Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Pháp luật về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.79 KB, 59 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA LUẬT

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN RỦI RO TRONG
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA LUẬT

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN RỦI RO TRONG HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn: BÀNH QUỐC TUẤN
Sinh viên thực hiện: VÕ THỊ MỸ ANH
MSSV: 1511271532
Lớp: 15DLK02

Tp. Hồ Chí Minh - 2018




LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chuyên đề khóa luận này trước hết em xin cảm ơn quý thầy, cô
giáo trong khoa Luật trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh lời cảm ơn
chân thành.
Đặc biệt, em xin gửi đến thầy Bành Quốc Tuấn, người đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này lời cảm ơn sâu sắc nhất.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, nơi đã nuôi dạy và cho
em một cơ hội học tập, phát triển tốt nhất để được như ngày hôm nay.
Đồng thời, em xin chân thành gửi lời cảm ơn cùng lời chúc sức khỏe, thành
công đến quý thầy cô đã và đang công tác tại trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ
Chí Minh đã tạo cho em một môi trường tốt để học tập, rèn luyện bản thân, giúp em có
một nền tảng kiến thức vững chắc áp dụng vào đời sống thực tế giảm bớt sự bở ngỡ khi
vào đời.
Vì kiến thức bản thân còn hạn chế, trong quá trình hoàn thiện chuyên đề này, em
không tránh khỏi những sai sót, kính mong nhận được sự góp ý, sửa chữa từ quý thầy
cô.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

........................................


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: VÕ THỊ MỸ ANH,

MSSV: 1511271532

Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khoá luận tốt nghiệp

này được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chuyên ngành (có trích dẫn đầy đủ và
theo đúng qui định);
Nội dung trong khoá luận KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu khác.
Nếu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường và
pháp luật.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

........................................


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ............................................................................... 2
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài ............................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 3
5. Kết cấu của đề tài của đề tài ................................................................................... 4
NỘI DUNG CHÍNH ĐỀ TÀI KHÓA LUẬN
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN RỦI RO TRONG HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ ........................................................................................... 4
1.1.

Tổng quan về rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa ................................. 5

1.1.1.

Khái niệm rủi ro .............................................................................................. 5

1.1.2.


Đặc điểm của rủi ro .......................................................................................... 6

1.1.3.

Các yếu tố tác động đến rủi ro ......................................................................... 6

1.2.

Khái niệm, nguyên tắc chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa

Quốc tế ............................................................................................................................ 7
1.2.1.

Khái niệm chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế ............ 7

1.2.2.

Nguyên tắc chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế ........... 8

1.3. Các loại rủi ro gặp phải trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .............. 20
1.3.1. Rủi ro về chủ thể kí kết, đối tượng, giá cả và phương thức thanh toán của
hơp đồng mua bán hàng hóa ........................................................................................ 20
1.3.2. Rủi ro về thư bảo lãnh ....................................................................................... 21


1.3.3. Rủi ro về điều khoản phạt vi phạm, điều khoản quy định về sự kiện bất khả
kháng và bồi thương thiệt hại ...................................................................................... 21

Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

VỀ CHUYỂN RỦI RO TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT .................... 24
2.1. Thưc tiễn rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ............................ 24
2.1.1. Các vụ kiện kinh điển về hợp đồng mua bán hàng hóa ..................................... 24
2.1.2. Bài học kinh nghiệm rút ra và một số phương pháp chuyển đổi rủi ro trong
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ........................................................................... 30
2.2.Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về chuyển rủi ro
trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .............................................................. 31
2.2.1.Pháp luật Việt Nam về vấn đề chuyển rủi ro...................................................... 31
2.2.2. Kết quả đạt được qua việc áp dụng pháp luật về mua bán hàng hóa ............... 32
2.2.3. Những hạn trong việc áp dụng các quy định của các văn bản luật có liên
quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa ........................................................................ 33

2.3. Nhu cầu và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hóa ....................................................................................................................... 44
2.3.1. Nhu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa ......... 44
2.3.2. Các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về chuyển rủi ro trong hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế ........................................................................................... 45
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 52


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Toàn cầu hóa, khu vực hóa đời sống kinh tế Quốc tế là xu hướng chung của nền
kinh tế thế giới hiện nay. Các quốc gia trên thế giới muốn phát triển và trở nên thịnh
vượng thì không thể không có sự giao lưu về chính trị, kinh tế cũng như văn hóa với
cộng đồng thế giới. Sự liên kết về kinh tế và thương mại diễn ra ở cả cấp độ toàn cầu
và khu vực. Tất cả các quốc gia đều phải đối mặt với xu hướng này.
Việt Nam đã tham gia hội nhập APTA, WTO, TPP,…và đang đứng trước xu

hướng đó với những cơ hội cũng như thách thức lớn. Nhưng có thể khẳng định rằng,
trong những năm qua, chính sách hội nhập quốc tế đã tạo ra những thuận lợi nhất
định cho sự thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Là một lĩnh vực quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động mua
bán hàng hóa quốc tế đã ra đời và không ngừng phát triển. Mua bán trao đổi hàng hóa
là hình thức thường thấy trong công việc kinh doanh và hợp đồng đã trở thành một
công cụ pháp lý để xác lập quan hệ của các chủ thể cũng đồng thời đảm bảo an toàn
về kinh tế. Hợp đồng có một vai trò hết sức quan trọng, nó được thể hiện trong hầu
hết các quan hệ của các bên trong nhiều lĩnh vực.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi mà các quan hệ dân sự, kinh tế ngày
càng trở nên phức tạp và mở rộng, mua bán hàng hóa lại là hoạt động chính trong
hoạt động thương mại và được thể hiện dưới hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là công cụ, là cơ sở để xây dựng và thực hiện kế hoạch
của chính các chủ thể kinh doanh, là cơ sở để giải quyết các tranh chấp xảy ra, mở
rộng quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới.
Khi giao kết hợp đồng thì chủ thể đều muốn đảm bảo được tính pháp lý của hợp
đồng để dễ dàng thực hiện, để đảm bảo mang lại lợi nhuận cũng như tăng cường hợp
tác, phát triển các mối quan hệ đối tác. Tuy nhiên, vì nhiều lý do mà thường thì xuất
phát từ việc thỏa thuận chọn luật, phương thức giao hàng, phương thức thanh toán và
những nguyên nhân khách quan từ yếu tố chính trị và tự nhiên khác đẫn đến hoạt
1


động mua bán hàng hóa quốc tế không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn làm phát
sinh những nguy cơ có thể gây ra rủi ro, tổn thất, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
đến hiệu quả kinh tế - xã hội của các doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, thậm chí có thể dẫn đến sự phá sản của một doanh nghiệp hoặc một ngành
sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là trong một nền kinh tế mở, việc giao lưu, buôn bán
với các đối tác nước ngoài tiềm ẩn những rủi ro phức tạp trong khi nước ta lại chưa
có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh thương mại quốc tế thì những rủi ro này lại

càng đa dạng và khó lường hơn. Rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế đã
và đang làm cảng trở hoạt động thương mại quốc tế của Việt nam, làm cho hoạt động
này tăng trưởng chưa xứng đáng với tiềm năng phát triển của nước ta. Vấn đề đặt ra
là làm thế nào để phòng ngữa và giảm thiểu những rủi ro này nhằm nâng cao hiệu
quả của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, góp phần vào tăng trưởng kinh tế.
Từ những lí lẻ trên em muốn đi sâu vào tìm hiểu, phân tích và nghiên cứu những
rủi ro đồng thời tìm ra các biện pháp để phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Đây cũng
chính là lí do em chọn đề tài này để làm báo cáo thực tập cũng như làm khóa luận tốt
nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Từ các rủi ro gặp phải trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa như chủ thể ký
kết hợp đồng, đối tượng của hợp đồng, giá cả, phương thức thanh toán, bảo lãnh hợp
đồng, điều khoản vi định về phạt vi phạm, điều khoản bất khả kháng, bồi thường thiệt
hại,… Cũng như phân tích các luật Việt Nam và luật pháp quốc tế liên quan, từ đó
đưa ra hướng giải quyết nhằm khắc phục, hạn chế cũng như phòng ngừa rủi ro trong
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu : Các quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế, kinh nghiệm về mua bán hàng hóa quốc tế của một số nước trên thế
giới, cũng như các bài học từ những bản án cũng như sự việc thực tế đã được giải
quyết.

2


Đối tượng nghiên cứu của đề tài : Đề tài nghiên cứu hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế bao gồm cơ sở lý luận, đánh giá pháp luật thực định và thực tiễn đời sống.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp liệt kê: Liệt kê một số nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế. Liệt kê các quy định pháp luật hiện hành, cũng như những

vụ việc thực tế diễn ra. Ngoài ra, còn các dữ liệu được thu thập từ sách báo và những
đề tài có cùng nội dung liên quan đến đề tài.
- Phương pháp phân tích : Từ phương pháp liệt kê trên, em sẽ phân tích và lý giải
cụ thể từng quy phạm pháp luật hiện hành và vấn đề thực tiễn diễn ra tìm ra những
điểm còn hạn chế nhằm cải thiện góp phần giảm thiểu rủi ro trong hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế.
- Phương pháp thống kê : Từ những phương pháp nói trên, em sẽ thống kê lại
những quy định pháp luật còn hạn chế để làm cơ sở lý luận riêng cho bài báo cáo.
- Phương pháp suy luận diễn giải : Phương pháp này dựa trên các dẫn chứng là dữ
liệu tham khảo từ mạng, sách, báo,… từ đó đưa ra ý kiến suy luận diễn giải và cuối
cùng dẫn đến kết luận.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, lời cảm ơn, lời cam đoan, danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung đề tài được kết cấu gồm có 2 chương :
Chương 1 : Cơ sở lý luận về chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Chương 2 : Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam về chuyển rủi ro
trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và một số kiến nghị, giải pháp.

3


NỘI DUNG CHÍNH ĐỀ TÀI KHÓA LUẬN

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN RỦI RO TRONG HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
1.1. Tổng quan về rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế
1.1.1. Khái niệm rủi ro
Bàn về khái niệm rủi ro: Cho đến nay chưa có được định nghĩa thống nhất về rủi ro.
Những trường phái khác nhau, các tác giả khác nhau đưa ra những định nghĩa rủi ro
khác nhau. Những định nghĩa này rất phong phú và đa dạng, nhưng tập trung lại có thể

chia làm hai trường phái lớn: trường phái truyền thống và trường phái hiện đại.
Theo trường phái truyền thống, rủi ro được xem là sự không may mắn, sự tổn thất
mất mát, nguy hiểm. Nó được xem là điều không lành, điều không tốt, bất ngờ xảy đến.
Đó là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận dự kiến. Rủi ro còn được hiểu
là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình kinh doanh, sản xuất của danh
nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Tóm lại, theo
quan điểm này thì rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên
quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người.
Theo trường phái hiện đại, rủi ro (risk) là sự bất trắc có thể đo lường được, vừa
mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang đến những tổn thất mất
mát cho con người nhưng cũng có thể mang lại những lợi ích, những cơ hội. Nếu tích
cực nghiên cứu rủi ro người ta có thể tìm ra những biện pháp phòng ngừa, hạn chế
những rủi ro tiêu cực, đón nhận những cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp cho tương lai.
Rủi ro phụ thuộc vào ngữ cảnh, nếu con người không có khái niệm hoặc không liên
quan đến thì họ không có rủi ro. Ví dụ: trời mưa sẽ là rủi ro với người đi đường nhưng
người ở trong phòng đóng kín cửa, không bị ảnh hưởng thì không có rủi ro. Rủi ro bao
gồm 3 yếu tố: xác suất xảy ra (Probability), khả năng ảnh hưởng đến đối tượng
4


(Impacts on objectives) và thời lượng ảnh hưởng (Duration). Bản chất rủi ro là sự
không chắc chắn (xác suất bằng 0% hoặc 100%) thì không gọi là rủi ro1.
Ngoài ra, trên thế giới và Việt Nam đã có nhiều nhà kinh tế, nhà kinh doanh bảo
hiểm nghiên cứu, đưa ra những khái niệm khác nhau về rủi ro như:
Inrving Pferfer (Mỹ) cho rằng: “Rủi ro là tổng hợp cho những sự ngẫu nhiên có thể
đo lường được bằng xác xuất”. Theo nhà kinh tế này, gắn liền với sự ngẫu nhiên của sự
vật, hiện tượng có thể đo lường được bằng xác suất, có nghĩa là rủi ro là sự cố ngẫu
nhiên không phụ thuộc vào ý chí của con người.
AllanWillett cho rằng: “Rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một
biến cố không mong đợi”, quan điểm này nhận được sự ủng hộ của một số học giả như

Hardy, Blanchard, Crobough và Redding, Klup, Anghell…
Marilu Hurt Mrcarthy thuộc viện khoa học kĩ thuật Georgia (Mỹ) lại cho rằng: “Rủi
ro là một trạng thái trong đó các biến cố xảy ra trong tương lai có thể xác định được”.
Theo đó, kinh nghiệm của một công ty có thể cung cấp chứng cứ về tần số của các biến
cố riêng biệt trong quá khứ, do đó cho phép các nhà quản trị xác định phân bố xác suất
xuất hiện của các biến cố tương lai. Tuy vậy, sự xuất hiện của các biến cố còn bị ảnh
hưởng bởi những yếu tố tác động hiện tại.
Theo Từ điển kinh tế học hiện đại, “Rủi ro là hoàn cảnh trong đó một sự kiện xảy ra
với một xác suất nhất định hoặc trong trường hợp quy mô của sự kiện đó có một phân
phối xác suất”.
Còn trong tác phẩm “Phương pháp mạo hiểm và phòng ngừa rủi ro trong kinh
doanh”, tác giả Nguyễn Hữu Thân, có viết: “Rủi ro là sự gây ra bất trắc gây ra mất mát,
thiệt hại”. Bất trắc chính là những điều không lường trước được. Như vậy, theo khái
niệm này thì, rủi ro phải là bất trắc gây ra hậu quả cho con người, còn những bất trắc
không gây ra tổn thất không phải là rủi ro.

1

Nguồn:
/>
5


Tuy nhiên, quan điểm được xem là hiện đại và nhận được sự đồng tình cao là của
Frank H. Knight khi ông cho rằng: “Rủi ro là sự không chắc chắn có thể đo lường
được”
Như vậy, đa số các nhà kinh tế và học giả đều cho rằng: rủi ro là những điều không
chắc chắn về những gì xảy ra trong tương lai nhưng có thể đo lường được, xác định
được ở một mức độ nào đó. Điều này có nghĩa là con người có thể lường trước được
những rủi ro có khả năng xảy ra và phòng ngừa, hạn chế rủi ro ở mức tối đa2.

1.1.2. Đặc điểm của rủi ro.
Từ các định nghĩa về rủi ro như trên dù ít nhiều khác nhau nhưng có thể thấy rằng
nó cùng đề cập đến một vài đặc điểm của rủi ro như:
Rủi ro có tính khách quan: tồn tại khách quan và có thể xảy ra bất cứ lúc nào không
phụ thuộc vào ý chí của con người.
Có tính tương lai: khi tính đến rủi ro thì nó chưa xảy ra, nó chỉ dự đoán và đo lường
trước.
Tính bất định: con người chỉ có thể lường trước được rủi ro chứ không thể xác định
một cách chính xác về rủi ro. Rủi ro có thể xảy ra hoặc không và không thể khẳng định
chắc chắn mức độ như thế nào.
1.1.3. Các yếu tố tác động đến rủi ro.
Ngoài ra, để xác định, dự trù trước và thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro con
người thường dựa vào các yếu tố tác động đến rủi ro như:
Môi trường tự nhiên: các hiện tượng tự nhiên xảy ra một cách đột ngột không dự
đoán trước được như lũ lụt, sóng thần, động đất, núi lửa…

2

Xem chi tiết tại mục 1.2.1.1
/>
6


Môi trường xã hội: nếu bắt kịp xu hướng xã hội thì đây là một phần giúp giảm thiểu
rủi ro nhưng ngược lại thì rủi ro sẽ rất lớn khi không bắt kịp xu hướng phát triển của xã
hội.
Môi trường pháp lý: mỗi quốc gia, lãnh thổ đều có những quy định pháp luật khác
nhau, và khi các quy định pháp luật này thay đổi theo hướng bất lợi như thắt chặt quản
lý, tăng thuế xuất nhập khẩu, thuế nội địa,…là nguyên nhân làm tăng tính bất định, dẫn
đến giá cả thay đổi gây thiệt hại cho sản xuất và kinh doanh.

Còn một vài yếu tố khác ảnh hưởng đến rủi ro như: cạnh tranh, chiến lược kinh
doanh, năng lực quản trị…
Căn cứ vào định nghĩa, đặc điểm cũng như các yếu tố tác động đến rủi ro có thể
phân chia rủi ro làm hai loại chính đó là:
Rủi ro thuần túy: rủi ro này chỉ mang lại hậu quả xấu như mất mát, thiệt hại, nguy
hiểm…làm phát sinh một khoản chi phí để bù đắp thiệt hại xảy ra.
Rủi ro suy đoán: đối với rủi ro này cơ hội tạo ra thuận lợi gắn liền với những rủi ro
đã được suy đoán, lường trước.
Khái niệm, nguyên tắc chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa
Quốc tế
1.2.1. Khái niệm chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế

1.2.

Trên thực tế việc xác định bên nào chịu rủi ro, thời điểm chuyển rủi ro cực kì quan
trọng trong việc thực hiện hợp đồng, giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng
mua bán hàng hóa.
Vì vậy, chúng ta cần xác định rõ thế nào là chuyển rủi ro. Chuyển rủi ro là cách
người bán, người mua hoặc bên thứ ba liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa sử
dụng pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa hiện tại để chuyển
rủi ro sang cho bên còn lại nhằm giảm thiếu tối đa thấp nhất mức thiệt hại xảy ra đồng
thời tăng lợi nhuận thu được lên mức tối đa.
7


1.2.2. Nguyên tắc chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế
Về nguyên tắc chuyển rủi ro, trước hết pháp luật tôn trọng thỏa thuận giữa các bên.
Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận thì thời điểm chuyển rủi ro của hàng
hóa căn cứ theo quy định tại Điều 57, 58, 59, 60, 61 Luật thương mại 2005.
Ngoài tác động tích cực là thúc đẩy sự phát triển kinh doanh thì hoạt động mua bán

hàng hóa quốc tế là hoạt động chịu ảnh hưởng lớn từ môi trường tự nhiên toàn cầu, nơi
chứa đựng rất nhiều hiểm họa cũng như nguy cơ không lường trước được. Bởi vì lĩnh
vực trao đổi hàng hóa luôn gắn liền với hợp đồng mua bán hàng hóa và liên quan chặt
chẽ đến hợp đồng vận chuyển. Chính vì vậy, khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
bên mua và bên bán nên đưa ra những điều khoản rõ ràng để giảm bớt thiệt hại cũng
như rủi ro không đáng có. Và Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế
1980 là một trong những nổ lực và thành công lớn nhất trong việc thống nhất pháp luật
về hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế. Ngoài ra, những quy tắc tương tự còn được
quy định trong Bộ tập quán thương mại Quốc tế INCOTERMS (INCOTERMS quy
định những nguyên tắc có liên quan đến giá cả và trách nhiệm của bên mua và bên bán
trong một hoạt động thương mại Quốc tế. INCOTERMS quy định các điều khoản về
giao nhận hàng hóa, trách nhiệm của các bên: ai sẽ trả tiền vận tải, người nào sẽ đảm
trách các chi phí về thủ tục hải quan, bảo hiểm về hàng hóa, người nào chịu trách
nhiệm về những tổn thất và rủi ro của hàng hóa trong quá trình vận chuyển,…thời điểm
vận chuyển giao trách nhiệm về hàng hóa), do phòng thương mại Quốc tế ICC ở Paris,
Pháp thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/01/2011 và đã được các thương gia cũng như
các công ty sử dụng một cách rộng rãi.
Việc xác định thời điểm chuyển rủi ro đối với hàng hóa là đối tượng của hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế vừa có ý nghĩa pháp lý, vừa có ý nghĩa thực tiễn hết sức
quan trọng và vì vậy nó được xác định bởi những quy định vô cùng đặc biệt. Từ thời
điểm rủi ro được chuyển sang người mua, người mua phải chịu mọi hậu quả của việc
hàng hóa bị mất mát, hư hỏng trong quá trình vận chuyển do những tình huống bất
thường gây ra. Để buộc người bán phải chịu trách nhiệm về khuyết tật của hàng hóa
hay hàng hóa bị thiếu, người mua phải chứng minh được rằng, hàng hóa bị mất mát
hay hư hỏng trước thời điểm rủi ro được chuyển sang người mua.
8


Thời điểm chuyển rủi ro sang người mua liên quan đến 2 sự kiện pháp lý, đó là: thời
điểm chuyển quyền sở hữu và thời điểm giao hàng. Điều 1138 Bộ luật Dân sự Pháp

quy định rủi ro đối với khách hàng được chuyển sang người mua đồng thời với việc
chuyển quyền sở hữu. Pháp luật của một số nước khác thì quy định rủi ro được chuyển
sang người mua tại thời điểm người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo quy định
của hợp đồng. Còn pháp luật Việt Nam quy định thời điểm chuyển rủi ro từ người bán
sang người mua không giống nhau trong các văn bản pháp luật khác nhau. Tuy nhiên,
tất cả các quy định đều có một điểm chung là không gắn thời điểm chuyển quyền sở
hữu với thời điểm chuyển rủi ro.
Khoản 1 Điều 441 Bộ luật dân sự 2015 quy định rằng, bên bán chịu rủi ro đối với tài
sản mua bán cho đến khi tài sản được giao cho bên mua, còn người mua chịu rủi ro đối
với tài sản mua kể từ khi nhận tài sản, nếu không có thỏa thuận khác. Còn trong Luật
thương mại 2005 quy định khá chi tiết việc xác định thời điểm mà rủi ro đối với hàng
hóa được chuyển từ người bán sang người mua. Theo quy định của Luật thương mại
2005, trừ trường hợp có thỏa thuận khác, nếu bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho bên
mua tại một thời điểm nhất định thì rủi ro sẽ được chuyển cho bên mua khi hàng hóa
được giao cho bên mua (Điều 57); hoặc nếu hợp đồng có quy định về việc vận chuyển
hàng hóa và bên bán không có nghĩa vụ giao hàng tại một địa điểm nhất định thì rủi ro
được chuyển từ người bán sang người mua khi hàng được giao cho người vận chuyển
đầu tiên.
Có thể thấy rằng các quy định tại Điều 57, 58 trong Luật thương mại 2005 có sự
tương thích với các quy định của Công ước Viên 1980. Điều 67.1 Công ước Viên 1980
quy định rằng, nếu trong hợp đồng có thỏa thuận vận chuyển và người bán không có
nghĩa vụ phải giao hàng cho người mua tại một địa điểm xác định, rủi ro được chuyển
sang người mua khi người bán giao hàng xong cho người vận chuyển thứ nhất để giao
cho người mua phù hợp với các điều kiện của hợp đồng. Nếu người bán có nghĩa vụ
giao hàng cho người vận chuyển tại một địa điểm xác định nào đó, rủi ro chưa được
chuyển sang người mua khi hàng chưa được giao cho người vận chuyển tại địa điểm
đó. Tuy nhiên, giữa chúng có sự khác biệt cơ bản ở chỗ, Công ước Viên 1980 ngay tại
Điều 67.2 quy định rằng rủi ro chưa được chuyển sang người mua chừng nào hàng hóa
chưa được đặc định hóa cho mục đích của đối tượng hợp đồng bằng ký mã hiệu, thông
9



qua chứng từ giao nhận được gửi cho người mua. Trong khi đó, quy định này lại được
quy định ở một điều khác trong Luật thương mại (Điều 61).
Luật thương mại 2005 có một quy định liên quan đến việc chuyển rủi ro đối với
hàng hóa từ người bán sang người mua trong trường hợp giao hàng cho người nhận
hàng để giao mà không phải là người vận chuyển. Theo quy định của Điều 59, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác nếu hàng hóa do người nhận hàng để giao nắm giữ mà
không phải là người vận chuyển thì rủi ro được chuyển đối với hàng hóa được chuyển
từ người bán sang người mua: khi bên mua nhận được chứng từ sở hữu hàng hóa; hoặc
khi người nhận hàng để giao xác nhận quyền chiếm hữu hàng hóa của bên mua. Có thể
nói rằng, rất khó có thể tìm thấy quy định tương tự trong pháp luật của các nước cũng
như trong Công ước Viên 1980. Nhưng trong trường hợp này cần xác định mối quan hệ
của người nhận hàng để giao: nếu người nhận hàng để giao có quan hệ với người bán
thì không thể coi là họ đã được giao hàng cho người mua và việc bên mua phải chịu rủi
ro khi họ được giao chứng từ sở hữu hàng hóa khó có thể chấp nhận được bởi vì hàng
vẫn do họ nắm giữ. Nếu người nhận hàng để giao có mối quan hệ với người mua thì rõ
ràng người bán giao hàng cho họ có nghĩa là hàng hóa đã đực giao cho người mua và
việc bên mua đã nhận được chứng từ sở hữu hàng hóa hay chưa không có ý nghĩa pháp
lý. Ngoài ra, còn cần lưu ý chứng từ sở hữu hàng hóa là gì và bằng cách nào để người
nhận hàng để giao xác nhận quyền chiếm hữu hàng hóa của bên mua.
Thực tiễn mua bán hàng hóa quốc tế còn có nhiều trường hợp người bán buộc phải
ký hợp đồng mua bán hàng hóa khi hàng đã nằm trên đường vận chuyển. Trong trường
hợp này, Điều 60 Luật thương mại 2005 quy định,người mua phải chịu rủi ro đối với
hàng hóa trên đường vận chuyển kể từ thời điểm giao kết hợp đồng. Có thể nói rằng,
quy định này của Luật thương mại 2005 cho phép xác định thời điểm rủi ro được
chuyển sang người mua dễ dàng hơn. Tuy nhiên, xét dưới góc độ thực tiễn thì Điều luật
này chưa thực sự phù hợp vì có thể hàng hóa bị hư hỏng trước thời điểm ký kết hợp
đồng tức là thời điểm hàng hóa được người bán giao cho người vận chuyển. Mặt khác,
những trường hợp hàng hóa được bán khi đang nằm trên đường vận chuyển hầu hết là

do người bán bị hoàn cảnh bắt buộc nên bao giờ giá cũng thấp hơn. Khác với quy định
này, Điều 68 Công ước Viên 1980 quy định rằng, trong trường hợp hàng hóa được bán
trên đường vận chuyển, người mua sẽ chịu rủi ro từ thời điểm hàng hóa được giao cho
10


người chuyên chở là người đã phát hành chứng từ xác nhận hợp đồng vận chuyển. Trừ
trường hợp, nếu vào lúc ký kết hợp đồng mua bán, người bán đã biết hoặc không thể
biết rằng hàng hóa đã bị mất mát hay hư hỏng nhưng không thông báo cho người mua.
Điều 61.1 Luật thương mại 2005 quy định: trong trường hợp người mua nhận tiếp
nhận hàng theo quy định của hợp đồng thì rủi ro sẽ được chuyển sang người mua từ
thời điểm mà theo quy định của hợp đồng hàng hóa phải đặt dưới sự định đoạt của
người mua.
Ví dụ: hợp đồng mua bán hàng hóa với điều kiện giao hàng EXW (giao tại xưởng)
quy định thời hạn giao hàng vào ngày 15/10/1018, đến trước thời điểm đó, bên bán đã
chuẩn bị sẵn sàng để giao cho bên mua bằng cách để riêng hàng đúng bằng khối lượng
được hợp đồng quy định và đã thông báo cho bên mua về sự chuẩn bị này một cách
hợp lý. Tuy nhiên, ngày 15/10/2018, bên mua không thực hiện nghĩa vụ tiếp nhận hàng
và đến ngày 17/10/2018, xảy ra hỏa hoạn, hàng bị cháy. Trong trường hợp này, thời
điểm chuyển rủi ro đối với hàng hóa từ bên bán sang bên mua được coi là ngày
15/10/2018. Qua đó, thấy được sự tương thích của quy định trên trong Luật thương mại
2005 với pháp luật Quốc tế về thương mại, cụ thể là Điều 69.1, 69.2 Công ước Viên
1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế.
Ngoài ra INCOTERMS 2010 còn có những quy định đặc biệt liên quan đến hoạt
động mua bán hàng hóa quốc tế:
Giao hàng tại xưởng EXW3 (EXWORK):
Nghĩa vụ chính của người bán: Cung cấp hàng hóa đúng theo hợp đồng bán hàng,
cung cấp các chứng từ cần thiết nếu có thể được cho người mua, thông báo cho người
mua trong một thời gian hợp lý về thời gian và địa điểm hàng hóa sẽ được đặt dưới
quyền định đoạt của người mua; chịu mọi rủi ro, phí tổn và chi phí phát sinh cho đến

khi lô hàng được người mua sẵn sàng tiếp nhận;

3

Nguồn
/>
11


Nghĩa vụ của người mua: Nhận hàng tại cơ sở hay địa điểm đã thỏa thuận với người
bán trong hợp đồng; thanh toán tiền hàng và chịu mọi chi phí phát sinh trong việc tiếp
nhận hàng hóa (chi phí kiểm tra hành hóa, chi phí về giấy tờ, thủ tục để nhận hàng và
thông quan xuất khẩu, chi phí mua bảo hiểm, chi phí mà người bán đã bỏ ra để hỗ trợ
cho mình…); tiến hành việc tổ chức vận chuyển và chịu mọi chi phí hao hụt, rủi ro và
làm tất cả các công việc để đưa hàng ra khỏi nước xuất khẩu và tới đích của mình.
Một người mua mua từ một người bán theo điều kiện EXW để xuất khẩu cần biết rằng
người bán chỉ có nghĩa vụ hỗ trợ người mua khi người mua yêu cầu để thực hiện xuất
khẩu chứ người bán không có nghĩa vụ làm thủ tục hải quan. Do đó, người mua không
nên sửa dụng điều kiện EXW nếu họ không thể trực tiếp hoặc gián tiếp làm thủ tục
thông quan xuất khẩu.
Người mua có nghĩa vụ rất hạn chế trong việc cung cấp thông tin cho người bán liên
quan đến xuất khẩu hàng hóa. Tuy vậy, người bán có thể cần một số thông tin, chẳng
hạn để tính thuế hoặc báo cáo4.
Giao dọc mạng tàu FAS5 (Free alongside ship): theo điều kiện này, người bán
chịu mói trách nhiệm và chi phí cho đến khi hàng được đặt dọc mạn tàu, trên cầu cảng
hoặc xà lan tại cảng bốc quy định. Nghĩa vụ của các bên này được giải thích như sau:
Nghĩa vụ của người bán: Cung cấp hàng hóa phù hợp với hợp đồng. Chịu các phí
tổn về kiểm tra, bao bì, mẫu mã…; giao hàng dọc mạng tàu, cung cấp chứng từ hoàn
hảo thường lệ chứng minh hàng đảm bảo an ninh hàng hóa, đã được giao dọc mạng tàu
cho người mua; thông báo cho người mua biết hàng đã được giao dọc mạng tàu, hoặc

thông báo cho người mua biết hàng hóa đã được chuẩn bị xong, trong thời gian quy
định hoặc thời gian hợp lý, làm các thủ tục xuất khẩu…; chịu mọi phí tổn, rủi ro và tổn
thất cho đến khi hàng được giao dọc mạng tàu.
Nghĩa vụ của người mua: Trả tiền hàng; ký hợp đồng vận tải, chịu phí tổn bốc hàng
lên tàu; chịu mọi rủi ro và tổn thất hàng hóa, từ khi hàng được giao tận mạng tàu;
4

Nguồn:
/>5
Nguồn:
/>
12


Thông báo cho người bán; chấp nhận các bằng chứng giao hàng; kiểm tra hàng hóa và
chịu các phí tổn về nhận hàng.
Giao lên tàu FOB6 (Free on board): Theo điều kiện này người bán chịu mọi
trách nhiệm và chi phí mua hàng cho đến khi hàng được giao xong lên tàu cảng bốc
quy định. Từ thời điểm đó trở đi người bán không còn trách nhiệm gì nữa. Nghĩa vụ
của các bên được phân định như sau:
Nghĩa vụ của bên bán: Cung cấp hàng theo đúng hợp đồng bán hàng; chịu mọi trách
nhiệm chi phí, rủi ro và tổn thất về hàng hóa trước khi hàng được giao lên tàu như các
chi phí về đóng gói, bao bì, kiểm hàng; thông quan xuất khẩu; giao hàng lên tàu do bên
mua chỉ định, trong thời hạn nhất định. Ngay khi gửi hàng xong, những chi tiếc về lô
hàng gửi phải được thông báo cho người mua biết để dùng vào mục đích bảo hiểm; trả
mọi chi phí bốc hàng lên tàu theo tập quán của cảng trong chừng mực chi phí này
không nằm trong tiền cước phí vận tải; thông báo kịp thời cho người mua biết hàng đã
được bốc lên tàu; cung cấp hoàn hảo chứng minh hàng đã bốc lên tàu và những chứng
từ khác nếu bên bán có yêu cầu; chứng từ bắt buộc: Hóa đơn thương mại, biên lai sạch
thông thường, giấy phép xuất khẩu.

Nghĩa vụ của người mua: Trả tiền hàng; ký kết hợp đồng vận tải biển và trả tiền
cước phí, tức là chỉ định người vận tải và kịp thời thông báo cho người bán trong thời
gian hợp lí; chịu mọi chi phí rủi ro và tổn thất về hàng hóa kể từ khi hàng được giao
xong lên tàu.
Giao cho người vận tải FCA7 (Free carrier)
Nghĩa vụ của người bán: Cung cấp hàng hóa phù hợp với hợp đồng và tiến hành
giao hàng tại địa điểm quy ước và sự trông coi của người vận tải công cộng do người
mua chỉ định, nếu không có địa điểm rõ ràng thì tiến hành giao hàng tịa địa điểm đã
báo trước cho người vận chuyển hoặc là địa điểm quen thuộc; hoàn thành việc thông
quan xuất khẩu; cung cấp bằng chứng về giao hàng cho người vận tải; thông báo kịp
6

Nguồn:
/>7
Nguồn
/>
13


thời cho người mua; các chứng từ bắt buộc hóa đơn thương mại, giấy tờ thông thường
chứng minh cho việc giao hàng cho người vận chuyển, giấy tờ xuất khẩu.
Nghĩa vụ của người mua: Trả tiền hàng hóa; ký hợp đồng vận tải và trả cước phí.
Trong trường hợp nhờ người bán làm giúp thì người mua phải chịu toàn bộ chi phí; kịp
thời chỉ định người vận tải, thông báo cho người bán và người vận tải biết khi đến thời
hạn giao hàng; nhận hàng và chịu mọi phí tổn nhận hàng tại nơi quy định; kiểm tra
hàng hóa tại nơi nhận hàng; chịu mọi rủi ro và tổn thất về hàng hóa kể từ khi hàng hóa
được giao cho người vận tải được chỉ định; làm giấy phép và thủ tục cần thiết để đưa
hàng hóa quá cảnh qua các nước trong quá trình vận chuyển (nếu có).
Tiền hàng và cước phí CFR8 (Cost and Freight)
Nghĩa vụ của người bán: Giao hàng đúng theo hợp đồng đã quy định; ký kết hợp

đồng vận tải đường biển và trả cước phí cho đến cảng đích qui định trong hợp đồng
(hoặc do bên mua báo). Việc ký hợp đồng vận tải phải đáp ứng được các yêu cầu thông
thường; giao hàng lên tàu và trả toàn bộ chi phí bốc hàng; tiến hành thông quan xuất
khẩu; thông báo cho người mua biết ngay khi chuẩn bị xong hàng hóa, thuế và xếp
hàng lên tàu cũng như khi hàng cập cảng đích qui định để người mua chuẩn bị nhận
hàng trong thời gian hợp lý; cung cấp cho người mua hóa đơn và các chứng từ vận tải
sạch như vận đơn đường biển, thư vận tải đường biển với các điều kiện hàng đã xếp lên
tàu, cước phí đã trả, chuyển nhượng được; trả phí dỡ hàng trong chừng mực chi phí này
được đưa vào tiền cước vận chuyển; chịu mọi rủi ro và tổn thất trước khi hàng đã giao
xong lên tàu ở cảng bốc hàng; các hóa đơn bắt buộc.
Nghĩa vụ người mua: Chấp thuận việc giao hàng đã gửi khi có hóa đơn và chứng từ
vận tải. Tiếp nhận hàng từ người vận tải khi hàng đến cảng bốc qui định; trả mọi chi
phí dỡ hàng trong chừng mực các chi phí này nằm trong cước phí vận chuyển (do
người bán trả); ký hợp đồng bảo hiểm và trả phí bảo hiểm nếu thấy cần thiết; chịu mọi
rủi ro và tổn thất kể từ khi hàng đã giao xong lên tàu tại cảng bốc qui định; thông quan
nhập khẩu; làm các thủ tục cần thiết để quá cảnh qua nước thứ ba nếu có; các chứng từ
bắt buộc.
8

Nguồn:
/>
14


Cước phí trả tới CPT9 (Freight or carriage paid to destination)
Nghĩa vụ của người bán: Giao hàng đúng như đã quy định trong hợp đồng; chịu mọi
rủi ro, tổn thất và chi phí về hàng hóa trước khi hàng được giao cho người vận tải đầu
tiên; thông báo cho người mua biết hàng đã được chuẩn bị, đã được xếp lên phương
tiện vận tải và dự kiến ngày hàng đến đích quy định; ký hợp đồng vận tải, giao hàng
cho người vận tải đầu tiên và trả toàn bộ cước phí vận tải cho đến điểm dỡ quy định;

thông quan xuất khẩu; cung cấp cho người mua những chứng từ vận tải thông thường.
Nghĩa vụ của người mua: Chấp nhận việc giao hàng khi hàng được giao cho người
vận tải đầu tiên, đồng thời người mua nhận được hóa đơn, đơn bảo hiểm, chứng từ vận
tải thông thường và nhận hàng từ người vận tải tại điểm đích quy định; mua bảo hiểm
nếu thấy cần thiết; chịu mọi rủi ro và tổn thất cũng như các chi phí phát sinh không
nằm trong tiền cước vận tải kể từ khi hàng được giao qua cho người vận tải đầu tiên;
thông quan nhập khẩu và nộp các khoản tiền để hàng được nhập khẩu, làm các giấy tờ,
thủ tục cần thiết để hàng được quá cảnh (nếu có).
Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí CIF10 (Cost, Insurance and Freight)
Nghĩa vụ của người bán: Giao hàng đúng như qui định của hợp đồng; chịu trách
nhiệm về mọi khoản chi, rủi ro và tổn thất hàng hóa trước khi hàng đã giao xong lên
tàu tại cảng bốc. Trả toàn bộ chi phí vận tải đến cảng đến; giao hàng lên tàu với thời
gian và cảng bốc qui định hoặc do bên bán chọn. Trả toàn bộ chi phí bốc hàng; ký hợp
đồng vận tải và trả cước phí đến đích qui định; tiến hành thông quan xuất khẩu; ký hợp
đồng bảo hiểm và trả phí bảo hiểm trong suốt thời gian hàng được vận chuyển đến
cảng đích qui định; báo cho người mua biết khi hàng hóa được chuẩn bị để giao, khi
hàng hóa được giao lên tàu và ngay khi hàng vừa tới cảng dỡ trong thời gian hợp lý để
người mua kịp chuẩn bị nhận hàng; cung cấp cho người mua những hóa đơn chứng từ
vận tải hoàn hảo giấy chứng nhận và bảo hiểm hàng hóa; chứng từ bắt buộc.

9

Nguồn:
/>10
Nguồn:
/>
15


Nghĩa vụ của người mua: Kiểm tra hàng hóa trước khi bốc và dỡ hàng; chấp nhận

việc giao hàng để gửi khi đã nhận được hóa đơn bảo hiểm hàng hóa và các chứng từ
bằng chứng khác về mua bảo hiểm và vận tải (vận đơn) và tiếp nhận hàng theo từng
chuyến giao hàng, hàng từ người vận tải ở đích qui định, trong thời gian quy định; trả
tiền dỡ hàng trong chừng mực tiền dỡ hàng không tính vào cước vận tải; chịu mọi rủi
ro, tổn thất và chi phí về hàng hóa (trừ các khoản tiền được tính vào cước phí vận tải)
kể từ khi hàng hóa được giao xong lên tàu ở cảng bốc hàng; thông quan nhập khẩu, trả
tiền thuế nhập khẩu và các chi phí khác để hàng có được nhập. Làm các thủ tục cần
thiết và trả các chi phí phát sinh để hàng có thể được quá cảnh nếu có.
Cước phí, cước bảo hiểm trả đến CIP11 (Carriage, Insurance paid to)
Nghĩa vụ của bên bán: Giao hàng theo đúng như qui định hợp đồng; Chịu mọi rủi ro
về tổn thất về hàng hóa trước khi hàng được giao cho người vận tải đầu tiên và khi
hàng đến điểm đích qui định; thông báo cho người mua khi hàng chuẩn bị xong, khi
hàng được giao cho người vận tải đầu tiên và khi hàng đến điểm đích qui định; ký hợp
đồng vận tải, giao hàng cho người vận tải đầu tiên và trả cước phí cho tới địa điểm đích
qui định; ký hợp đồng bảo hiểm hàng hóa trong suốt thời gian hàng hóa được vận
chuyển và trả chi phí bảo hiểm; thông quan xuất khẩu và chịu mọi chi phí về việc
thông quan; cung cấp cho người mua hóa đơn, chứng từ vận tải thông thường và đơn
bảo hiểm hoặc bất kì bằng chứng nào khác về việc mua bảo hiểm; Các chứng từ bắt
buộc.
Nghĩa vụ của người mua: Chấp nhận việc giao hàng đã được giao cho người vận tải
đầu tiên khi người mua đã nhận được hóa đơn, đơn bảo hiểm hàng hóa hoặc bất kì
chứng từ nào khác có liên quan về một mức bảo hiểm và nếu là thông lệ chứng từ vận
tải thông thường và tiếp nhận hàng từ người vận tải ở địa điểm đích quy định; Thông
quan xuất khẩu và chịu mọi chi phí phát sinh cho việc thông quan đó; chịu mọi rủi ro
và tổn thất khi hàng được giao cho người vận tải đầu tiên.
Giao tại bến DAT12 (Delivered at Terminal)

11

Nguồn:

/>
16


Nghĩa vụ của người bán: Giao hàng đúng quy định của hợp đồng; ký hợp đồng vận
chuyển và chịu cước phí vận chuyển tại nơi đến. Chịu mọi rủi ro, tổn thất và phí về
hàng hóa trước khi hàng được chuyển giao cho người mua tại nơi đến; cung cấp cho
người mua những chứng từ để người mua có thể nhận hàng; các chứng từ bắt buộc.
Nghĩa vụ của người mua: Nhận hàng tại nơi đến; Làm mọi thủ tục để nhập khẩu
hàng hóa; làm các thủ tục về vận tải quá cảnh nếu có; chịu mọi rủi ro kể từ khi hàng
được giao tại nơi đến quy định.
Giao tại nơi đến DAP13 (Delivered at place)
Nghĩa vụ vủa bên bán: Giao hàng đúng theo qui định của hợp đồng; chịu mọi chi phí
rủi ro và tổn thất về hàng hóa trước khi hàng hóa được giao cho bên mua tại nơi đến
qui định trên phương tiện sẵn sàng để chở tiếp; thuê phương tiện vận tải; giao hàng tại
nơi đến đúng theo qui định của hợp đồng; Trả toàn bộ chi phí về bốc, dỡ hàng hóa;
cung cấp cho người mua những chứng từ để người mua có thể nhận hàng tại nơi đến;
thực hiện việc thông quan xuất cấp khẩu; chứng từ bắt buộc.
Nghĩa vụ của người mua: Người mua phải thanh toán tiền hàng theo qui định trong
hợp đồng mua bán hàng hóa; người mua chịu rủi ro và chi phí liên quan đến việc thông
quan nhập khẩu hàng hóa; người mua không có nghĩa vụ đối với người bán trong việc
ký kết các hợp đồng vận tải, bảo hiểm. Tuy nhiên, nếu người bán yêu cầu thì người
mua phải cung cấp cho người bán các thông tin cần thiết để mua bảo hiểm; người mua
phải nhận hàng khi hàng được giao và chịu mọi rủi ro kể từ khi hàng được giao từ
người chuyên chở tại nơi chỉ định và thanh toán toàn bộ chi phí liên quan kể từ khi
người bán hết trách nhiệm; người mua phải thông báo, cung cấp đầy đủ thông tin và
chứng từ liên quan đến việc vận tải, hỗ trợ việc xuất khẩu hàng hóa cho người bán;
người mua phải chấp nhận chứng từ giao hàng do người bán cung cấp; người mua phải

12


Nguồn:
/>13
Nguồn:
/>
17


chịu các chi phí kiểm tra bắt buộc trước khi gửi hàng, ngoài trừ việc kiểm tra theo yêu
cầu của cơ quan có thẩm quyền ở nước xuất khẩu.
Giao hàng thuế đã trả tại nơi đích quy định DDP14 (Delivered Duty Paid)
Nghĩa vụ của người bán: Người bán có nghĩa vụ giao hàng đến địa điểm thỏa thuận
tại nước nhập khẩu, bao gồm việc chịu hết các phí tổn và rủi ro cho đến khi hàng đến
đích, gồm cả các chi phí thuế và hải quan.
Nghĩa vụ của bên mua: Nhận hàng tại nơi quy định và chịu rủi ro về hàng hóa kể từ
khi nhận hàng; trả chi phí dỡ hàng nếu chưa được bao gồm trong hợp đồng vận tải
Ở Việt Nam, các giao dịch trong thời gian vừa qua, phần lớn các doanh nghiệp chỉ
thực hiện xuất khẩu theo điều kiện FOB, nhập khẩu theo điều kiện CIF. Điều này khiến
cho các doanh nghiệp của ta gặp nhiều rủi ro trong hoạt động xuất-nhập khẩu đặc biệt
là chịu thiệt thòi về giá xuất và nhập.
Nhìn vào 2 điều kiện FOB và CIF đã phân tích như trên ta có thể thấy:
- Ở điều kiện FOB: do người bán phải giao hàng cho người chuyển chở (do người mua
chỉ định), và người mua đứng ra thuê, trả phí cho phương tiện chở hàng, mua bảo hiểm.
Do vậy, người mua sẽ phải gánh chịu hầu hết các rủi ro khi nhập khẩu hàng hóa. Đứng
ở góc độ người mua hàng, nếu muốn mua được hàng với giá phải chăng họ sẽ chọn
mua theo FOB dù cho trách nhiệm trong việc vận chuyển quốc tế có nặng nề hơn. Tuy
nhiện, ở Việt Nam do các công ty thường xuất khẩu hàng nguyên nhiên liệu thô, bán
thành phẩm là chủ yếu, giá trị gia tăng thấp, nhu cầu xoay vòng vốn nhanh, cùng đó là
kinh nghiệm trong làm hàng xuất khẩu cũng như khả năng giải quyết rủi ro trong quá
trình vận chuyển còn kém nên thường để nhà nhập khẩu có kinh nghiệm trong làm

hàng, thuê vận tải và chịu trách nhiệm cho các vấn đề phát sinh trong quá trình vận
chuyển.
- Ở điều kiện CIF: thì ngược lại hoàn toàn, người mua chỉ cần lamd thủ tục thông quan
xuất khẩu, còn mọi vấn đề về bảo hiểm rủi ro, giao hàng là trách nhiệm của người bán.
14

Nguồn:
/>
18


Theo đó, người mua sẽ tránh né được tối đa những rủi ro trong quá trình vận chuyển
hàng hóa, và sẽ thích nhập CIF hơn. Tuy nhiện, họ sẽ phải chấp nhận mức giá cao hơn
thông thường (vì mức đó bao gồm chi phí vận tải và bảo hiểm hàng hóa). Ở Việt Nam,
các doanh nghiệp xuất khẩu thường chọn điều kiện CIF khi nhập khẩu hàng hóa bởi
khả năng vận chuyển hàng hóa, làm logictics vẫn còn non yếu, hơn nữa cũng không có
nhiều kinh nghiệm vầ vận tải bảo hiểm. Các doanh nghiệp Việt cũng sợ rủi ro trong
thuê tàu chuyển chở và mua bảo hiểm. Khi nhập CIF các doanh nghiệp Việt nam
không phải thuê tàu và mua bảo hiểm hàng hóa nên có thể tránh được rất nhiều rủi ro
như: giá cược vận chuyển tăng, phí bảo hiểm tăng, không thuê được tàu, tàu không phù
hợp,...vì vậy, các công ty xuất nhập khẩu Việt nam nhượng lại việc thuê tàu và bảo
hiểm cho khách hàng nước ngoài.
Nếu thực hiện ngược lại “Nhập FOB và xuất CIF”, quyền chủ động phương tiện thuộc
về nhà kinh doanh xuất khẩu Việt Nam. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ được nhận ưu đãi
hãng tàu dành cho, có thể lựa chọn được những hãng tàu có giá thành rẻ hơn giá đã tính
cho nhà nhập khẩu bên kia; hơn nữa, khi thuê những hãng tàu của Việt Nam doanh
nghiệp sẽ nhanh chóng nhận được các chứng từ cần thiết để giải quyết nhanh, tiết kiệm
thời gian, tăng hiệu quả cho việc giao nhận, thanh toán tiền hàng; kim ngạch xuất khẩu
củ danh nghiệp vì thế cũng tăng, giảm được ngoại tệ chảy r nước ngoài, tạo điều kiện
cho nền vận tải biển Việt Nam phát triển.

Khi giao hàng giá CIF, đối với doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp sẽ thu được giá trị
ngoại tệ cao hơn so với việc xuất khẩu theo điều kiện FOB. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp
thiếu vốn, có thể dùng theo tín dụng (L/C) thê chấp tại ngân hàng sẽ vay được số tiền
cao hơn. Doanh nghiệp sẽ rất chủ động trong việc giao hàng, khong phải lệ thuộc vào
các việc điều tàu (hoặc container) do người nhập khẩu chỉ định. Đôi khi vì lệ thuojc
vào khách nước ngoài, tàu đến chậm làm hư hỏng hàng hóa đã tập kết tại cảng hoặc
trong kho, nhất là hàng nông sản. Đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bảo hiểm và
tàu hoặc con tai ner: Các công ty này của Việt Nam rất thiếu việc làm, nếu các doanh
nghiệp mua bảo hiểm hàng hóa và thuê tàu (container) trong nước, chắc chắn sẽ làm
tăng doanh số cho các doanh nghiệp nàu, giải quyết thêm việc làm cho công đồng của
nước ta, hơn là để công ty nước ngoài thu được phí bảo hiểm và cước tàu.

19


×