Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tieu luan bao chi doi ngoai báo chí việt nam với vấn đề định vị thương hiệu và quảng bá hình ảnh quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.14 KB, 21 trang )

Đề tài: Báo chí Việt Nam với vấn đề định vị thương hiệu và quảng bá hình
ảnh quốc gia
MỞ ĐẦU
1/ Lí do lựa chọn đề tài:
Xây dựng hình ảnh và thương hiệu quốc gia là quá trình hình thành, củng cố và
phát triển hệ thống những thứ riêng có của quốc gia để giúp thế giới biết đến quốc gia
mình. Đó cũng là quá trình biến những thứ chung, phổ biến, có sẵn thành nét đặc sắc
riêng của quốc gia mình. Xây dựng hình ảnh và thương hiệu quốc gia là một vấn đề
chiến lược, tổng thể, toàn diện đòi hỏi quá trình lâu dài và bền bỉ, tuy nhiên để xây
dựng hình ảnh và thương hiệu quốc gia có hiệu quả cần có sự góp sức của nhiều cá
nhân, nhiều cơ quan, nhiều tổ chức trong đó có vai trò rất lớn của báo chí.
Đất nước Việt Nam đang thời kỳ phát triển và hội nhập, công việc này càng
ngày càng khẳng định tầm quan trọng và sự cần thiết của nó trong việc bảo đảm sự
phát triển bền vững và lâu dài của quốc gia. Xây dựng hình ảnh và thương hiệu quốc
gia phải gắn với việc xây dựng đời sống văn minh, tiến bộ, sự tham gia của báo chí
truyền thông với vấn đề định vị thương hiệu và quảng bá hình ảnh quốc gia là rất
quan trọng.
2/ Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ vai trò của báo chí với vấn đề định vị thương hiệu và quảng bá hình
ảnh quốc gia.
- Củng cố thêm nhận thức, hiểu biết sâu sắc hơn các quan điểm báo chí trong
vấn đề định vị thương hiệu và quảng bá hình ảnh quốc gia.
- Đưa ra các giải pháp chung và đặc thù với vấn đề định vị thương hiệu và
quảng bá hình ảnh quốc gia.
3/ Phương pháp nghiên cứu:
- Khai thác tài liệu, phân tích và khái quát.
4/ Tình hình nghiên cứu:


- Đề tài báo chí với vấn đề định vị thương hiệu và quảng bá hình ảnh quốc gia
đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu chuyên sâu, các cơ quan quản lý Nhà


nước về báo chí gần đây cũng ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để đảm
bảo siết chặt hơn hoạt động của báo chí đúng quy quy định, thông tin trên báo chí phù
hợp với xu thế hội nhập, nhằm phát huy hiệu quả định vị thương hiệu và quảng bá
hình ảnh quốc gia. Trong khuôn khổ tiểu luận này, tôi có khai thác thông tin từ nhiều
nguồn tư liệu để sử dụng.
5/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Báo chí Việt Nam trong vai trò định vị thương hiệu và hoạt động quảng bá
hình ảnh quốc gia
- Hoạt động xúc tiến thương mại và quảng bá du lịch Việt Nam
- Chiến lược phát triển thương hiệu Việt Nam
6/ Kết cấu của đề tài:
Đề tài nghiên cứu này có 3 phần, mở đầu, nội dung và kết luận. Trong mỗi
phần sẽ giải quyết các yêu cầu thông tin và đề cập đến các phần nội dung cụ thể.
Chương I: CÁC KHÁI NIỆM
Chương II: BÁO CHÍ VIỆT NAM VỚI VAI TRÒ ĐỊNH VỊ THƯƠNG HIỆU QUỐC GIA
Chương III: BÁO CHÍ VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ QUẢNG BÁ HÌNH ẢNH VIỆT NAM QUA
DU LỊCH
Chương IV: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THÔNG TIN CỦA BÁO CHÍ VIỆT NAM
ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ ĐỊNH VỊ THƯƠNG HIỆU VÀ QUẢNG BÁ HÌNH ẢNH QUỐC GIA

2


NỘI DUNG
I. CÁC KHÁI NIỆM:
1. Báo chí:
Báo chí là môt bộ phận của truyền thông đại chúng (TTĐC), nhưng là bộ phận
chiếm vị trí trung tâm, vai trò nền tảng và có khả năng quyết định tính chất, khuynh
ướng, chi phối năng lực và hiệu quả tác động của TTĐC. Do đó, trong nhiều trường
hợp, có thể dùng báo chí để chỉ truyền thông đại chúng; và ngược lại, nói đến TTĐC trước hết phải nói đến báo chí.

Báo chí là tên gọi chung của các thể loại thông tin đại chúng. Có 4 loại hình
báo chí là: Báo in, báo nói, báo hình và báo mạng.
2. Thương hiệu:
Là một dấu hiệu (hữu hình và vô hình) đặc biệt để nhận biết một sản phẩm
hàng hoá hay một dịch vụ nào đó được sản xuất hay được cung cấp bởi một cá nhân
hay một tổ chức. Thương hiệu được hiểu là một dạng tài sản phi vật chất. hiểu một
cách đơn giản, là một cái tên gắn với một sản phẩm hoặc một nhà sản xuất.Thương
hiệu ngày nay đang ngày càng trở nên một thành tố quan trọng trong văn hóa và trong
nền kinh kế.
3. Hình ảnh:
Hình ảnh là những gì chúng ta thấy được thông qua thị giác rồi sau đó chuyển
về não giúp ta cảm nhận nhận hình ảnh đó một cách chân thực nhất từ đó đưa ra
những phản xạ, cảm nhận về hình ảnh mà ta vừa thu nhận.
4. Quốc gia:
Là một khái niệm địa lý và chính trị, trừu tượng về tinh thần, tình cảm và pháp
lý, để chỉ về một lãnh thổ có chủ quyền, một chính quyền và những con người của
cácdân tộc có trên lãnh thổ đó; họ gắn bó với nhau bằng luật pháp, quyền lợi, văn
hóa, tôn giáo, ngôn ngữ, chữ viết qua quá trình lịch sử lập quốc, và, những con người
chấp nhận nền văn hóa cũng như lịch sử lập quốc đó cùng chịu sự chi phối của chính
3


quyền, và, họ cùng nhau chia sẻ quá khứ cũng như hiện tại và cùng nhau xây dựng
một tương lai chung trên vùng lãnh thổ có chủ quyền.
Về phương diện công pháp quốc tế thì một chủ thể được xem là quốc gia khi
có đầy đủ các yếu tố sau: lãnh thổ, dân cư và có chính quyền. Quốc gia là chủ thể
quan trọng của quan hệ pháp luật quốc tế.
5. Thương hiệu quốc gia:
Thương hiệu quốc gia được hiểu là: “tập hợp các liên tưởng của cộng đồng về
bản sắc và hình ảnh của quốc gia thông qua các đối tượng mà quốc gia đó sở hữu như

lịch sử, sự phát triển về kinh tế – xã hội, con người, điều kiện địa lý đặc thù, điểm
đến, môi trường kinh doanh, sự vận động và năng động của quốc gia, các giá trị như
thân thiện, chất lượng, sáng tạo… Trong đó, hình ảnh quốc gia là nhận thức của cộng
đồng về các dữ liệu quá khứ của quốc gia còn bản sắc quốc gia là nhận thức của cộng
đồng về định hướng hình ảnh mong ước của quốc gia đó trong tương lai”.
II.

BÁO CHÍ VIỆT NAM VỚI VAI TRÒ ĐỊNH VỊ THƯƠNG HIỆU

QUỐC GIA
1/ Thông tin báo chí với vấn đề định vị thương hiệu quốc gia
Thủ tướng Chính phủ từ năm 2003 đã phê duyệt Chương trình Thương hiệu
Quốc gia (THQG). Bộ Công Thương được giao là cơ quan thường trực, phối hợp với
các Bộ/ngành triển khai. Chương trình được thực hiện nhằm xây dựng hình ảnh Việt
Nam là quốc gia có các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ chất lượng và khả năng cạnh
tranh cao, tạo được uy tín vững chắc trên thị trường trong nước và quốc tế.
Trong điều kiện nguồn lực thực hiện Chương trình còn nhiều hạn chế, Bộ Công
Thương, cơ quan trực tiếp thực hiện là Cục Xúc tiến thương mại – Ban Thư ký
Chương trình đã nỗ lực xây dựng và đổi mới các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp
(DN), thu hút sự đồng hành tích cực của DN trong nhiều hoạt động của Chương trình,

4


quy tụ nỗ lực của các cấp, các ngành và cộng đồng doanh nghiệp quyết tâm đưa hàng
hóa dịch vụ mang thương hiệu Việt Nam tương xứng với vị thế mới của đất nước.
Báo chí đã có đóng góp rất lớn đối với phát triển thương hiệu Việt Nam và
cộng đồng DN.Sự đồng hành, hợp tác chặt chẽ của các cơ quan thông tấn báo chí
trong việc tuyên truyền giới thiệu mục đích, ý nghĩa và nội dung hoạt động của
Chương trình thương hiệu quốc gia cũng như khơi dậy phong trào phát triển thương

hiệu Việt Nam, tôn vinh các DN, thương hiệu sản phẩm uy tín đạt thương hiệu quốc
gia.
Báo chí đã nêu ra những tồn tại, hạn chế trong thực trạng xây dựng, phát triển
và bảo vệ thương hiệu tại Việt Nam, những thách thức mà quốc gia, cộng đồng DN
đang và sẽ phải đối mặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. Qua đó,
giúp các cơ quan chức năng điều chỉnh chính sách phù hợp, có ý kiến phản biện xã
hội cần thiết khi xây dựng các chính sách mới. Báo chí cũng kịp thời phản ánh ý kiến
của người tiêu dùng đối với nhà sản xuất và thương hiệu sản phẩm của Việt Nam,
giúp DN có thông tin định hướng để xây dựng chiến lược phát triển kinh doanh và
thương hiệu bền vững hơn đáp ứng nhu cầu và kỳ vọng của khách hàng.
Có rất nhiều yếu tố đóng góp cho sự phát triển thành công một THQG, nhưng
vai trò của truyền thông rất quan trọng, không thể thiếu. Hiện nay, với sự phát triển
của Internet, mạng xã hội, mỗi một người dân đều có thể trở thành một người viết báo
tự viết, tự biên tập, tự đăng bài. Trong thời gian gần đây, những “bài báo” như vậy có
một tác động không hề nhỏ tới quan niệm, nhận định của xã hội. Bởi vậy, báo chí sẽ
phải là kênh truyền thông chính thức, dẫn dắt truyền thông xã hội, góp phần quảng bá
THQG để hình ảnh Việt Nam dần khẳng định, ông Thịnh nêu.
Công tác tuyên truyền đối với phát triển hình ảnh và THQG Việt Nam hiện nay
vẫn còn nhiều bất cập, khó khăn và nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ nhận thức và sự
quan tâm chưa đầy đủ của các cấp, các ngành, DN. Để phát triển hình ảnh và THQG,
vai trò công tác thông tin tuyên truyền thời gian tới cần được các cấp, các ngành, DN
nhận thức đầy đủ hơn.

5


Xây dựng THQG để khẳng định bản sắc trên thị trường thế giới trong bối cảnh
hội nhập là cách đi đúng hướng. Chúng ta có thể kỳ vọng việc khẳng định thương
hiệu Việt trên thương trường quốc tế là có triển vọng. Song phải có thời gian, phải có
lộ trình để tích tụ năng lực và kinh nghiệm; vừa bằng sự hỗ trợ của nhà nước, các bộ

ngành, địa phương và sự nỗ lực của mỗi DN, các hiệp hội ngành hàng, mới tạo ra
bước đột biến. Đó cũng chính là thông điệp mà Diễn đàn ngày hôm nay mong muốn
chuyển tải tới cộng đồng DN, báo chí và giới truyền thông.
2. Vai trò của định vị thương hiệu quốc gia với thương hiệu quốc gia:
2.1. Thương hiệu Quốc gia là tập hợp các liên tưởng của cộng đồng về bản
sắc và hình ảnh của quốc gia thông qua các đối tượng mà quốc gia đó sở hữu như lịch
sử, sự phát triển về kinh tế - xã hội, con người, điều kiện địa lý đặc thù, điểm đến,
môi trường kinh doanh, sự vận động và năng động của quốc gia, các giá trị như thân
thiện, chất lượng, sáng tạo... Trong đó, hình ảnh quốc gia là nhận thức của cộng đồng
về các dữ liệu quá khứ của quốc gia còn bản sắc quốc gia là nhận thức của cộng đồng
về định hướng hình ảnh mong ước của quốc gia đó trong tương lai.
Thương hiệu quốc gia bao gồm nhiều yếu tố như hình ảnh, giá trị, bản
sắc, hồn quốc gia…Tất cả những yếu tố này góp phần làm nên hiệu quả của việc xây
dựng thương hiệu quốc gia. Tuy nhiên, nếu không định vị rõ ràng quốc gia của mình,
vấn đề thương hiệu quốc gia sẽ lâm vào hai tình thế, một là hòa lẫn với các quốc gia
khác, hai là bị lu mờ trong cộng đồng quốc tế. Đặc biệt trong “thế giới phẳng” hiện
nay, việc du nhập cũng như mai một văn hóa và các giá trị khác ở mỗi quốc gia là vấn
đề phổ biến. Nói như vậy để thấy rõ tầm quan trọng của định vị thương hiệu trong
quá trình xây dựng thương hiệu quốc gia.
2.2. Định vị thương hiệu quốc gia:
2.2.1. Thế nào là định vị thương hiệu quốc gia?
Theo từ điển Tiếng Việt, định vị là “xác định vị trí tồn tại của một vật thể
theo những dấu hiệu xuất phát hay phản xạ từ bản thân nó”.
6


Như vậy có thể hiểu, định vị là dựa vào những đặc điểm sẵn có của vật thể
để xác định vị trí tồn tại của nó trong một không gian hoặc một hoàn cảnh nhất định.
Định vị là để người ta biết đến mình thông qua những đặc điểm và dấu hiệu nhận biết
của mình.

Trong vấn đề định vị thương hiệu quốc gia, xét và đối chiếu theo từ điển
Tiếng Việt, thì “ thương hiệu quốc gia” được hiểu như cụm từ “dấu hiệu xuất phát
hay phản xạ từ bản thân nó”, tức là xác định rõ vị trí của quốc gia thông qua thương
hiệu quốc gia trong tâm trí của công chúng. Ví dụ dễ thấy nhất là khi nhắc tới thương
hiệu hàng hoá Nhật, người tiêu dùng nghĩ ngay đến chất lượng tốt, đảm bảo, còn nhắc
tới thương hiệu hàng hoá Trung Quốc thì chất lượng kém, giá rẻ, mẫu mã phong phú
là ấn tượng xuất hiện luôn trong tâm trí người tiêu dùng thế giới. Rõ ràng cả hai nước
Nhật và Trung Quốc đều thành công trong việc định vị thương hiệu quốc gia, thể hiện
qua hàng hóa. Tương tự trong một doanh nghiệp, định vị thương hiệu được xem là
thành công khi nhắc tới một đặc tính của một loại hàng hoá nào đó là nghĩ ngay tới
thương hiệu của mình.
Như đã đề cập ở trên, thương hiệu quốc gia bao gồm rất nhiều yếu tố, việc
dùng yếu tố nào để làm dấu hiệu then chốt, giúp xác định được vị trí của quốc gia
mình trong nhận thức của công chúng tiếp nhận, đó mới là mục tiêu của định vị
thương hiệu quốc gia.
Vậy có thể hiểu, định vị thương hiệu quốc gia là xác định vị trí của mình
trong tâm trí của công chúng, không chi đơn thuần là là vị trí kinh tế, lịch sử của một
quốc gia mà còn là việc đề ra chiến lược trên cơ sở xây dựng và chọn lựa các yếu tố
của thương hiệu, để mong muốn mọi người cảm nhận, tin tưởng và có thể thấy rõ sự
khác biệt với các quốc gia khác.
Hay hiểu theo cách khác, định vị thương hiệu quốc gia là xác định rõ những
gì mình đang có và những gì có thể phát huy hiệu quả, xác lập vị trí của nó trong
công chúng. Một thương hiệu quốc gia không được định vị sẽ chỉ là một cái tên nước
vô hồn, chỉ để lại trong công chúng quốc tế những hiểu biết cơ bản về đặc điểm địa
lý, thể chế chính trị, thủ đô, dân số, kinh tế… Và khi đó, cái tên quốc gia không thể
7


được xem là một thương hiệu mạnh theo đúng nghĩa. Quốc gia đó đặt trong mối
tương quan với các quốc gia có chiến lược định vị thì sẽ bị lu mờ. Trong quá trình

định vị, vấn đề này có thể mang tính chủ quan hoặc khách quan. Chủ quan là chính
chúng ta muốn cộng đồng quốc tế nghĩ về chúng ta như thế nào, từ đó sẽ có chiến
lược và chương trình bền bỉ để đạt được mong muốn này. Ví dụ như muốn cộng đồng
quốc tế biết đến Việt Nam như một quốc gia có hệ thống chính trị ổn định thì phải
xây dựng chiến lược tổng thể để cộng đồng nước ngoài biết đến và có những hành
động để thể hiện sự biết đến này (đầu tư, siết chặt quan hệ ngoại giao) Khách quan là
do thời thế, lịch sử, vị trí địa lý, điều kiện thiên nhiên... tạo nên cho quốc gia một vị
trí đặc biệt, một mối liên tưởng đặc biệt và nhất quán nào đó trong tâm trí cộng đồng
quốc tế, rồi từ đó, quốc gia tiếp tục bảo vệ, củng cố và phát triển vị trí này để nó ngày
càng đặc biệt, rõ nét, nhất quán và đáng tin cậy hơn.
Dựa vào định nghĩa về định vị thương hiệu quốc gia ở trên, có thể thấy,
nguyên tắc cơ bản nhất trong việc định vị thương hiệu quốc gia đó là tập trung vào
một yếu tố, một lĩnh vực, một chiến lược nhất quán để định vị. Có như vậy, tác dụng
của việc định vị quốc gia mới phát huy được tối đa, bởi lẽ đây là một chiến lược lâu
dài.
2.2.2. Định vị thương hiệu quốc gia Việt Nam:
Đối với Việt Nam, cộng đồng quốc tế biết đến đất nước ta qua chiến tranh.
Đó là một đất nước nhỏ bé nhưng anh dũng, quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của mình, đánh thắng quân xâm lược và trở thành quốc gia độc lập.
Đây là hình ảnh định vị mà các dân tộc và nhân dân thế giới biết đến khi nói tới Việt
Nam. Khi hòa bình lập lại và đất nước ta đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội, tiến hành
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong mắt người nước ngoài, Việt
Nam chỉ là một đất nước an toàn (theo nghĩa không có xung đột vũ trang, đánh
bom...); món ăn ngon, lạ, hợp với xu hướng ẩm thực thế giới; cảnh quan thiên nhiên
tươi đẹp và yên bình; người dân thân thiện...Tuy nhiên, tất cả chưa có đặc điểm gì
thật sự tạo được dấu ấn riêng biệt để thế giới biết đến Việt Nam. Trong thời đại ngày
nay, việc định vị quốc gia quan trọng nhất là để cho thế giới có cái nhìn thay đổi về
8



một đất nước tranh đấu anh dũng, để cho họ có một nhận thức rõ rệt và phân biệt
được quốc gia Việt Nam với các quốc gia khác, cách nhìn Việt Nam của người nước
ngoài chỉ thực sự có hiệu quả khi chúng ta làm được như Canada “nhìn lá phong thấy
đất nước Canada”
Chiến lược định vị thương hiệu quốc gia Việt Nam là một việc làm bắt
buộc, nhằm tạo lợi thế cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Trong chiến lược này, có
những điểm chính cần lưu ý như sau:
Thứ nhất, xác định và phân loại công chúng thế giới và nhu cầu của họ.
Công đoạn này giúp chúng ta hình thành nên đối tượng cần nhắm đến và tiến hành
định vị. Thế giới là ngôi nhà chung, khó có thể đáp ứng nhu cầu cho mọi đối tượng,
chính vì thế, việc chọn lựa những nhóm đối tượng chiếm số lượng đa số, có tầm ảnh
hưởng tích cực sẽ là việc làm mang lại lợi ích cho quá trình định vị của ta. Ví dụ như
Việt Nam muốn định vị ẩm thực thông qua món ăn “thịt chó mắm tôm”, chắc chắn
định vị này sẽ khó thành công với thị trường mục tiêu ít ỏi. Phần lớn người dân châu
Âu coi chú chỏ nhỏ như một người bạn trong nhà, việc ăn thịt chúng theo họ là hành
động “dã man”, thêm vào đó là các tín đồ đạo Phật trên toàn thế giới cũng không
được phép ăn những món như vậy. Ngoài việc xác định và phân loại đối tượng, việc
phân tích những nhu cầu hiện có và tiềm ẩn của thị trường mục tiêu chưa được đáp
ứng để chúng ta sẽ định vị quốc gia theo hướng đáp ứng những nhu cầu này cũng là
việc cần làm để xác định cái “cần” của thị trường chứ không phải cái để đem cho thị
trường lựa chọn. Điều đó cho thấy, xác định đối tượngvà nhu cầu của họ là vấn đề
không hẳn là tối quan trọng nhưng cũng góp phần không nhỏ vào thành công của
định vị thương hiệu.
Thứ hai, phân tích định vị thương hiệu của các quốc gia khác. Đây là
công đoạn giúp chúng ta hiểu rõ các quốc gia đó đang chiếm giữ những vị trí nào
trong tâm trí cộng đồng thế giới, thời gian họ tiến hành định vị và thời gian định vị đó
“ăn sâu” vào trong lòng công chúng. Những liên tưởng của công chúng về các quốc
gia có thời gian và chiến lược định vị lâu dài, hiệu quả khó có thể thay đổi bởi một
9



định vị tương đồng từ các quốc gia khác. Chính vì vậy, cần nắm rõ để tránh bị thất bại
trong việc xây dựng định vị trùng lặp với các quốc gia chiếm “vị trí” mạnh trong tâm
trí công chúng thế giới.
Thứ ba, tìm kiếm điểm tương đồng và xác định điểm khác biệt trong
thương hiệu của quốc gia mình với các quốc gia khác. Điều này rất quan trọng trong
việc cân bằng, triệt tiêu điểm khác biệt của đối thủ bằng cách phát huy điểm mạnh
của mình, đồng thời tạo nét độc đáo chỉ một mình quốc gia mình có, góp phần tích
cực vào việc định vị nó trong tâm trí cộng đồng thế giới, tạo lợi thế cạnh tranh. Nên
đặt trọng tâm phát triển những điểm độc đáo, khác biệt này. Tại quốc gia Việt Nam,
có rất nhiều điểm khác biệt so với các quốc gia khác, có khác là cách chúng ta định vị
chúng trong tâm trí công chúng. Đó có thể là :” điểm đến thân thiện và an toàn”, “ đất
nước của những kỳ quan thiên nhiên”, “ nền văn hóa phi vật thể”….Đối với những
điểm tương đồng với các quốc gia khác, công việc cần làm là đẩy mạnh và nâng cao
những điểm tương đồng ấy sao cho nó cân bằng hoặc trội hơn các quốc gia khác.
Thứ tư, đó là vấn đề truyền thông. Truyền thông là một trong những khâu
quan trọng nhất trong việc đưa định vị thương hiệu quốc gia ra thế giới. Cần truyền
thông làm rõ Việt Nam sẽ là gì, sẽ đem lại lợi ích gì, những điểm tương đồng và khác
biệt so với các quốc gia khác và chứng minh điều ấy thông qua các hoạt động thực
tiễn và lý thuyết.
Tóm lại, định vị thương hiệu quốc gia chỉ có tác dụng khi biết tận dụng
lợi thế khác biệt và độc đáo của quốc gia mình để phát triển, trên cơ sở cân bằng các
lợi thế hiện có của nước khác, nhằm đáp ứng được nhu cầu hiện có và tiềm ẩn của các
nhóm đối tượng mà chúng ta hướng đến. Việc định vị thương hiệu quốc gia chắc chắn
cần đến những họp bàn, hoạch định của các đơn vị chuyên trách để phát hiện và phát
huy điểm khác biệt, cách thức cân bằng điểm tương đồng để tạo hiệu quả cao nhất
cho chiến lược này.
III/ BÁO CHÍ VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ QUẢNG BÁ HÌNH ẢNH VIỆT
NAM QUA DU LỊCH

10


1. Những lợi thế của du lịch trong chiến dịch quảng bá hình ảnh Việt Nam
Vai trò của các loại hình báo chí trong phát triển du lịch, bởi hiện nay, hầu hết
khách du lịch đều tìm thông tin du lịch qua báo chí. Việt Nam có sự đa dạng, đặc sắc
về văn hóa, cảnh quan và sản phẩm du lịch, các cơ quan báo chí trong khu vực cần
liên kết sản xuất ra nhiều chương trình quảng bá du lịch. Cần đẩy mạnh phối hợp giữa
các cơ quan báo chí trong khu vực để tạo sức thu hút lượng khách du lịch nội địa giữa
các tỉnh. Từ đó, có thể dần mở rộng với các đối tượng du khách khác trong nước và
quốctế.
Du lịch tại Việt Nam nắm nhiều lợi thế phát triển quảng bá hình ảnh đất nước
hơn những lĩnh vực khác. Điển hình là lĩnh vực kinh tế. Theo nhận định của các diễn
giả tại hội thảo về chủ để “Báo chí và quảng bá thương hiệu quốc gia Việt Nam”
(Tập đoàn Unilever phối hợp với tạp chí The Guide tổ chức ngày 24/1/2008 tại thành
phố Hồ Chí Minh), thì Việt Nam khó có thể nhanh chóng xây dựng được hình ảnh
chung của quốc gia thông qua con đường kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam đang đà phát
triển nhanh mạnh, tuy nhiên so với khu vực và trên thế giới, những nước đã có quá
trình phát triển kinh tế hùng mạnh, thì Việt Nam khó có thể theo kịp. Nếu dùng đến
định vị thương hiệu thông qua kinh tế, thì quá trình Việt Nam đến với thế giới là rất
khó khăn, trong khi những mặt hàng phổ biến và có mức tiêu thụ cao trên thế giới đã
được “đóng mác” bởi các quốc gia có chiến lược định vị lâu năm như: ô tô của Đức,
hàng hóa rẻ, đẹp, phong phú của Trung Quốc, hàng điện tử chất lượng cao của Nhật
Bản, mặt hàng rượu vang của Pháp rất nổi tiếng…Các thương hiệu quốc gia trên thế
giới đều được hình thành từ những thứ riêng biệt vốn có của họ, việc cạnh tranh là rất
khó khăn và thiếu khả thi trong việc thay thế chúng trong tâm trí của độc giả.
So sánh với kinh tế để thấy du lịch nước ta có những điểm khác biệt, có tác
dụng trong việc phát triển thương hiệu bởi các lợi thế.
Thứ nhất, nền du lịch nước ta gắn liền với nền văn hóa đặc sắc, đậm đà
bản sắc dân tộc. Văn hóa là thứ có chiều sâu và khả năng mạnh trong việc gây ấn

11


tượng của nó đến công chúng. Tuy nhiên nếu chỉ quảng bá văn hóa thông qua các
hoạt động truyền thông trên sách bút thì việc phát huy hiệu quả là không khả thi. Du
lịch nước ta gắn liền với văn hóa thông qua các lễ hội, các di tích văn hóa lâu đời trải
dài qua các vùng miền của tổ quốc, các nền văn hóa phi vật thể, văn hóa độc đáo, đa
dạng của 54 dân tộc anh em. Trong quá trình xây dựng và phát triển, nền văn hóa
Việt Nam có sự giao thoa với nền văn hóa bên ngoài, hòa nhập và phát triển hài hòa
tín ngưỡng Việt Nam, tạo nên sự độc đáo, đậm đà riêng có mà không một quốc gia
nào có thể tương đồng.
Thứ hai, du lịch Việt Nam thu hút ở tính hoang sơ và mời gọi khám phá.
Rất nhiều khách nước ngoài đến Việt Nam không phải để đi du lịch ở những danh
lam thắng cảnh được quảng bá rầm rộ, mà để tự đi khám phá cảnh quan thiên nhiên
và tự mình tìm ra những điểm thú vị ở đất nước ta. Với địa thế có sông, núi, biển đa
dạng, hoang sơ và bốn mủa rõ rệt, Việt Nam thích hợp cho nhiều loại hình du lịch từ
sinh thái, du lịch biển đến du lịch mạo hiểm. Đó cũng chính là đặc trưng “hút” khách
du lịch đến với Việt Nam.
Thứ ba, du lịch Việt Nam được xem như một điểm đến an toàn. Điều này
đặc biệt quan trọng với những du khách, nếu không muốn nói là yếu tố đầu tiên khi
họ chọn lựa đến với một quốc gia. An toàn ở đây được hiểu trên cả hai mặt: chính trị
và thiên nhiên. Nền chính trị ổn định: không có khủng bố, không có sự tranh giành
quyền lực bởi sự đa đảng khiến cho nhà nước và xã hội Việt Nam nằm trong thể
thống nhất, hiền hòa. Thiên nhiên thuận lợi, ít rủi ro và không có những thiên tai gây
thiệt hại nặng nề như động đất, bão tuyết… Với những hình ảnh của tổng thống Nga
Dmitry Medvedev đi bộ từ hồ Gươm về khách sạn, tổng thống Mỹ Bill Clinton đi dạo
quanh hồ Gươm, Tồng thống Mỹ G.W. Bush mở cửa ô tô vẫy tay chào nhân dân Việt
Nam đã đủ minh chứng cho điều này đối với du khách quốc tế khi lựa chọn du lịch
Việt Nam.
Với những lợi thế đó, du lịch Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển và

việc định vị du lịch Việt Nam là điều khả thi, nhằm phát huy những điểm khác biệt

12


này, hướng tới cái công chúng “cần” chứ không phải đem du lịch Việt Nam ra trưng
bày để ai “muốn” và “thích” thì sẽ đặt chân đến.
2. Những điểm hạn chế sự phát triển du lịch Việt Nam:
Tuy có nhiều lợi thế và xét trên sự so sánh với các quốc gia lân cận, cảnh
quan, môi trường và nền văn hóa Việt Nam không hề thua kém, song du lịch Việt
Nam vẫn chưa phát huy được những mặt mạnh, tỉ trọng đóng góp cho tổng sản phẩm
quốc nội của du lịch Việt Nam còn thua kém rất nhiều so với các nước trong khu vực
như Singapore và Thái Lan vì những hạn chế sau:
Thứ nhất, chiến lược định vị chưa rõ ràng và cụ thể. Như nguyên tắc cơ bản
của định vị thương hiệu đã quy định, đó là tập trung phát triển vào một lĩnh vực với
những quyết sách và chiến lược nhất định, thì Việt Nam lại làm chưa hiệu quả công
tác này. Du lịch Việt Nam rất đa dạng, đó là điểm lợi thế song cũng là điểm bất lợi
nếu không đưa nó vào sự nhất quán, hướng tới mục tiêu chung.
Thứ hai, sự nghèo nàn của hoạt động tổ chức du lịch. Như đã phân tích, du
lịch Việt Nam có tiềm năng phát triển rất lớn với sự đa dạng về địa lý, văn hóa vùng
miền. Tuy nhiên, hoạt động tổ chức du lịch tại các công ty du lịch Việt Nam chưa
sáng tạo và năng động trong việc làm phong phú các hoạt động du lịch. Có thể thấy
các tour du lịch tại Việt Nam chỉ dừng lại ở việc tham quan, ngắm cảnh, ít có những
nơi kết hợp văn hóa nghệ thuật, trò chơi khám phá…để làm phong phú, đa dạng và
phát huy hết các tiềm năng của du lịch.
Thứ ba, chưa xác định rõ nhu cầu của các du khách tới Việt Nam. Trong
thời đại ngày nay, các du khách nước ngoài đi du lịch không chỉ đơn thuần là đến
thưởng thức, ngắm cảnh và nghỉ dưỡng tại nơi họ đến mà còn mong muốn được tham
gia vào các hoạt động chuyên biệt như du lịch mạo hiểm kết hợp trò chơi cảm giác
mạnh, du lịch thể thao, du lịch khám phá thiên nhiên, du lịch từ thiện…Song tại Việt

Nam, những loại hình du này chưa được chú trọng đầu tư để đáp ứng nhu cầu của du
khách.

13


Thứ tư, lượng tiêu dùng của khách du lịch khi đến Việt Nam chưa cao.
Điều đó thể hiện ở mẫu mã hàng hóa lưu niệm tại Việt Nam không có tính sáng tạo và
phong phú, không lột tả được hết đặc trưng của văn hóa Việt Nam. Thêm một mặt trái
nữa là hàng hóa Trung Quốc tràn lan khiến người mua bị nhầm lẫn, dẫn đế việc
không còn tin tưởng vào sản phẩm mua về làm quà. Ví dụ như tại làng lụa nổi tiếng
Vạn Phúc ( Hà Đông – Hà Nội), lụa Vạn Phúc bị trà trộn lẫn lộn với hàng giả từ
Trung Quốc bày bán. Những khách hàng Việt Nam còn tỏ ra khá thận trọng khi mua,
chưa kể đến người nước ngoài. Hay như ở những con phố của Hà Nội, du khách nước
ngoài thường thích thú khi nhìn thấy những gánh hàng hoa trên phố, đặc biệt là
những gánh hoa sen – loài hoa vừa được bình chọn là quốc hoa Việt Nam, thế nhưng
ít ai biết được trong số những bó sen đẹp đẽ đó, hoa sen thật sự rất ít, mà thay vào đó
là hoa quỳ - một loài hoa rất giống hoa sen nhưng vẻ đẹp và hương thơm cũng như độ
bền thì khó sánh bằng. Ngay cả những người dân tại Hà Nội cũng đã nhầm lẫn. Điều
đó cho thấy, du khách du lịch tại Hà Nội muốn mua một bó hoa sen thật sự cũng vô
cùng khó khăn. Hàng hóa nội địa ít, mẫu mã nghèo nàn cộng với sự pha trộn các mặt
hàng của Trung Quốc đã khiến lượng tiêu dùng từ khách du lịch nước ngoài không
cao, trong khi đó so với các nước bạn có tổng thu nhập các mặt hàng từ khách nước
ngoài mang lại tương đối cao, thì đây đúng là mặt hạn chế rất quan trọng cần phải
xem xét lại, không chỉ đơn thuần vì lý do tài chính, thu nhập mà rõ ràng còn khẳng
định uy tín và nét độc đáo riêng có của quốc gia mình.
IV/ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THÔNG TIN CỦA BÁO CHÍ
VIỆT NAM ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ ĐỊNH VỊ THƯƠNG HIỆU VÀ QUẢNG BÁ
HÌNH ẢNH QUỐC GIA
1/ Giải pháp chung

Vấn đề giái pháp là một vấn đề lớn và cần có sự luận bàn, xem xét kỹ lưỡng
của các ban ngành chuyên trách việc xây dựng thương hiệu quốc gia. Đổi mới nhận
14


thức về phát triển du lịch và vai trò của báo chí trong tình hình mới, trước mắt cần đổi
mới phương thức lãnh đạo và quản lý báo chí hiệu quả, phù hợp hơn.
Báo chí cần chủ động xây dựng kế hoạch tuyên truyền mang tính chiến lược,
có sự phân bổ hợp lý về địa điểm, thời gian, thời lượng tuyên truyền. Xây dựng đội
ngũ nhà báo chuyên trách tuyên truyền, quảng bá du lịch của địa phương. Thường
xuyên mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn nhằm trang bị những kiến thức cơ bản về phát
triển du lịch cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên. Tăng cường các
chuyên trang, chuyên mục về phát triển du lịch có chất lượng cao, tiếp tục đổi mới
cách trình bày, hình thức thể hiện, kết cấu và chất lượng in ấn của các sản phẩm báo
chí để tăng sức hấp dẫn đối với công chúng bạn đọc.
Từng bước nâng cao nhận thức của phóng viên, biên tập viên về cả về kiến
thức báo chí lẫn kiến thức về du lịch. Ngoài việc quan tâm đầu tư, bổ sung kịp thời
kinh phí nhằm giúp các cơ quan báo chí có điều kiện xây dựng cơ sở vật chất, mua
sắm các trang thiết bị, đổi mới công nghệ sản xuất chương trình và các trang thiết bị
chuyên dùng, phương tiện làm việc nhằm giúp phóng viên nâng cao kỹ năng thu thập
và xử lý thông tin đáp ứng nhu cầu thông tin nhanh nhạy, chính xác của công chúng.
Xây dựng và tổ chức đội ngũ cộng tác viên rộng khắp để thu hút trí tuệ của
toàn xã hội, nhằm nâng cao chất lượng thông tin, tăng cường tính phong phú và đa
dạng của thông tin báo chí. Liên kết với các phương tiện thông tin đại chúng trong và
ngoài nước, mở rộng và khai thác tốt các trang Website hiện có để tuyên truyền,
quảng bá du lịch cho tỉnh Bắc Ninh.
Với ngành du lịch, xác định rõ đặc trưng riêng có của du lịch quốc gia và tập
trung phát triển mặt mạnh đó. Cách thức thể hiện của du lịch Việt Nam phải phù hợp
với cách tiếp nhận của đối tượng. Hay nói cách khác là xem xét đối tượng “cần” gì và
có cách thức đáp ứng phù hợp. Xu thế mới hiện nay trên thế giới là khách du lịch

15


mong muốn khi họ đến một vùng miền nào đó, họ sẽ giúp ích được cho cuộc sống
của nhân dân nơi đó, hay còn gọi là xu hướng du lịch từ thiện. Vậy cần hiểu rõ xu
hướng này, xác định xem những vùng, miền nào chưa có khả năng phát triển dù nội
lực có, những vùng miền bị thiên tai tàn phá, những vùng núi còn nghèo đói, để hình
thành những tour du lịch cho du khách đến những vùng miền đó. Hay như khách
nước ngoài, đặc biệt những người du lịch “ba lô” rất thích khám phá thay vì đi theo
tour đã đặt trước. Họ tự mình mang hành lý và kinh nghiệm của bản thân để đi khám
phá những nơi hoang vu, nguy hiểm nhất tại Việt Nam. Tuy nhiên, không phải là du
lịch mạo hiểm tự thân mà họ không cần đến những người Việt Nam có sở thích như
họ, đi cùng để làm bạn đồng hành. Chính những người Việt Nam đồng hành cùng họ
trong những chuyến du lịch mạo hiểm đó sẽ giúp họ thuận lợi hơn trong việc nắm bắt
địa hình, thời tiết cũng như những đặc điểm văn hóa của mỗi vùng đất họ đi qua. Có
thể thấy trong chuyến khám phá hang động dài nhất Việt Nam của các du khách nước
ngoài, không có bóng dáng của những người bạn đồng hành Việt Nam. Đó là cái du
lịch Việt Nam chưa làm hoặc chưa dám mạo hiểm để làm. Xét thấy nên phát triển
những hướng dẫn viên hay những tình nguyện viên ưa mạo hiểm tham gia vào những
hành trình du lịch như vậy, bởi những người Việt Nam trẻ yêu thích mạo hiểm hiện
nay không phải là ít. Những đáp ứng này cốt làm sao để cho du khách thỏa mãn
những gì họ mong đợi khi đến du lịch tại đất nước. Nếu xét ở vấn đề định vị, ví dụ
như chúng ta định vị du lịch Việt Nam là điểm đến của thiên nhiên xanh tươi và
hoang sơ, thì hãy để du khách khi đến Việt Nam được trải nghiệm những thứ mà ta
định vị. Thay vì đi du lịch cao cấp với hình thức xe đưa, thuyết minh và khu nghỉ
dưỡng cao cấp, hãy thay vào đó chuyến du ngoạn trên những chiếc xe “bụi”, để du
khách tự do khám phá và định hướng họ bằng những thông tin bổ sung trong suốt
chuyến đi. Có như vậy, họ sẽ tự thay ta định vị trong chính tâm trí họ về một Việt
Nam với thiên nhiên hoang sơ và tươi mát. Đó chỉ là ví dụ nhỏ và có ý nghĩa minh
họa cho giải pháp này và vấn đề định vị và chiến lược định vị sao cho hiệu quả còn ở

tầm vĩ mô mà bài tiểu luận này chưa đủ tầm hướng tới.

16


Quảng bá du lịch Việt Nam thông qua truyền thông. Đây là vấn đề không hề
nhỏ và tốn không ít giấy mực của các nhà nghiên cứu, các đơn vị chuyên trách quảng
bá hình ảnh Việt Nam qua du lịch. Chỉ đơn cử công đoạn truyền thông qua hình ảnh
đại diện (logo) và khẩu hiệu (slogan) cũng đã rất nhiều ý kiến khác nhau. Trong cuộc
thi “Sáng tác tiêu đề- biểu tượng cho chương trình xúc tiến du lịch Việt Nam giai
đoạn 2011-2015″, Tổng cục Du lịch đã tìm ra slogan và logo được giải nhất, đó là
slogan “Viet Nam- A Different Orient” (Việt Nam- Sự khác biệt Á Đông) và logo
hình ngôi sao 5 cánh của công ty Cowan. Tổng cục Du lịch đã xin ý kiến lãnh đạo Bộ
Văn hóa Thể thao Du lịch về sự thay thế slogan và logo này thay cho logo hình búp
sen và slogan “ Việt Nam – Vẻ đẹp tiềm ẩn”. Tuy nhiên ý kiến này đã không được
chấp thuận, một mặt vì kết quả phiếu thăm dò cho thấy chỉ có 43-56% người dân
đồng ý với việc thay thế, mặt khác là tuy được giải nhất nhưng sản phẩm thay thế này
còn bộc lộ nhiều hạn chế như dễ bị nghĩ đến những quốc gia Á Đông với nền văn hóa
đồ sộ và lâu đời đã được định vị trên tường thế giới như Trung Quốc, Hàn Quốc,
Nhật Bản, Ấn Độ, hay gây ra sự hiểu lầm về việc hội nhập mọi mặt của Việt Nam
hiện nay ( theo ý kiến của bà Phương Lan- Phó cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế (Bộ
Văn Hóa Thể Thao Du Lịch). Sau hơn 5 năm sử dụng, mặc dù có nhiều ý kiến khen
chê, nhưng logo hình búp sen và slogan “Việt Nam- Vẻ đẹp tiềm ẩn” đã được khẳng
định thương hiệu Việt Nam, gây ấn tượng tốt với du khách trong và ngoài nước.
Nhiều ý kiến cho rằng: Việc thay đổi logo và slogan là cần thiết nhưng không nhất
thiết phải bỏ hẳn logo và slogan này mà nên giữ lại, thay đổi chi tiết cho phù hợp với
chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2011- 2015, đó là thế mạnh là du
lịch biển, du lịch sinh thái và văn hóa.
Vấn đề truyền thông trong giai đoạn tới với những thế mạnh được luận bàn
kỹ lưỡng và đưa ra xem xét cần có một chiến dịch cụ thể mà bắt đầu ngay từ những

việc thống nhất biểu tượng đại diện cho chiến dịch này. Công ty giành giải nhất
Cowan đã được chọn là đối tác chính để xây dựng logo và slogan xúc tiến du lịch giai
đoạn tới và chiến dịch xây dựng thương hiệu, quảng bá cho du lịch Việt Nam. Tuy
nhiên, truyền thông là thứ nên bám sát và lựa chọn những hình thức phù hợp để đăng
17


tải. Tạp chí “Heritage”của Việt Nam được sử dụng trên các chuyến bay quốc tế đang
phát huy tốt tác dụng truyền thông của nó, đúng như cái tên được đặt “ di sản”. Tuy
nhiên, chỉ một vấn đề nhỏ thôi là làm sao cho khách nước ngoài biết, yêu thích và lựa
chọn du lịch Việt Nam để có thế ngồi trên chuyến bay tới Việt Nam, đọc tạp chí
Heritage, thì đó cũng là vấn đề đáng bàn của công tác truyền thông ra cộng đồng thế
giới. Việc lựa chọn các kênh truyền thông danh tiếng thế giới để quảng bá du lịch
Việt Nam, dù chỉ là nét chấm phá, nhưng cũng là một cách rất hiệu quả trong công tác
truyền thông du lịch Việt Nam. Và một điểm cũng không kém phần quan trọng trong
chiến dịch truyền thông du lịch Việt Nam ra thế giới, để nâng cao hình ảnh Việt Nam
trong cộng đồng quốc tế, đó là ý thức và hành động của những con người đang sinh
sống tại đất nước này, đó là sứ giả tốt nhất quyết định xem những thông điệp tốt xấu
nào sẽ được gửi đến khách nước ngoài, để họ có thiện cảm hay thành kiến về những
chuyến du lịch tại Việt Nam.
2/ Giải pháp đặc thù
Mỗi người dân là một kênh truyền thông hữu hiệu và trực tiếp, quảng bá những
hình ảnh tốt đẹp của đất nước ra bên ngoài. Vai trò và sứ mệnh của người dân trong
việc xây dựng thương hiệu quốc gia Việt Nam. Có ý kiến cho rằng: “ Mỗi người dân
phải là một đại sứ, đại diện thương hiệu cho một quốc gia”. Ý kiến này một mặt
ngầm khẳng định vai trò của mỗi cá nhân trong việc phát triển thương hiệu cho một
quốc gia, một mặt khẳng định đó như là sứ mệnh mà mỗi một người dân phải thực thi
nó trong thời bình đối với quốc gia của mình.
Vai trò và sứ mệnh của mỗi người dân được biểu hiện là dấu hiệu nhận dạng
thương hiệu quốc gia. Bất kỳ một nơi đâu khi họ đặt chân tới đều mang theo cả hình

ảnh của quốc gia để bạn bè thế giới nhìn nhận và đánh giá, và ngược lại, khi những
người nước ngoài đặt chân tới Việt Nam, lối sinh hoạt và ấn tượng về người dân sẽ là
thứ họ để ý đầu tiên và tác động trực tiếp và lâu dài trong tâm trí họ.

18


Nhiệm vụ của mỗi một “đại sứ” thương hiệu khi khách du lịch và nhà đầu tư
tới Việt Nam, phải làm sao cho họ cảm nhận được định vị thương hiệu Việt Nam qua
mỗi người dân mà họ gặp. Vấn đề thương hiệu quốc gia trong nội địa thực sự rất quan
trọng và không dễ dàng thực hiện. Nếu chúng ta định vị là một đất nước thân thiện,
nhưng khi du khách và nhà đầu tư tới họ lại gặp những con người không hề thân
thiện, chèo kéo du khách hoặc gây khó khăn cho vấn đề đầu tư hay hoạt động kinh
doanh thì dù chúng ta có truyền thông thương hiệu quốc gia tốt đến đâu thì cũng
không tạo dựng được thương hiệu quốc gia mạnh.

19


KẾT LUẬN
Vai trò của báo chí được thể hiện rất rõ rệt trong việc đồng hành với sự phát
triển của quốc gia trong công tác xây dựng thương hiệu quốc gia. Báo chí nâng cao
việc nhận thức rõ những lợi thế trong du lịch nói riêng và các lĩnh vực khác trong đời
sống xã hội nói chung sẽ góp phần làm tốt công tác này, với sự hỗ trợ có định hướng
của định vị thương hiệu quốc gia. Một quốc gia dù có chủ đích hay không có chủ đích
vẫn được hay bị “định vị” bởi cộng đồng thế giới. Một quốc gia có thương hiệu mạnh
là quốc gia phải được nhận biết tốt, và đặc biệt nhận biết đúng. Thương hiệu quốc gia
sẽ chính là chỗ dựa cho thương hiệu công ty, thương hiệu sản phẩm và con người
quốc gia đó khi tham gia thị trường toàn cầu. Việt Nam với những lợi thế về du lịch,
đặc biệt là du lịch biển, đang có những triển vọng phát triển tốt trong cộng đồng thế

giới, nhiều khách du lịch đã đến với Việt Nam để đắm chìm trong những khám phá
mới mẻ của một quốc gia Đông Nam Á đa dạng loại hình du lịch. Vấn đề định vị thương hiệu Việt
Nam là du lịch biển, du lịch sinh thái đang được các cơ quan chuyên trách quan tâm và đặt làm
chiến lược phát triển du lịch Việt Nam. Báo chí luôn là kênh quan trọng để định vị, xây dựng
thương hiệu và quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới.

\

TÀI LIỆU THAM KHẢO
20


1. PGS,TS Nguyễn Ngọc Oanh, Tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại, Thư viện
Học viện Báo chí & Tuyên truyền, Giáo trình.
2. PGS, TS Phạm Minh Sơn, Thông tin đối ngoại Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội 2011.
3. Cổng thông tin điện tử Bộ Công thương
/>4. Cổng thông tin điện tử Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: />5. Website Tổng cục Du lịch Việt Nam
/>6. Báo điện tử Dân trí
7. Báo điện tử VnEpress
8. Báo điện tử Tổ quốc

21



×