt cho từng người, làm cho tình cảm yêu
thương, kiêu hãnh, bao dung đến với chúng ta. Song học như thế nào trong môn ngữ
văn để đem lại hiệu quả là cả một vấn đề cần quan tâm. Bởi học văn tốt sẽ là hành
trang vững chắc cho con người phát triển tồn diện về nhân cách.
Có thể nói tác phẩm văn học là một món ăn tinh thần. Giáo viên là người chế
biến, phục vụ. Học sinh là thực khách. Khách có ăn ngon hay khơng - tâm hồn
người thưởng thức có lâng lâng, rung động, say sưa, ngây ngất hay không là do ở
người chế biến phục vụ. Cùng là một tác phẩm văn học nếu giáo viên biết cách khai
thác, hướng dẫn, diễn giảng đúng chỗ, đúng lúc thì học sinh sẽ rung động, khắc sâu,
yêu thích và nhớ mãi. Vậy giáo viên phải làm gì để dạy một tiết văn đạt hiệu quả?
Song song với nhiệm vụ trên là quá trình học sinh hình thành và phát triển
khả năng sản sinh văn bản mới (nói và viết). Vì vậy, nhiệm vụ cũng không kém
phần quan trọng của giáo viên dạy Văn ở trường THCS là rèn luyện kỹ năng làm
văn cho học sinh, các em cần phải có được những kỹ năng tốt để làm một bài văn
một cách thành thạo. Làm văn là phân môn hướng tới nhiệm vụ thứ hai này.
Trong chương trình Ngữ văn THCS, đối với kiểu bài tự sự, học sinh đã được
học những kiến thức và kĩ năng cơ bản từ lớp 6 và được nâng cao hơn ở lớp 7, 8
(kết hợp yếu tố miêu tả và biểu cảm). Trong chương trình lớp 9, làm văn tự sự đạt
đến yêu cầu cao nhất, có sự kết hợp gần như tất cả các phương thức biểu đạt. Nếu ở
các lớp dưới, bài làm văn tự sự phải đạt mức độ đúng thì đến lớp 9, văn tự sự đã có
sự kế thừa và nâng cao, giúp các em hoàn thiện kĩ năng làm văn tự sự. Bài văn


không chỉ phải “đúng” mà còn thực sự “hay”. Nhân vật trong tự sự được miêu tả
trên nhiều phương diện: ngoại hình, nội tâm, hành động, ngôn ngữ, trang phục,… Ở
các lớp 6, 7, 8 học sinh đã học nhiều về miêu tả nhân vật ở các mặt: ngoại hình,
hành động, trang phục… thì Ngữ văn 9 nâng tầm hơn ở việc xây dựng nhân vật tự
sự có đời sống nội tâm phong phú mà ngôn ngữ nhân vật là một trong những yếu tố
nghệ thuật góp phần khắc hoạ đặc điểm nhân vật, tạo nên những dấu ấn đậm nét. Dù
ít hay nhiều, ngơn ngữ lời thoại của nhân vật bị chi phối bởi nhiều yếu tố: trình độ
học vấn, năng lực giao tiếp, thành phần xuất thân, bản chất, tính cách, nghề nghiệp,
tuổi tác, giới tính… Chẳng hạn ngơn ngữ của một học giả thì nho nhã, mực thước,
thâm th; ngơn ngữ của một đứa trẻ thì thường hồn nhiên nhí nhảnh, ngây thơ…
Ngay trong bản thân nhân vật, chỉ cần qua ngôn ngữ hội thoại cũng có thể bộc lộ
được sự thay đổi trong tính cách, trong nhận thức, trong diễn biến nội tâm.


3

Nói như thế ta có thể thấy rằng yếu tố đối thoại, độc thoại và độc thoại nội
tâm có vai trò rất quan trọng trong khi tạo lập văn bản tự sự. Đây là những hình
thức quan trọng để thể hiện nhân vật. Tuy nhiên, học sinh đã có kiến thức nhưng vì
nhiều lí do nên nhiều khi các em vẫn chưa sử dụng tốt các hình thức ngơn ngữ này
trong văn tự sự. Qua thực tế giảng dạy, bản thân tơi nhận thấy học sinh cịn mắc
nhiều lỗi như: chưa sử dụng dấu gạch ngang khi xây dựng lời đối thoại, hay có em
cịn chưa phân biệt được độc thoại và độc thoại nội tâm nên các em vẫn chưa thể
viết tốt đoạn văn, bài văn có sử dụng các hình thức ngơn ngữ này,...
Là giáo viên được trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn lớp 9 khá nhiều năm, bản
thân luôn trăn trở trước thực trạng này. Tôi muốn trong mỗi giờ học tập làm văn học
sinh luôn có hứng thú, có tâm thế tốt, chủ động tiếp thu bài, làm bài, tránh bị động,
lúng túng, lo lắng, mệt mỏi, đặc biệt là tâm thế chán nản mỗi khi đến giờ học văn.
Tạo khơng khí hưng phấn, chờ đợi mỗi khi đến giờ văn, đưa các em đến với niềm
đam mê văn chương nhiều hơn và qua giờ tập làm văn các em vận dụng tốt trong

giao tiếp, trong cuộc sống hàng ngày. Đồng thời bồi đắp cho các em năng lực viết
bài tập làm văn theo hướng sáng tạo, hiểu và cảm thụ văn học một cách sâu sắc hơn.
Vì vậy, tơi chọn đề tài: “Rèn luyện kĩ năng xây dựng hình tượng nhân vật qua
hình thức đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm khi làm văn tự sự trong chương
trình Ngữ văn 9”.
1.2 Phạm vi áp dụng của đề tài
Việc rèn luyện kĩ năng viết văn tự sự ở chương trình THCS chiếm một vị trí
rất quan trọng, nội dung đa dạng, phong phú. Song trong điều kiện thời gian có hạn,
với đề tài này tôi chỉ nghiên cứu trong phạm vi kiến thức kĩ năng làm văn tự sự ở
chương trình Ngữ văn lớp 9. Trong khuôn khổ đề tài, tôi chỉ đưa ra một số kinh
nghiệm trong việc rèn luyện cho học sinh kĩ năng xây dựng hình tượng nhân vật khi
viết bài văn tự sự có sử dụng hình thức đối thoại, độc thoại đã áp dụng cho học sinh
lớp 9 của trường nơi tôi đang trực tiếp giảng dạy phân môn Tập làm văn.
Đề tài này có thể được vận dụng trong những tiết học thuộc cấu trúc chương
trình Ngữ văn 9 của Bộ Giáo dục – đào tạo hoặc các buổi ôn tập cho học sinh lớp 9.
Đồng thời nhằm thực hiện và áp dụng trong quá trình giảng dạy, giúp học sinh nhất
là học sinh yếu kém rèn luyện kĩ năng viết bài văn tự sự, xây dựng thành cơng hình
tượng nhân vật có sử dụng hình thức đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm, từ đó
góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn trong trường học
hiện nay.
1.3 Điểm mới của đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
công nghệ, sự bùng nổ của cơng nghệ thơng tin trên phạm vi tồn cầu đang đặt lồi
người hịa trong xu hướng phát triển của nền kinh tế mới, nền kinh tế tri thức và


4

một xã hội mới ở tầm cao hơn dựa vào nguồn thơng tin và tri thức.Vì lẽ đó mà cải
cách giáo dục ln là địi hỏi cấp bách nhằm tạo ra những con người tài năng, trí

tuệ. Vấn đề cốt lõi của cải cách giáo dục là đổi mới chương trình, nội dung và
phương pháp giảng dạy. Trong đó đổi mới phương pháp dạy học là yếu tố quyết
định đến sự thành công của một giờ học, tạo niềm hứng thú, say mê cho học sinh.
Nghiên cứu một số vấn đề về văn tự sự không phải là điều mới mẻ. Song nội
dung của các đề tài đa số thiên về nghiên cứu lý luận chung về văn tự sự hoặc là
làm rõ khái niệm đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm là gì, chúng có vai trị
như thế nào trong văn tự sự và khi tạo lập văn bản cần đưa các yếu tố đối thoại và
độc thoại thì ta cần đảm bảo các yêu cầu gì ?
Trong phạm vi đề tài này có một số vấn đề khác biệt:
Một là: Tập trung vào một số vấn đề chính và đánh giá được một số mặt
trong cách thức tổ chức dạy học và rèn luyện kĩ năng xây dựng thành cơng hình
tượng nhân vật qua các hình thức đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm trong văn
tự sự” thực tế tại nhà trường;
Hai là: Đề tài đề xuất được cách tiếp cận mới về kinh nghiệm trong việc giúp
học sinh rèn luyện ở các mức độ để làm tốt hơn kiểu bài văn tự sự có sử dụng hình
thức “đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm”.
Ba là: Đề tài đi sâu phân tích thực trạng chất lượng bài viết của học sinh hiện
nay, đối chiếu với phương pháp giảng dạy của giáo viên; đưa ra được một số điểm
mới kinh nghiệm, phương pháp giảng dạy... Từ đó giúp các em sau khi học xong có
thể viết đoạn văn, bài văn tự sự, xây dựng hình tượng nhân vật có sử dụng các hình
thức ngơn ngữ này một cách thành thạo, hoặc thậm chí có thể viết truyện tốt (nếu là
học sinh giỏi văn). Đồng thời bồi đắp cho các em năng lực viết bài tập làm văn theo
hướng sáng tạo, hiểu và cảm thụ văn học một cách sâu sắc hơn.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của vấn đề cần nghiên cứu
Văn học xuất phát từ đời sống, chính vì thế văn học rất gần gũi với mọi
người. Những bài thơ hay, những văn bản hấp dẫn đã giúp cho giờ văn không chỉ là
giờ học mà cịn là những giờ giải trí, khám phá biết bao điều kì diệu của cuộc sống
con người. Ngược lại, phân môn tập làm văn lại không mấy hứng thú đối với các
em bởi những lí thuyết khơ khan. Chính vì vậy vấn đề đổi mới phương pháp dạy

học mơn Ngữ văn 9 nói chung, phân mơn Tập làm văn nói riêng đã được quan tâm
rất nhiều. Với sự chỉ đạo của các cấp quản lí chun mơn, về cơ bản, đại đa số giáo
viên đã nắm được phương pháp, vận dụng linh hoạt sáng tạo theo tình hình cụ thế
của địa phương và theo đối tượng học sinh. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều giáo
viên thực hiện chưa đúng chức năng, chưa tích cực nghiên cứu, tìm ra các phương


5

pháp giảng dạy đạt hiệu quả cao, dẫn đến chất lượng học tập của học sinh chưa
được nâng lên, trong đó chất lượng bài viết văn tự sự rất đáng quan tâm. Kết quả
các bài kiểm tra, chất lượng bài làm của học sinh giỏi cũng chưa thật xuất sắc.
Trong quá trình làm bài kiểm tra ở lớp cũng như ở kiểm tra học kì, thi tuyển
vào lớp 10 ở môn ngữ văn nhiều năm qua, học sinh làm bài tự sự còn rất nhiều hạn
chế. Bài làm của học sinh thường sơ sài, chung chung, lan man, vừa thừa, vừa thiếu,
có khi xa đề, lạc đề. Có bài chỉ viết được 7 đến 8 dịng là hết, có nhiều em không
biết mở bài, không biết xây dựng hội thoại giữa các nhân vật, khơng sử dụng được
các hình thức đối thoại… Thực trạng ấy làm cho đội ngũ thầy cô giáo chúng ta phải
trăn trở, phải suy nghĩ, mà ngun nhân chính là học sinh khơng có kĩ nẵng viết bài,
khơng có định hướng khi làm bài tự sự. Do đó chúng ta cần phải có cách dạy như
thế nào, học sinh cần phải có cách học như thế nào để có hiệu quả giáo dục ngày
một đi lên, đó là vấn đề mà thầy cơ giáo cần phải quan tâm và chú trọng.
Đi sâu vào tìm hiểu thực trạng, chúng ta có thể thấy những hạn chế trong bài
làm của học sinh một phần là do bản thân các em, một phần do giáo viên chưa có
những phương pháp giảng dạy phù hợp.
2.1.1. Về phía giáo viên
Giáo viên trong quá trình giảng dạy thường chú trọng nhiều đến việc dạy lý
thuyết mà dành ít thời gian cho việc rèn kĩ năng thực hành cho học sinh. Học sinh
thực hành ít nên nhiều em viết sai chính tả, nghèo vốn từ, dùng từ chưa chính xác...
Đây là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng bài văn.

Bên cạnh đó vẫn cịn một số giáo viên dạy học theo lối thuyết trình, giờ dạy
trầm, giáo viên nói nhiều, học sinh làm ít, giáo viên chưa có sự đầu tư về giờ dạy,
bài soạn. Chính vì vậy chưa phát huy được bản chất sáng tạo của việc giảng dạy
theo tinh thần đổi mới.
Việc chấm chữa của giáo viên nhiều khi cũng chưa kĩ càng. Đa số giáo viên
phê bài rất chung chung, nhận xét khái quát. Nhiều lời phê, nhận xét bên lề bài viết
chưa giúp học sinh thấy được cụ thể lỗi sai của mình mà sửa. Các em không biết
phải làm như thế nào khi bị nhận xét là “chưa phân biệt được độc thoại và độc thoại
nội tâm”, hoặc “hình thức độc thoại nội tâm chưa có”, ... Các em cũng khơng rõ lý
do tại sao, vì lẽ gì mà đoạn văn, câu văn của mình bị phê là “lủng củng”, cũng
khơng hiểu có khi chỗ này “dùng từ” là nghĩa làm sao (sai hay đúng? Nếu sai thì sai
thế nào?), chỗ kia “diễn đạt” là trục trặc hay trôi chảy, chỗ nọ một từ gạch chân là
hay hay dở? Như thế rất khó giúp học sinh hiểu rõ mà tự sửa được, rút kinh nghiệm
được.
2.1.2. Về phía học sinh
Học sinh chưa sử dụng hiệu quả các yếu tố đối thoại, độc thoại, độc thoại nội
tâm trong văn tự sự hoặc thậm chí có em chưa phân biệt được các yếu tố độc thoại,


6

độc thoại nội tâm khi viết bài văn tự sự có sử dụng các hình thức trên. Có em chưa
nắm chắc phần lý thuyết về đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm
Một số em hầu như khơng có kĩ năng diễn đạt, đặt câu, dùng từ, tạo lập văn
bản viết,… Nhiều em vốn từ nghèo, kĩ năng diễn đạt vụng về, lười suy nghĩ, lệ
thuộc nhiều vào sách tham khảo, vào các bài văn mẫu.
Một số em thiếu ý thức học tập, chưa xác định được động cơ học tập rõ ràng,
việc học bài và làm bài còn qua loa, đối phó.
Một số em do hồn cảnh gia đình khó khăn nên điều kiện học tập cịn nhiều
thiếu thốn cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giờ dạy.

Bởi biết rằng “có bột mới gột nên hồ” nên ngay từ khi nhận lớp tôi đã tiến
hành phân loại đối tượng học sinh. Kết quả khảo sát chất lượng và u thích mơn
văn của học sinh vào đầu năm của học sinh như sau:
a. Học sinh u thích mơn học
u thích: 25%
Bình thường: 30%
Khơng thích: 40%
b. Kết quả khảo sát chất lượng vào đầu năm:
Kết quả
TT Lớp Sĩ số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
1
9A
20
01
05
06
30
08

40
05
25
2.1.3. Nguyên nhân của thực trạng trên
Qua tìm hiểu học sinh cũng như các đồng nghiệp trên địa bàn huyện tôi nhận
thấy sở dĩ có thực trạng trên là do một số nguyên nhân sau:
* Đối với học sinh:
Học sinh chưa coi trọng bộ môn Ngữ văn so với các môn khoa học tự nhiên
nên các em chưa đầu tư, chưa có thái độ học tập đúng đắn; chưa có thói quen chuẩn
bị bài trước khi đến lớp, chưa chịu khó đọc các tài liệu tham khảo thêm để mở rộng
kiến thức.
Do các em chưa nắm chắc lý thuyết nên dẫn đến việc các em không thể vận
dụng được khi viết bài. Các em chưa nắm vững đặc trưng cơ bản của thể loại tự sự,
cách viết bài văn tự sự đã học ở lớp dưới, chưa xây dựng được câu chuyện có bố
cục hồn chỉnh, có cốt truyện hợp lý, có ý nghĩa theo yêu cầu đề bài, cách kể chưa
thực sự tự nhiên, chân thực, sinh động. Nhiều em tìm khơng ra sự việc để kể nên
giới thiệu dài dòng, lan man hoặc đi vào miêu tả nhân vật quá nhiều.
Mặt khác các em chưa nắm được yêu cầu cao năng lực, trình độ viết văn tự
sự ở lớp 9. Đó là yêu cầu kết hợp yếu tố miêu tả nội tâm trong việc khắc họa đặc
điểm, tính cách nhân vật, sử dụng yếu tố đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm...
Bên cạnh đó do trường học nằm trên địa bàn thuộc vùng khó khăn, đa số các
em đều là con em dân tộc thiểu số, cuộc sống gia đình phụ thuộc vào nương rẫy


7

nên ngồi giờ học trên lớp các em cịn phải phụ giúp gia đình vì thế phần nào ảnh
hưởng đến chất lượng học tập, chưa kể đến một bộ phận phụ huynh chưa quan tâm
đến việc học của học sinh mà phó mặc cho nhà trường.
* Đối với giáo viên:

Do thời lượng một tiết học được hạn định chỉ 45 phút nên nhiều khi giáo
viên khơng có đủ thời gian để hướng dẫn các em một cách kĩ càng. Giờ Tập làm
văn giáo viên chưa có cách giúp học sinh có được những kiến thức và kỹ năng theo
chuẩn bằng những ví dụ gần gũi gắn với thực tế đời sống hằng ngày, có tác dụng
khắc sâu kiến thức (ngồi sách giáo khoa).
Ngoài ra khi xây dựng dàn ý cho bài làm, giáo viên dễ thiên về cảm nhận
chủ quan khi đưa ra những gợi ý, uốn nắn học sinh, khiến các em trở nên rụt rè,
thiếu tự tin, vì vậy mà khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh không được phát huy.
2.2. Các giải pháp để giúp học sinh rèn luyện kĩ năng xây dựng hình tượng
nhân vật qua hình thức đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm khi làm văn tự
sự trong chương trình Ngữ văn 9.
Ở đây, giải pháp chủ yếu mà tôi đưa ra là giúp học sinh rèn luyện ở các mức độ
để làm tốt hơn kiểu bài văn tự sự có sử dụng hình thức “đối thoại, độc thoại, độc
thoại nội tâm”.
2.2.1. Giải pháp rèn luyện xây dựng hình tượng nhân vật có sử dụng
hình thức đối thoại trong văn bản tự sự
*Nhận biết:
Ở mức độ này, trước hết đòi hỏi học sinh cần nắm được những kiến thức đã
học về hình thức đối thoại.
- Đối thoại: là hình thức đối đáp, trò chuyện giữa hai hoặc nhiều người.
- Dấu hiệu nhận biết: có dấu gạch ngang đầu dịng ở đầu lời trao và lời đáp
(mỗi lượt lời là một lần gạch đầu dịng )
Hình thức đối thoại tạo cho câu chuyện có khơng khí gần gũi, thật như cuộc
sống đang diễn ra trong thực tế; tạo tình huống để khai thác nội tâm nhân vật; thể
hiện tư tưởng, thái độ tình cảm của người nói
- Học sinh cũng cần biết: Điều kiện để có ngơn ngữ đối thoại là:
+ Phải có hồn cảnh giao tiếp (bao gồm khơng gian, thời gian, tình huống xảy
ra câu chuyện)
+ Phải có sự hiện diện của những người tham gia giao tiếp (ít nhất có từ hai
người trở lên)

+ Giữa những người tham gia giao tiếp phải có nhu cầu trao đổi thơng tin
(dưới nhiều hình thức và với nhiều mục đích giao tiếp khác nhau: Hỏi đáp, tranh
luận, tâm sự, trình bày….)


8

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, khi đối thoại khơng nhất thiết lúc nào cũng
phải có lời trao và lời đáp, tức là các bên giao tiếp phải nói thành lời. Sự im lặng
của nhân vật tham gia giao tiếp cũng có thể được coi là một dấu hiệu trả lời trong
đối thoại. Có những trường hợp, trong quá trình tham gia hội thoại, nhân vật sử
dụng các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ để hỗ trợ hoặc thay cho lời nói (một
cái lắc đầu, nhíu mày, xua tay, nhún vai, thở dài...). Trong nghệ thuật miêu tả nhân
vật, các nhà văn cũng rất chú ý tới việc sử dụng các phương tiện giao tiếp phi ngôn
ngữ khi đặt nhân vật vào những tình huống giao tiếp cụ thể.
Ngoài ra, yêu cầu học sinh cần nhận diện được hình thức đối thoại trong một
văn bản cụ thể khi giáo viên cung cấp. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu HS hãy quan sát
phần trích thể hiện cuộc đối thoại giữa vợ chồng ông Hai trong truyện ngắn “Làng”
của Kim Lân sau đây:
Mãi khuya, bà Hai mới chống gối đứng dậy. Bà lẳng lặng xuống bếp, châm
lửa ngồi tính tiền hàng. Vẫn những tiền cua, tiền bún, tiền đỗ, tiền kẹo… Vẫn cái
giọng rì rầm thường ngày.
- Này thầy nó ạ.
Ơng Hai nằm rũ ra ở trên giường khơng nói gì.
- Thầy nó ngủ rồi à?
- Gì?
Ơng lão khẽ nhúc nhích
- Tơi thấy người ta đồn….
Ơng lão gắt lên:
- Biết rồi!

Bà Hai nín bặt. Gian nhà lặng đi, hiu hắt.
(“Làng”- Kim Lân)
Sau khi đọc đoạn trích, học sinh cần nhận biết được phần trích trên thể hiện
cuộc đối thoại giữa vợ chồng ông Hai sau khi nghe tin Làng chợ Dầu theo giặc.
Đồng thời, các em cần xác định được có bao nhiêu lượt lời:
- Lượt lời của bà Hai: 3 lượt
- Lượt lời của ông Hai: 2 lượt
So với lượt lời của bà Hai, lượt lời của ông Hai ít hơn hẳn. Đáp lại lời bà Hai
đôi khi ông Hai khơng nói mà trả lời bằng sự im lặng, trằn trọc, thở dài.
*Thông hiểu:
Mức độ này yêu cầu học sinh hiểu được trong khi tạo lập văn bản tự sự, sử
dụng đối thoại một cách hợp lý sẽ góp phần bộc lộ tính cách nhân vật, đặc điểm
nhân vật, phân biệt nhân vật này với nhân vật khác.
Ví dụ: Cuộc đối thoại giữa thím Hai Dương và nhân vật “tôi” trong truyện
ngắn “Cố hương” của Lỗ Tấn:


9

-“Quên à! Phải, bây giờ cao sang rồi thì để ý đâu đến bọn chúng tôi nữa!
Tôi hốt hoảng đứng dậy nói:
- Đâu có phải thế! Tơi….
- Thế thì tơi nói cho anh nghe nhé! Anh Tấn này! Anh bây giờ sang trọng
rồi, cịn cần qi gì các thứ đồ dễ hư hỏng này nữa. Chuyên chở lại lịch kịch
lắm. Cho chúng tôi khuân đi thôi. Chúng tôi nghèo nàn dùng được tất.
- Có gì đâu mà sang trọng! Chúng tôi cần phải bán những thứ này đi
để….
- Ái chà! Anh bây giờ làm quan rồi mà bảo là không sang trọng? Những ba
nàng hầu. Mỗi lần đi đâu là ngồi kiệu lớn tám người khiêng, cịn bảo là khơng sang
trọng. Hừ, chẳng cái gì giấu nổi chúng tơi đâu!

Tơi biết khơng thể nói làm sao được đành ngậm miệng, đứng trầm ngâm.
- Ơi dào! Thật là càng giàu có càng không dám dời một đồng xu, càng không
dám dời một đồng xu lại càng giàu có.
Mụ “Compa” tức giận miệng lẩm bẩm, quay gót thong thả đi ra, tiện tay giật
ln đơi bít tất tay của mẹ tơi giắt vào lưng quần cút thẳng.”
Qua cuộc đối thoại trên, học sinh cần nhận thấy đặc điểm tính cách của nhân
vật chị Hai Dương được bộc lộ một cách rõ nét. Đó là một người đàn bà ngoa ngoắt,
xấu xí, bần tiện, nói năng sỗ sàng, thơ thiển, sẵn sàng bịa đặt, đơm chuyện để vơ vét
của người khác làm của mình.
Như vậy, bằng việc tìm hiểu một số ví dụ trên học sinh thấy được vai trò của
yếu tố đối thoại trong văn bản tự sự là vô cùng lớn. Biết kết hợp các yếu tố đó một
cách hợp lý sẽ đem lại hiệu quả giao tiếp rất cao, làm nổi bật đặc điểm, tính cách
nhân vật.
*Vận dụng thấp:
Qua việc tìm hiểu các ngữ liệu, học sinh đã hiểu rõ hơn về lí thuyết thì giáo
viên cho các em vận dụng linh hoạt những kiến thức này vào hoạt động luyện tập.
Chẳng hạn giáo viên yêu cầu học sinh viết một đoạn văn ngắn kể chuyện theo đề tài
tự chọn, trong đó sử dụng hình thức đối thoại (có thể sử dụng bài tập này ở phần
củng cố bài học hoặc giao về nhà)
Lưu ý: lời đối thoại phải được chọn lọc tránh sa vào “vụn vặt”, thể hiện ý
nghĩ, thái độ tình cảm, tính cách của nhân vật, có tác dụng tái hiện câu chuyện một
cách sinh động; mỗi lượt thoại được đánh dấu bằng dấu gạch ngang đầu dịng.
Có thể cho học sinh tham khảo những đoạn văn sử dụng tốt các yếu tố này
(bài làm hay của học sinh).
Ví dụ:
Tơi vừa phải nằm viện một tuần vì bị ốm. Hôm nay là ngày tôi được ra viện.
Trên đường về nhà, xen với nỗi vui mừng là nỗi lo. Lo vì khơng biết phải xoay xở


10


sao đây để bù đắp bài vở trong những ngày qua. Tơi vừa bước vào nhà thì bé Lan,
em tơi, nhảy cẫng ra và bi bơ:
- Anh Hưng ơi! Có chị nào nho nhỏ, chị nói với bố là bạn của anh. Ngày nào
chị ấy cũng đến lấy vở về chép bài cho anh. Chị ấy còn cho em kẹo nữa cơ đấy!
- Ừ.
Rồi khơng kịp nhìn những viên kẹo trên tay em, tơi lao ngay vào phịng học.
Tay tơi run run giở vội những tờ giấy trắng. Không lẽ lại là cái Hoa? Có phải là
Hoa khơng nhỉ? Thơi đúng Hoa rồi. Tơi lặng đi. Chính Hoa đã âm thầm giúp tôi
trong những ngày tôi nằm viện.”
*Vận dụng cao:
Mức độ này sẽ nhấn mạnh yếu tố linh hoạt, sáng tạo của học sinh, vì thế giáo
viên sẽ giúp các em vận dụng những kiến thức kĩ năng đã học về đối thoại vào việc
viết một bài văn ( hay câu chuyện ) hoàn chỉnh. ( ở đây các em sẽ vận dụng để viết
các bài tập làm văn số 2,3 )
2.2.2. Giải pháp rèn luyện xây dựng hình tượng nhân vật hình thức độc
thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự
*Nhận biết:
Cũng như với hình thức đối thoại, trước hết, yêu cầu học sinh nắm chắc
những kiến thức đã học về hình thức độc thoại và độc thoại nội tâm.
- Độc thoại : Là lời của một người nào đó tự nói với chính mình hoặc nói với
một ai đó trong tưởng tượng. Trong văn bản tự sự, khi người độc thoại nói thành lời
thì phía trước câu nói có gạch đầu dịng
- Độc thoại nội tâm: Cũng là lời của một người nào đó tự nói với chính
mình hoặc nói với một ai đó trong tưởng tượng nhưng khơng nói thành lời. Tức là
phát ngơn của nhân vật nói với chính bản thân, trực tiếp phản ánh quá trình tâm lý
bên trong (suy nghĩ) và khơng có gạch đầu dịng.
Đặc biệt là học sinh yếu- kém thường khó phân biệt giữa độc thoại và độc
thoại nội tâm. Vì thế ở mức độ này, giáo viên cần giúp các em bằng gợi ý: Độc thoại
nội tâm được phát hiện thơng qua các hình thức khác nhau như:

- Dạng kể, lập luận: tự hỏi rằng, nghĩ rằng, cho rằng như thế là, có sao
khơng nhỉ, ...
- Dạng cảm thán: chao ơi! mình mà, khốn thay, mình lại,...
- Dưới dạng hồi ức: nhớ lại hồi xưa, hồi đó,...
Mức độ này cũng đòi hỏi học sinh cần nhận diện được hình thức độc thoại,
độc thoại nội tâm trong một văn bản cụ thể khi giáo viên cung cấp. Ví dụ: Giáo viên
yêu cầu HS hãy quan sát đoạn trích sau:


11

Sáng nay trời rét, Nam dậy sớm hơn mọi ngày. Cu cậu lò mò mãi mới ra
được khỏi giường, vệ sinh cá nhân xong, cậu vào ăn sáng. Sau đó, cậu khoác cặp
sách đi học, vừa mở cửa ra, Nam kêu lên:
- Trời rét quá !
Trên đường đến trường, cậu vừa đi vừa nghĩ: “Giá như được nghỉ học thì
hay biết mấy !”
Sau khi đọc đoạn trích, học sinh cần nhận ra được câu: Trời rét quá ! (độc
thoại ), cịn câu “Giá như được nghỉ học thì hay biết mấy !” (độc thoại nội tâm )
*Thơng hiểu:
Từ việc tìm hiểu trên giáo viên có thể giúp học sinh có so sánh sự giống nhau
và khác nhau giữa độc thoại và độc thoại nội tâm như sau:
* Giống nhau: Cả độc thoại và độc thoại nội tâm đều là lời của nhân vật nói
với chính mình hoặc với một ai đó trong tưởng tượng.
*Khác nhau:
Độc thoại
Độc thoại nội tâm
- Là lời nói của nhân vật được phát ra - Là tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật,
thành lời
không phát thành lời

- Có gạch đầu dịng
- Khơng có gạch đầu dịng
Học sinh cần thấy được độc thoại không thành lời (độc thoại nội tâm) là bước
phát triển cao hơn so với độc thoại thành lời. Sử dụng yếu tố độc thoại, đặc biệt là
độc thoại nội tâm sẽ góp phần làm rõ tính cách, tâm trạng, diễn biến tâm lý của
nhân vật. Và lịch sử văn học đã chứng minh, ai có khả năng kết hợp tốt yếu tố này
khi viết văn tự sự thì tác phẩm của họ sẽ có chiều sâu và dễ đi vào lòng độc giả hơn
và ngược lại.
VD: Quan sát phần trích sau trong văn bản “Lão Hạc” của Nam Cao:
“Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng
buồn theo một nghĩa khác. Tôi ở nhà Binh Tư về được một lúc lâu thì thấy những
tiếng nhốn nháo ở bên nhà lão Hạc. Tôi mải mốt chạy sang. Mấy người hàng xóm đến
trước tơu đang xơn xao ở trong nhà. Tôi xồng xộc chạy vào. Lão Hạc đang vật vã ở
trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo,
bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn
ông lực lưỡng phải ngồi lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết.
Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai biết lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình
như vậy. Chỉ có tơi với Binh Tư hiểu”.
Nhưng nói ra làm gì nữa! Lão Hạc ơi! Lão hãy n lịng mà nhắm mắt! Lão
đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tơi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về,


12

tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: “Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã
cố để lại cho anh trọn vẹn, cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào”...
(“Lão Hạc” – Nam Cao)
Học sinh cần hiểu được phần trích là lời độc thoại nội tâm của nhân vật ông
giáo sau khi chứng kiến cái chết đau đớn và thương tâm của lão Hạc. Đó là tâm
trạng buồn, đau đớn, xen lẫn thất vọng ở ông giáo khi thấy một con người lương

thiện như lão Hạc lại phải tìm đến cái chết để bảo toàn nhân phẩm và danh dự.
*Vận dụng thấp:
Khi đã phân biệt được độc thoại và độc thoại nội tâm thì học sinh sẽ thực
hành kĩ năng viết đoạn văn, giáo viên có thể cho học sinh rèn luyện kĩ năng này
bằng việc yêu cầu học sinh thực hiện bài tập: Viết một đoạn văn kể chuyện theo đề
tài tự chọn, trong đó sử dụng cả hình thức đối thoại, độc thoại và độc thoại nội
tâm. (bài tập 2- SGK – trang 179)
Lời độc thoại, độc thoại nội tâm để biểu hiện tâm trạng nhân vật như: day
dứt, hối hận, xúc động, biết ơn, lo lắng, vui mừng,…
*Ví dụ:
Sáng hơm ấy là thứ hai, mọi thứ đều thay đổi rất nhiều, tâm trạng của tôi
cũng như vậy, tôi vui tươi lắm. Bởi tơi vui tươi nên những thứ gì mà đập vào mắt tôi
cũng sinh động, nhộn nhịp lắm, mọi thứ sao nay đẹp đến lạ thường.
Bước vơ lớp thì mọi thứ dường như khác với tôi nghĩ, bao nhiêu ánh mắt
nhìn tơi với cảm giác ghê rợn. Tơi vào chỗ ngồi, Phương vội ghé sát vào tai tơi khé
nói:
- Trời ơi, ơng mà lại đi làm chuyện đó ư ???
- Ủa? Chuyện gì vậy bà? - Tơi ngạc nhiên, hốt hoảng.
Phương tiếp lời:
- Hơm qua ơng có giữ dùm cặp của bà Trân, hôm nay bạn ấy mất cái túi tiền
quỹ của lớp bỏ trong cái cặp đó (Trân là thủ quỹ của lớp) nên bây giờ ai cũng nghi
ngờ ồn cả, nhưng tôi chơi với ông lâu nay tôi nghĩ ông không làm như vậy.
Tôi sẵn lúc ấy định đến bên Trân cố giải thích nhưng bạn ấy cứ một mực
lảng tránh tôi. Cả lớp ai ai thấy tơi cũng mặc cảm im lặng. Tơi gục xuống bàn,
mình khơng có làm như vậy mà, mình khơng có làm như vậy mà, sao các bạn khơng
tin mình. Tơi chạy xuống phòng vệ sinh rửa mặt và thốt lên:
- Trời ơi ! Sao các bạn khơng tin mình ?
Chạy liền lên lớp các bạn nói rằng túi tiền ấy Trân đã kiếm ra rồi, tôi đã
được minh oan, các bạn đã xin lỗi tôi. Tôi vui lắm, cuối cùng mọi chuyện cũng
được sáng tỏ. Bây giờ, ai ai nhìn tơi cũng cưịi tít mắt, vui vẻ. Tơi vui trong lịng mà

khơng nói ra, vui vì mình khơng cịn đấu tranh nội tâm như trước nữa, mọi nỗi lo
sợ, lo các bạn sẽ xa lánh đã bay đi. Tôi tự nhủ rằng:


13

- Tôi cảm ơn các bạn đã hiểu cho tôi
*Vận dụng cao:
Ở mức độ này, các hình thức ngơn ngữ trên sẽ được học sinh vận dụng khi
viết bài tập làm văn số 3 (tiết 69-70). Còn đối với học sinh khá, giỏi các em cịn thể
viết được truyện.
Ví dụ:
Đề ra : Hãy đóng vai nhân vật bé Thu kể lại câu chuyện chiếc lược ngà.
Với đề ra như trên, yêu cầu học sinh cần viết được một bài văn hồn chỉnh,
đáp ứng u cầu của đề ra, trong đó (ngồi việc sử dụng yếu tố nghị luận) thì cần sử
dụng được cả ba hình thức ngơn ngữ đã học: đối thoại, độc thoại và độc thoại nội
tâm. Dưới đây là một trích đoạn tham khảo:
Tơi trở về đơn vị lúc trời đã xế chiều. Đoàn cán bộ đã qua khu tạm chiếm an
tồn. Nhiệm vụ của chúng tơi đã hồn thành tốt đẹp. Các đồng chí khác cũng về
nghỉ ngơi trong lán trại. Mệt mỏi, tôi nằm xuống đám lá dừa khơ, ngước mắt nhìn
lên trời cao. Ánh sáng lấp lóa chói gắt qua đám lá dừa cháy xém bởi chất hóa học
của Mỹ khiến tơi nheo mắt lại. Trời miền Nam thật đẹp. Thế mà bọn Mỹ đã nhẫn
tâm hủy hoại bầu trời này. Tơi đưa tay móc từ trong túi chiếc lược ngà. Xõa mái
tóc, tơi khẽ chải. Nó thật êm dịu. Giống hệt như ba tơi đang về chải tóc cho tơi.
Tiếng gió thổi qua đám lá dừa non lao xao, hồi ức xưa bỗng hiện về rõ ràng trước
mắt. Ấp cây lược vào lịng, tơi nghĩ về ba, vừa vui sướng vừa hối hận vô cùng...
Ba tôi là một cán bộ kháng chiến. Ba được phân công ở lại miền Nam gây
dựng lực lượng, bám sát cơ sở và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân
dân miền Nam. Để hoạt động an toàn và bảo vệ lực lượng cách mạng, trong một
đêm, ba tơi cùng đồn cán bộ vượt lên cứ. Lúc ba rời gia đình lên chiến khu, tơi

chưa trịn một tuổi. Sau này lớn lên, tôi chỉ nghe má kể lại và biết mặt ba qua tấm
hình nhỏ mà má đã đưa. Tơi nhìn ngắm ba trong tấm hình từng ngày và mong ước
một ngày được cùng má lên cứ thăm ba. Nhiều lần má lên cứ thăm ba, tơi địi theo
nhưng má không cho. Má bảo đường đi rất xa, bọn mật thám lại rình rập theo dõi,
rất nguy hiểm nên má không cho tôi theo. Tôi chỉ biết đợi chờ từng ngày. Mỗi lần ở
cứ về, má thường kể cho tơi nghe về ba. Lần nào má cũng nói ba vẫn khỏe, ba nhớ
tơi nhiều lắm. Ba cịn dặn má về chăm cho tôi thật tốt và dạy cho tơi học viết
chữ. Má tơi đâu có biết chữ. Mỗi lần nói thế, má tơi mỉm cười. Má cũng muốn cho
tôi học chữ lắm nhưng trong ấp cũng chẳng ai biết chữ cả. Thời gian đằng đẵng
trôi đi. Nỗi mong đợi ba của tôi kéo dài theo con nước. Nước lớn nước rịng đã bao
lần mà ba tơi vẫn chưa về… Bảy năm sau, ba tơi mới có dịp trở về. Một buổi sáng,
khi tôi đang ngồi chơi trước sân, ba tơi bất ngờ trở về. Đó là ngày tơi không thể
nào quên được. Quá mong mỏi và háo hức gặp lại gia đình, gặp lại con gái, chiếc


14

xuồng chưa kịp cập bờ, ba đã nhảy lên khiến chiếc thuyền chịng chành. Tơi nghe
tiếng nước Lao xao, tiếng mái chèo cắm cắm phập vào bờ và tiếng ba nghẹn ngào:
– Thu! Con!
Nghe gọi, tơi giật mình, trịn mắt nhìn xa lạ. Ba nhìn tơi, đơi mắt rưng rưng
xúc động. Với vẻ xúc động ấy và hai tay vẫn đưa về phía trước, ba chầm chậm bước
tới, giọng lặp bặp run run:
– Ba đây con! Ba đây con!
Tôi ngơ ngác, lạ lùng. Tơi nghĩ thầm: “Chẳng lẽ đó là ba? Rõ ràng là ánh
mắt đó rồi! Nhưng người trước mắt tơi lại khơng giống với ba trong tấm hình mà
má đã đưa tơi”. Đó là lần đầu tiên tơi nhìn thấy ba khiến tơi khơng chắc chắn lắm.
Một chút khác biệt cũng khiến tơi hồi nghi. Tơi chớp mắt nhìn ba rồi vụt chạy và
kêu thét gọi má cầu cứu. Trở về sau bao năm mong đợi, ba nghĩ tơi sẽ sung sướng,
sẽ gào khóc và chạy vào ơm c

hặt lấy ba. Nhưng thực tế quá phũ phàng, tôi đã không làm thế. Ba tôi hụt
hẫng đứng sững lại đó, hai cánh tay buỗng thõng xuống, nhìn theo tơi đang bỏ
chạy. Vì đường xa, ba chỉ ở nhà được có ba ngày. Trong ba ngày ngắn ngủi đó, tơi
đã khiến cho ba hồn tồn thất vọng. Đêm tơi nhất quyết không cho ba ngủ với má.
Ba cũng cố nằm vào giường. Tôi tuột xuống giường, đứng dưới đất chồm lên, nắm
tay kéo ra ba xuống. Kéo không được, tôi kê miệng cắn ba một cái đau điếng. Má
giận quá la tơi, tơi cũng mặc kệ. Trong hồn cảnh chiến tranh thế này phải trái thật
khó phân biệt. Má khơng nói dối tơi. Nhưng tơi chưa hẳn đã tin má. Ba cũng chịu
nhường tôi, ra ngủ ở chõng tre. Cho đến ngày đi, tay ba vẫn còn hằn sâu những
dấu răng của tôi.
Suốt ngày, ba chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về tôi. Nhưng càng vỗ về, tôi
càng đẩy ba ra. Nhất quyết, tôi không chịu gọi “ba”. Má có nói đó là ba và bảo gọi
“ba”, tơi cũng khơng gọi. Tơi giận ln cả má. Có lần má dọa đánh, tơi cũng
khơng sợ. Tơi cứ nói trỏng và cố tránh từ “ba” ra. Ba mong mỏi được tôi gọi “ba”
một tiếng nên cứ như vờ không nghe, ngồi im chờ đợi. Tôi vẫn không gọi. Ba quay
lại nhìn tơi vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi khơng khóc
được, nên ba phải cười vậy thơi.
Bữa sau, đang nấu cơm thì má lại chạy đi mua thức ăn. Má dặn, ở nhà có gì
cần thì gọi ba giúp cho. Có lẽ má muốn đưa tơi vào tình thế khó phải gọi ba giúp.
Tơi khơng nói khơng rằng, cứ lui cui dưới bếp. Nghe nồi cơm sôi, tôi giở nắp,
lấy đũa bếp sơ qua. Nồi cơm hơi to, nhắm không thể nhắc xuống để chắt nước
được, đến lúc đó tơi mới nhìn lên ba cầu cứu. Ba vẫn ngồi lặng im. Sợ nồi cơm
nhão, má về sẽ đánh, tơi nhìn dáo dác một lúc rồi kêu lên nhờ giúp. Vẫn là cái kiểu
nói trỏng không.


15

Ba vẫn ngồi im như không nghe. Nghe bác Ba nói cơm mà nhão, má về thế
nào cũng bị địn, tôi càng bối rối hơn. Bác gợi ý bảo tôi gọi ba, ba sẽ giúp. Tơi cịn

bé nên khơng thể bê nổi nồi cơm để chắt bớt nước. Tiếng cơm sơi như thúc giục vào
lịng tơi. Tơi nhăn nhó muốn khóc, hết nhìn nồi cơm, rồi lại nhìn lên ba và bác
Ba. Suy nghĩ một lát, tôi lấy cái ghế đứng cao lên, dùng vá chắc bớt nước cứu được
nồi cơm. Vừa múc tơi vừa lầm bầm trách móc.
Đến bữa cơm, ba gắp cho tôi một miếng trứng cá và bảo tơi ăn. Ba nhìn tơi
vớ ánh mắt trìu mến. Tơi khơng quan tâm vì lúc đó tơi ghét ba vơ cùng. Chỉ vì ba
mà má giận tơi. Ba lại gây khó tơi đủ thứ. Tơi lầm lì lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi
bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung tóe cả mâm. Giận quá và không kịp suy
nghĩ, ba vung tay đánh vào mông tôi, mắt trừng trừng và hét lên:
– Sao mày cứng đầu q vậy, hả?
Tơi vẫn ngồi im lầm lì, đầu cúi gằm xuống. Rõ ràng là ba đang cố thân thiện
với tơi. Nhưng chỉ bởi tơi q hồi nghi, một mực không chấp nhận, quyết cự tuyệt
ba đến cùng. Không ai biết lí do tại sao. Chỉ có mình tơi hiểu điều đó. Sự phản ứng
của tơi là một sự bướng bỉnh đáng ghét. Không hiểu sao lúc ấy tôi lại khơng nói ra
điều mình đang nghĩ. Nếu nói ra chắc ba đã hiểu, má cũng hiểu và giải thích cho
tơi hiểu.
Tôi cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra
khỏi mâm. Tôi không muốn ăn nữa. Không ai thương tôi hết! Tôi sẽ sang với ngoại.
Tôi nhảy xuống bến, nhẩy xuống xuồng, mở lịi tói và cố làm cho dây lịi tói
khua rổn rảng, khua thật to để mọi người biết, rồi lấy dầm bơi qua sông. Tôi sang
méc với ngoại mọi chuyện. Chiều đó, má sang dỗ dành tơi cũng khơng chịu về. Má
kể lể với ngoại về hành động của tơi. Ngoại rất buồn.
Đêm ấy, nằm trong lịng ngoại, ngoại dị hỏi vì sao tơi lại đối xử với ba như
vậy. Lúc này, mọi tâm tư trong lịng tơi như vỡ ịa ra. Tơi nói nhỏ với ngoại, người
đàn ơng đó rất giống ba nhưng lại khác ba vì có vết sẹo ở trên mặt, cịn ba thì
khơng có.
Đến lúc này, ngoại mới vỡ lẽ ra và hiểu tận tấm lịng của tơi. Ngoại ơm chặt
tơi thủ thỉ rằng ba đi chiến đấu lắm. Chiến trường khốc liệt, kẻ thù tàn bạo, vết sẹo
đó do bom đạn của kẻ thù gây ra. Ba đã anh dũng chiến đấu, vào sinh ra tử. Ba là
một người can trường, chiến đấu vì sự bình n của xóm làng, vì hịa bình của đất

nước. Lâu lắm ba mới về. Ngoại khẳng định đó là ba tôi.
Bây giờ tôi mới hiểu ra tất cả. Tơi thấy hối hận q. Giá mà tơi nói ra điều
đó sớm hơn. Giá mà có ai đó hiểu được suy nghĩ của tơi và nói cho tơi biết sự thật
ấy. Tôi nằm thở dài và suy nghĩ. Tôi sẽ xin lỗi ba. Nhất định rồi! Tôi sẽ xin ba tha
thứ và sẽ gọi “ba”, sẽ ơm ba vào lịng, kể cho ba nghe chuyện ở nhà. Nhưng sáng
mai ba phải đi rồi. Nỗi lo lắng khiến tôi thao thức không sao ngủ được.


16

Sáng hôm sau tôi theo ngoại về nhà thật sớm. Bà con bên nội, bên ngoại đến
rất đông. Ba tôi phải lo tiếp khách, không chú ý đến tôi nữa. Cịn má thì lo chuẩn bị
đồ đạc cho ba. Má xếp từng chiếc áo, gói ghém đồ đạc vụn vặt vào cái túi nhỏ, cứ
mãi lúi húi bên chiếc ba lơ.
Tơi như bị bỏ rơi, lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi
người đang vây quanh ba. Tơi muốn nói với ba nhưng ngại q, cứ ngập ngừng.
Mọi người lúc ấy rất đông. Tôi không đủ cản đảm để bước tới. Tôi nghĩ về những
hành động của tôi mấy ngày trước. Ba sẽ không giận tơi chứ? Chắc ba khơng giận
tơi đâu! Tơi nhón gót định chạy tới chỗ ba thì ba lại quay đi chào khách. Tơi đành
đứng đó chờ đợi.
Nhưng ba đã chuẩn bị xong. Nhìn ba khốt ba lơ lên vai và bắt tay hết mọi
người tôi biết ba sắp đi. Tôi sợ hãi vô cùng. Tôi muốn thét lên “Ba ơi con đang ở
đây! Con xin lỗi ba!”. Nhưng có cái gì đó chơn chặt chân tơi dưới đất khơng thể
nhúc nhích được. Cho đến khi ba quay lại nhìn tơi. Đơi mắt trìu mến lẫn buồn rầu
của ba đang nhìn tơi. Lịng tơi bỗng rộn rã vui mừng.
– Thơi! Ba đi nghe con! – Ba tơi khe khẽ nói.
Chỉ cần có thế thơi. Nó như xóa đi khoảng cách giữa tơi và ba. Nó xé tan
bức màn đen tối che phủ. Nó kết nối tơi và ba lại. Tơi chờ khoảnh khắc ấy cả buổi
sáng nay. Quá sung sướng, tôi kêu thét gọi “ba…a..a..” tha thiết. Tiếng kêu như
tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan của mọi người có mặt hơm đó. Khơng ai

có thể ngờ rằng tơi lại nhận ba lúc này. Đó là tiếng “ba” mà tôi cố đè nén trong
bao nhiêu năm nay. Tiếng “ba” như vỡ tung ra từ lịng tơi. Vừa kêu tôi vừa chạy xô
tới bên ba. Nhanh như một con sóc, tơi chạy thót lên và dang hai tay ơm chặt lấy cổ
ba tơi, thút thít khóc.
Tơi khơng muốn cho ba đi. Nhất định không cho ba đi. Ba bế tôi lên dỗ dành.
Tôi càng ôm chặt lấy ba hơn. Tơi hơn ba cùng khắp. Tơi hơn tóc, hơn cổ, hôn vai và
hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nữa. Chỉ tại nó mà tơi khơng chịu nhận ba. Chỉ
tại nó mà ba tơi phải khổ tâm mấy ngày qua. Tôi hôn lên vết sẹo thật nhiều để nhắc
nhở mình phải ghi nhớ, phải thương ba nhiều hơn nữa.
Lúc ấy, ba xúc động q, khơng nói được lời nào. Ba đã khóc. Ba rút khăn
lau nước mắt, hơn lên mái tóc tơi rồi vỗ về. Ba hứa rằng ba đi rồi ba sẽ về với tôi.
Tôi thét lớn khơng chịu, hai tay nó siết chặt lấy cổ ba. Tôi lại bướng bỉnh.
Tôi không muốn ba đi. Sợ ba sẽ đi mất. Sợ hai tay không thể giữ được ba, tôi dang
cả hai chân rồi câu chặt lấy ba. Vừa cố gắng ôm ba thật chặt, vừa không ngừng gọi
“ba ơi” và khóc thảm thiết. Nước mắt tơi ướt đầm cả hai vai áo ba. Nhìn cảnh ấy,
bà con xung quanh không ai cầm được nước mắt.
Thời gian nghỉ phép ngắn ngủi. Cuộc chuyển giao lực lượng giữa hai miền
đang diễn ra. Ba chưa biết sẽ ở lại hay phải tập kết ra Bắc nên phải trở về đơn vị


17

để kịp nhận lệnh. Thế là đã đến lúc phải đi rồi, mọi người phải xúm lại vỗ về. Lúc
tụt xuống tơi cịn cố hơn ba thêm cái nữa và dặn ba nhớ mua cho tôi cái lược. Ba
ôm hôn tôi thật lâu và hứa sẽ trở về với một cây lược thật đẹp.
Sau đó ba trở lại miền Đơng. Ba là cán bộ đồn thể nên khơng đi tập kết mà
ở lại tiếp tục bám sát cơ sở. Sau hiệp định, quân Mỹ lật lọng phản ước. Chúng tăng
cường lực lượng ở miền Nam với âm mưu kéo dài cuộc chiến tranh. Từ đó, tơi cũng
khơng nhận được tin gì của ba.
Mấy năm sau, một buổi chiều, có người nói với má rằng ba tơi đã hy sinh.

Cái tin dữ đó khiến tơi rụng rời chân tay và khóc thật nhiều. Má cũng khóc thật
nhiều. Má cố giấu tơi chuyện đó nhưng tơi đã nghe được rồi. Người ta nói trong
một trận càn ác liệt của địch, ba tơi bị một viên đạn bắn xuyên qua ngực. Ba đã
chiến đấu anh dũng cho đến hơi thở cuối cùng. Đồng đội đã bí mật chơn cất ba ở
trong rừng.
Tơi cố nén đau thương và lớn lên. Chính giặc Mỹ đã gây ra cuộc chiến này.
Chúng đã chia cắt cha con tôi. Giặc Mỹ đã giết chết ba tôi. Giặc Mỹ đã cướp đi
của tôi người ba mà tôi không ngừng u kính và mong đợi. Nhất định lớn lên tơi sẽ
đi chiến đấu, tôi sẽ bắt chúng phải đền tội.
Qua những lần tố cộng, những trận càn, những trận đốt làng dồn dân của
bọn Mỹ, gia đình tơi phải di tản khắp mọi nơi. Có lúc má đưa tơi lên Sài Gòn lánh
nạn. Lúc lại chuyển về Đồng Tháp mưu sinh. Cuộc sống bơ vơ, vất vưởng nay đây
mai đó càng làm tôi thấy nhớ ba hơn.
Không chịu được, tôi xin má đi giao liên. Má lúc đầu không cho nhưng thấy
tôi xin dữ quá má cũng đồng ý.
Tôi vào giao liên, chiến đấu ở vùng tạm chiếm. Nhiệm vụ của đơn vị là quan
sát tình hình của địch và đưa cán bộ vào ra vùng tạm chiếm công tác. Cuộc chiến
đấu đầy vất vả, hiểm nguy. Sợ nhất là sống và chiến đấu trong lòng địch. Nếu bị
phát hiện thật khó thốt khỏi sự khủng bố của chúng. Nhưng dẫu nguy hiểm thế nào
tôi cũng không sợ. Tôi chiến đấu vì ba, vì bà con, vì tình yêu đất nước và lịng căm
thù qn giặc tàn bạo. Ba tơi vì đất nước mà hy sinh. Tơi cũng sẽ vì đất nước mà
chiến đấu tới cùng.
Ấp chiếc lược vào lòng tôi thầm hứa sẽ sống xứng đáng với ba, với má, với
Tổ quốc thiêng liêng. Quân giặc ngoan cố và cuộc chiến có thể kéo dài. Bom đạn
có thể ngăn cách tôi với ba nhưng không thể nào giết chết được tình u ba và lịng
u nước trong tơi.
*Kết quả khảo sát học tập của học sinh sau khi triển khai áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm:



18

Sau khi vận dụng một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh phương pháp làm
bài, tôi nhận thấy chất lượng bài viết của học sinh lớp do chính tơi trực tiếp giảng
dạy được nâng lên rõ rệt. Biểu hiện cụ thể ở các mặt sau:
+ Đa số bài làm của các em đều đáp ứng được yêu cầu của đề về nội dung (có
cốt truyện hợp lí, có ý nghĩa), đúng thể loại (không sa vào miêu tả hoặc biểu cảm),
có bố cục hồn chỉnh, rõ ràng.
+ Ngày càng nhiều học sinh có sự tìm tịi sáng tạo, thể hiện sự cảm nhận và óc
quan sát tinh tế khi viết bài văn tự sự. Vận dụng kết hợp một cách tự nhiên các yếu
tố miêu tả nội tâm, nghị luận, và đặc biệt là các em đã vận dụng được các hình thức
đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm, làm cho bài văn chân thực, sinh động.
+ Hầu hết các em biết sử dụng dấu câu hợp lí, phân biệt lời kể và lời thoại rõ
ràng.
*Sau khi đề ra một số biện pháp thực hiện như vậy, và để kiểm nghiệm hiệu
quả của các giải pháp trên, tôi đã tiến hành kiểm tra kết quả học tập của học sinh.
Các em làm khá tốt, số lượng học sinh khá giỏi tăng. Sau đây là bảng đối chứng về
kết quả học tập của các em.
a. Học sinh yêu thích mơn học
u thích: 55 %
Bình thường: 35%
Khơng thích: 10 %
b. Kết quả khảo sát chất lượng vào cuối Học kì 1:
Kết quả
TT
1

Lớp
9A


Sĩ số
20

Giỏi
SL
%
03
15

Khá
SL
%
09
40

TB
SL
07

Yếu
%
35

SL
02

%
10

Qua kết quả cho thấy rằng đề tài “Rèn luyện kĩ năng xây dựng hình tượng

nhân vật qua hình thức đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm khi làm văn tự sự
trong chương trình Ngữ văn 9” đã giúp cho học sinh vận dụng tốt hơn vào viết bài
tập làm văn nên kết quả có sự thay đổi so với trước khi áp dụng đề tài. Cụ thể là tỉ lệ
học sinh khá giỏi có tăng lên và tỉ lệ học sinh yếu đã giảm đáng kể.
Nhìn vào kết quả, tôi thấy rằng đây là dấu hiệu khả quan để áp dụng trong
những năm tiếp theo.
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của đề tài
Có thể nói ngơn ngữ đối thoại và độc thoại là hai yếu tố quan trọng trong khi
tạo lập văn bản tự sự. Nó làm cho câu chuyện có khơng khí như cuộc sống thật, góp
phần khắc họa tính cách nhân vật. Đặc biệt, ngơn ngữ độc thoại nội tâm cịn góp
phần miêu tả những diễn biến tâm lý hết sức phức tạp trong thế giới nội tâm của con
người. Làm thế nào để học sinh làm tốt bài văn tự sự có sử dụng các hình thức ngơn


19

ngữ “ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm “vẫn là một trong những vấn đề cần
phải thảo luận thêm.
Qua quá trình áp dụng các giải pháp giúp học sinh rèn luyện ở các mức độ
(nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao) để xây dựng thành cơng hình
tượng nhân vật trong văn tự sự có sử dụng hình thức “đối thoại, độc thoại, độc
thoại nội tâm” vào q trình dạy học phân mơn Tập làm văn - môn Ngữ văn 9 ở
trường THCS bản thân rút ra được một số kinh nghiệm sau:
Đối với giáo viên:
- Trước hết bản thân mỗi giáo viên tham gia công tác giảng dạy phải hứng
thú, đam mê bộ môn vì khi có hứng thú mới say mê cơng việc, đi sâu nghiên cứu,
cải tiến phương pháp càng tích cực và tiến bộ hơn.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập ở nhà, sau đó giáo viên kiểm tra
sự chuẩn bị của học sinh. Tuy nhiên giáo viên cũng cần động viên, tuyên dương và

khuyến khích những học sinh có nhiều tiến bộ, kĩ năng viết tốt, vận dụng linh hoạt
các hình thức ngơn ngữ nói trên
- Ln học hỏi đồng nghiệp đi trước, trau dồi kiến thức, nâng cao chun
mơn nghiệp vụ của mình.
- Chú trọng việc cũng cố và phát triển ở học sinh các kĩ năng: viết đoạn văn,
diễn đạt, đặt câu, dùng từ, tạo lập văn bản viết,…
- Tạo được niềm tin, sự hứng thú, ham mê của học sinh đối với môn học
Và có lẽ điều quan trọng hơn cả là người giáo viên nói chung, giáo viên Ngữ
văn nói riêng phải thực sự trăn trở cho học sinh, phải thực sự tâm huyết với nghề
dạy học, luôn luôn cố gắng, không được nản lịng trong q trình dạy học
Đối với học sinh:
- u thích, say mê hứng thú học tập bộ mơn Ngữ văn
- Có đầy đủ các phương tiện học tập
- Học sinh phải tích cực, chủ động lĩnh hội tri thức, phát huy sự sáng tạo của
mình, biết tự bồi dưỡng tình yêu cuộc sống, tình yêu văn chương nghệ thuật.
3.2. Kiến nghị, đề xuất
Nhà trường cần trang bị thêm các tài liệu và đồ dùng phục vụ tốt nhất cho việc
dạy học bộ môn Ngữ văn trong nhà trường.
Đối với các đồng chí phụ trách chun mơn cần tạo điều kiện mở thêm những
lớp chuyên đề hoặc phổ biến những kinh nghiệm giảng dạy, những sáng kiến kinh
nghiệm hay để anh chị em giáo viên có cơ hội học tập, nâng cao tay nghề.
Trên đây, chỉ là ý kiến của cá nhân tôi tham khảo tài liệu, rút kinh nghiệm từ
thực tế giảng dạy và chỉ đạo chuyên môn của mình. Có thể những quan điểm dạy
học đã nêu ra chưa hẳn là giải pháp tối ưu và không tránh khỏi những hạn chế, thiếu
sót. Tơi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến xây dựng của bạn bè, đồng nghiệp


20

và hội đồng chuyên môn đánh giá bổ sung để đề tài của tơi hồn thiện hơn. Mặc dù

đã có nhiều cố gắng song khơng tránh khỏi sự thiếu sót. Tơi rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến xây dựng của bạn bè, đồng nghiệp và Hội đồng chuyên mơn đánh
giá bổ sung để đề tài của tơi hồn thiện hơn, có giá trị hơn trong thực tiễn, góp phần
nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn ở THCS.
Xin chân thành cảm ơn !


21

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 9 – Tập 1 (Nhà xuất bản Giáo dục).
2. Sách giáo viên Ngữ văn 9 – Tập 1 (Nhà xuất bản Giáo dục).
3. Chuẩn kiến thức kĩ năng – Tập 1 (Nhà xuất bản Giáo dục).
4. Yêu văn và học văn – Tạ Đức Hiền – Nguyễn Việt Nga –Phạm Minh Tú - NXB
Hà Nội.
5. Dạy học Tập làm văn ở trường THCS – Nguyễn Trí - NXB Giáo dục
6. Phương pháp dạy học Ngữ văn THCS theo hướng tích hợp và tích cực – Đồn
Thị Kim Nhung - NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
7. Một số tư liệu tham khảo trên mạng In-tơ-nét



×