Tải bản đầy đủ (.doc) (165 trang)

Hệ biểu tượng nghệ thuật cơ bản trong tiểu thuyết lịch sử đương đại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.69 KB, 165 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐOÀN THANH LIÊM

HỆ BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT CƠ BẢN
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan bản luận án này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Các
dẫn liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ ràng. Những phát
hiện trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.

ĐOÀN THANH LIÊM

Tác giả luận án

Đoàn Thanh Liêm

HỆ BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT CƠ BẢN
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM



Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 9. 22. 01. 21

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP

HÀ NỘI, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Đăng Điệp. Các kết quả nêu ra trong luận
án là hoàn toàn trung thực; các kết luận được đưa ra chưa từng được công bố trong
bất kỳ một công trình khoa học nào khác.
Hà Nội, ngày 02 tháng 10 năm 2020
Tác giả

Đoàn Thanh Liêm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
LUẬN....................................................................................................................... 6
1.1. Vấn đề nghiên cứu biểu tượng và tiểu thuyết lịch sử.......................................... 6
1.2. Cơ sở lí thuyết và hướng tiếp cận của luận án.................................................. 17
CHƯƠNG 2. HỆ BIỂU TƯỢNG TỰ NHIÊN TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH
SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM.............................................................................. 32

2.1. Các biểu tượng Nước, Lửa, Đất, Trời............................................................... 32
2.2. Phương thức kiến tạo hệ biểu tượng tự nhiên trong tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam................................................................................................................. 55
Chương 3 . HỆ BIỂU TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH
SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM.............................................................................. 68
3.1. Các biểu tượng đấng minh quân, kẻ sĩ, liệt nữ.................................................. 68
3.2. Phương thức kiến tạo hệ biểu tượng con người trong tiểu thuyết lịch sử đương
đại Việt Nam........................................................................................................... 95
CHƯƠNG 4. HỆ BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG TRONG TIỂU
THUYẾT LỊCH SỬ ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM................................................ 106
4.1. Các biểu tượng tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội.................................................... 106
4.2. Phương thức kiến tạo hệ biểu tượng văn hóa cộng đồng trong tiểu thuyết lịch sử
đương đại Việt Nam.............................................................................................. 133
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 143
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 149


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Biểu tượng hiện hữu trong đời sống nhân loại ngay từ khi loài người biết
tư duy về tự nhiên và xã hội với những hình ảnh đơn giản nhất. Từ xã hội nguyên
thủy cho đến xã hội văn minh, từ con người tiền sử cho đến con người hiện đại, biểu
tượng luôn được tạo ra như là một công cụ thực hiện chức năng xã hội, thể hiện
nhận thức của con người về tự nhiên và xã hội. Cùng với trình độ tư duy của con
người ngày càng phát triển, thế giới biểu tượng càng ngày được thiết tạo phong phú
và sinh động, sử dụng rộng rãi trên các mặt đời sống xã hội. Biểu tượng “không chỉ
là hiện tượng văn hóa thông thường, hệ thống biểu tượng là nền tảng cơ bản của
một nền văn hóa dân tộc” [31, tr.9]. Hệ thống biểu tượng ấy không hề tồn tại độc lập
mà xuyên thấu vào nhau vừa mang bản sắc văn hóa của thời đại mà nó được sản
sinh ra vừa không ngừng được bổ sung các giá trị qua lịch sử phát triển.

1.2. Biểu tượng không chỉ có trong phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo,
trong chính trị, hoạt động quảng cáo sản phẩm… mà biểu tượng cũng tồn tại trong
tác phẩm nghệ thuật rất phong phú, đa dạng. Nó không chỉ là một hiện tượng văn
hóa mà còn là một đơn vị ngôn ngữ đặc biệt trong quá trình sáng tạo nghệ thuật,
thực hiện chức năng giao tiếp gắn kết giữa mĩ học sáng tạo và mĩ học tiếp nhận.
Nghĩa của biểu tượng trong tác phẩm không chỉ có nghĩa định danh, nghĩa biểu vật,
nghĩa biểu niệm, nghĩa biểu cảm mà còn có nghĩa “siêu niệm”. Tầng nghĩa ấy vừa
mang tính phổ quát cộng đồng vừa mang cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ trước
thời đại, vừa lưu giữ nguồn gốc khởi thuỷ của nó vừa phảng phất vốn văn hoá, vốn
sống của mỗi nhà văn, sự chi phối của tư duy nghệ thuật mỗi thời đại. Đặc biệt hơn,
tầng nghĩa ấy không bao giờ giống nhau qua cách tiếp cận đồng đại và lịch đại.
1.3. Về mặt nhận thức, có nhiều phương tiện thực hiện chức năng chuyển tải
nội dung tư tưởng của tác phẩm văn học. Trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt
Nam, thế giới biểu tượng là một phương tiện nghệ thuật thực hiện chức năng đó.
Biểu tượng tự thân nó gắn liền với nội dung (tư tưởng, lịch sử, văn

1


hóa…) nào đó, đến lúc nội dung đó làm bình diện biểu hiện cho một nội dung khác
cùng cấp độ hoặc khác cấp độ giá trị trong tác phẩm nghệ thuật. Những biểu tượng
nghệ thuật ở đây không thuộc về điển cố, điển tích, không thuộc về ký hiệu chỉ dẫn,
nó có thể hình thành từ những cổ mẫu mang tâm thức văn hoá cộng đồng, từ khả
năng sáng tạo biểu tượng mới của người nghệ sĩ… Nó là một đơn vị ngôn ngữ thực
hiện chức năng giao tiếp xã hội với việc tái tạo, cô đúc các giá trị văn hóa đi qua các
thời đại lịch sử, thiết chế xã hội. Trong thực tiễn sáng tác, cùng với ngôn ngữ, biểu
tượng thực hiện chức năng chuyển tải quan điểm của nhà văn về văn hóa, lịch sử
dân tộc, tham gia vào quá trình liên kết văn bản, xây dựng tính cách nhân vật.
1.4. Đối với nền văn học đương đại Việt Nam (khái niệm đương đại mà chúng
tôi sử dụng vừa dùng để chỉ mốc thời gian ấn hành các tác phẩm, đồng thời nói đến

với sự đổi mới phương thức phản ánh và nội dung phản ánh trong tác phẩm nghệ
thuật…), thể tài tiểu thuyết lịch sử có những đóng góp lớn, để lại dấu ấn sâu sắc.
Minh chứng cho điều này là sự “thắng thế” của các tiểu thuyết lịch sử qua các lần
trao giải và rất nhiều diễn đàn văn học bàn luận về tác giả và tiểu thuyết lịch sử.
Tiểu thuyết lịch sử là thể tài văn học có đặc trưng phức hợp. Thể tài văn học này lấy
hiện thực lịch sử làm chất liệu “xương cốt” và hư cấu nghệ thuật làm “hồn phách”
tinh anh của tác phẩm. Đối tượng thẩm mĩ thường được các nhà văn hướng đến là
những chi tiết, sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử được thời gian và các tầng lớp
nhân dân phủ bóng trầm tích văn hóa trong quá trình tiếp nhận. Nhà văn sử dụng
đặc trưng hư cấu để làm sáng tỏ thêm những góc khuất lịch sử trên tinh thần của
thời đại ngày nay, qua đó nhắn gởi nhữ ng thông điệp đến đời sống đương đại và
mai sau. Trong thời gian qua, các nhà nghiên cứu đã thực hiện nhiều công trình
khoa học chỉ ra tiến trình vận động, phát triển, diện mạo, đặc điểm, các phương thức
biểu đạt của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nói chung, tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam nói riêng từ góc nhìn lí luận loại thể văn học. Cốt lõi của các tác phẩm
thuộc thể tài văn học này là thành tố lịch sử và văn hóa thì chưa có công trình
nghiên cứu nào bàn luận sâu rộng, chuyên biệt. Chỉ có một số bài viết bàn đến yếu
tố văn hoá, lịch sử, đề cập

2


đến biểu tượng trong một tác phẩm cụ thể nào đó… Trước bối cảnh văn hóa và văn
học thế giới đang xóa nhòa những khoảng cách, có khả năng chồng xếp và bị hút lẫn
nhau, việc nghiên cứu thế giới biểu tượng nhằm khám phá chiều sâu địa tầng văn
hoá, lịch sử nhân loại và dân tộc qua hệ thống tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt
Nam là rất cần thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Khám phá những giá trị văn hóa, lịch sử dân tộc Việt qua các hệ biểu tượng.

- Trong quá trình khảo sát và phân tích các biểu tượng, chúng tôi sẽ làm rõ một
số luận điểm có ý nghĩa định vị giá trị biểu tượng và sự kết nối các giá trị ấy với vấn
đề đời sống xã hội, con người đương đại.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận án sẽ giới thuyết lại một số vấn đề lý luận về biểu tượng và tiểu thuyết
lịch sử trên tinh thần kế thừa, phát huy các công trình đã nghiên cứu trước đó.
- Luận án tập trung khảo sát, nhận diện và phân tích một số hệ biểu tượng nghệ
thuật cơ bản: hệ biểu tượng tự nhiên, hệ biểu tượng con người, hệ biểu tượng văn
hoá cộng đồng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam.
- Luận án sẽ làm rõ vai trò, chức năng của biểu tượng là đơn vị ngôn ngữ đặc
trưng - ngôn ngữ biểu tượng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam qua tư
duy nghệ thuật của nhà văn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng trực tiếp mà luận án nghiên cứu là biểu tượng nghệ thuật trong tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam thời kỳ đổi mới. Về bản chất, biểu tượng nghệ thuật cũng là
một loại ký hiệu, hàm chứa và biểu đạt vô vàn giá trị lịch sử, tư tưởng, văn hóa, của cá
nhân, cộng đồng... Đi sâu tìm hiểu, giải mã biểu tượng cho phép chúng ta mở rộng
nhận thức, khám phá những giá trị ẩn khuất của tác phẩm, hiểu biết sâu sắc hơn về văn
hóa nhân loại và dân tộc. Trong văn học, biểu tượng rời xa đời sống nguyên khởi của
nó để trở thành một dạng ký hiệu, một đơn vị ngôn ngữ quan trọng để kiến tạo nghĩa.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

3


Bên cạnh việc đi sâu nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986, ở một
chừng mực nào đó, luận án sẽ khảo sát tiểu thuyết lịch sử các giai đoạn trước đó,
đồng thời, so sánh với tiểu thuyết lịch sử của một số nền văn học khác để thấy rõ

hơn thành tựu của tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp hệ thống
Phương pháp hệ thống giúp chúng tôi tập hợp được các biểu tượng khác nhau,
sắp xếp chúng theo hệ biểu tượng tương ứng để phân tích. Phương pháp hệ thống
cũng giúp chúng tôi tập hợp được các công trình, bài viết nghiên cứu xoay quanh
đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án.
4.2. Phương pháp so sánh
Sử dụng phương pháp so sánh, chúng tôi sẽ xác định được bản chất của đối
tượng nghiên cứu trong tương quan với đối tượng của các công trình nghiên cứu
khác; xác định bản chất của từng loại biểu tượng trong mối quan hệ với các biểu
tượng khác.
4.3. Phương pháp loại hình
Nói đến loại hình là nói đến “tập hợp những sự vật, hiện tượng cùng có chung
những đặc điểm cơ bản nào đó” [19, tr.327]. Phương pháp này sẽ giúp chúng tôi
nhận dạng các biểu tượng khác nhau để xếp chúng về một kiểu loại phù hợp.
4.4. Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa
Biểu tượng là phương diện quan trọng của văn hóa và là phương tiện biểu đạt
của văn học qua tư duy nghệ thuật của nhà văn. Tiếp cận biểu tượng văn học từ góc
nhìn văn hóa sẽ giúp luận án có điều kiện khám phá chiều sâu các giá trị của biểu
tượng trong tác phẩm văn học.
4.5. Phương pháp liên ngành
Nghiên cứu biểu tượng trong văn học, đặc biệt là biểu tượng trong tiểu thuyết
đòi hỏi sử dụng nhiều loại hình tri thức khác nhau như sử học, xã hội học, văn hóa
học, tâm lý học, tôn giáo, tín ngưỡng, thi pháp học, tự sự học…Vì thế, luận án sẽ sử
dụng phương pháp liên ngành nhằm cắt nghĩa sâu hơn cách sử dụng biểu tượng
cũng như các tầng nghĩa nằm sâu trong biểu tượng văn học.

4



5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án là công trình nghiên cứu chuyên biệt về biểu tượng trong tiểu thuyết
lịch sử đương đại Việt Nam.
- Góp phần hệ thống hóa các tri thức lý thuyết về biểu tượng và biểu tượng
văn học, biểu tượng trong tiểu thuyết lịch sử làm cơ sở khám phá giá trị văn hóa và
văn học trong tiểu thuyết lịch sử nói riêng và văn học nói chung.
- Phân tích hệ biểu tượng trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam, chỉ ra
những thành tựu sáng tạo nghệ thuật của nhà văn, qua đó, nhận thấy rõ hơn sự giàu
có và phong phú của các giá trị văn hóa trong văn học.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
- Luận án xác định được quan điểm cơ bản về tiểu thuyết lịch sử đương đại
Việt Nam.
- Luận án đóng góp thêm một tiếng nói nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử đương
đại Việt Nam từ lý thuyết biểu tượng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án đi sâu nghiên cứu những giá trị lịch sử, văn hóa dân tộc qua các hệ
biểu tượng, từ đó góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử dân tộc
trong bối cảnh đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế.
- Là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học ở phổ
thông và đại học.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án
gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chương 2: Hệ biểu tượng tự nhiên trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam
Chương 3: Hệ biểu tượng con người trong tiểu thuyết lịch sử đương đại Việt Nam

Chương 4: Hệ biểu tượng văn hoá cộng đồng trong tiểu thuyết lịch sử đương

đại Việt Nam

5


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1. Vấn đề nghiên cứu biểu tượng và tiểu thuyết lịch sử
1.1.1. Nghiên cứu biểu tượng
1.1.1.1. Khái lược tình hình nghiên cứu biểu tượng trên thế giới
Ở các quốc gia phát triển và có truyền thống văn hóa lâu đời, việc nghiên cứu
biểu tượng đã có từ rất sớm cả về khảo sát thực tiễn lẫn nền tảng lý thuyết. Các thao
tác đọc biểu tượng và giải mã biểu tượng thường gắn với hệ tư tưởng triết học và
mỹ học nào đó.
Theo triết học mácxít, quá trình nhận thức của con người về thế giới trải qua
hai giai đoạn nhận thức cơ bản: cảm tính và lý tính. Các cấp độ của quá trình nhận
thức diễn ra rất biện chứng và phức tạp, mỗi cấp độ có nội dung, chức năng và ý
nghĩa khác nhau. Biểu tượng là mắt xích sau cùng, là hình thức phản ánh cao nhất
và phức tạp nhất của quá trình nhận thức cảm tính gồm: cảm giác, tri giác, biểu
tượng. Theo đó, biểu tượng là hình ảnh của sự vật, hiện tượng khách quan tương đối
hoàn chỉnh và trừu tượng còn lưu lại trong bộ óc người sau khi sự vật, hiện tượng
đó không còn trực tiếp tác động vào các giác quan. “Biểu tượng là hình ảnh của cảm
tính về các sự vật, hiện tượng khách quan nên ít nhiều mang tính trừu tượng hóa”
[120, tr.300-303]. Quan điểm triết học mácxít xem biểu tượng là sản phẩm chủ quan
cá nhân trong hoạt động nhận thức của con người, biểu tượng mất đi giá trị văn hoá
không thuộc về cái đã có, cổ xưa được tích luỹ qua các thời đại và không mang tâm
thức cộng đồng.
Đối với các nhà phân tâm học, biểu tượng không phải là một giai đoạn của quá
trình nhận thức mà là những hình ảnh, sự vật được kết tinh từ “vô thức tập thể”, của

“vùng kinh nghiệm” được truyền từ đời này sang đời khác (nằm ngoài quy luật di
truyền học) dùng để biểu đạt một điều gì đó. Biểu tượng một mặt xuất hiện trong
giấc mơ hay “giấc mơ là nguồn gốc chính để tìm ra biểu tượng” [14, tr.67] nhưng
không chỉ có vậy, biểu tượng còn được hình thành từ phương diện tâm lý cá nhân và
những vô thức tập thể. Từ phương diện tâm lý cá nhân, “có những ý tưởng và

6


tâm tình có tính cách biểu tượng. Có những hành động và hoàn cảnh có tính cách biểu
tượng” [14, tr.68]. Nhưng cũng “có rất nhiều biểu tượng quan trọng, không có tính cách
cá nhân mà có tính cách đoàn thể, kể cá phương diện tính chất lẫn phương diện nguồn
gốc” đó là “những ý tưởng tập thể thoát thai từ những giấc mơ, từ trí tưởng tượng” [14,
tr.68-69] tập thể xã hội trong hoàn cảnh nhất định nào đó tác động đến.
Carl Jung đã chia tâm thức con người ra làm ba phần: (1) Cái tôi - bộ phận ý thức
của tâm thần; (2) Cõi tiềm thức cá nhân - đó là tất cả những gì không xuất hiện nhưng
thuộc về ý thức. Khi cần sẽ trở thành một phần của ý thức; (3) Vô thức tập thể. Đây
chính là phần quan trọng, khẳng định giá trị học thuyết của Jung. Nếu S. Freud quan
tâm đến bản năng trong cõi vô thức tác động đến ý thức và hành vi con người, làm nên
các giấc mơ, biểu tượng hình thành từ giấc mơ để biểu đạt hành vi thì với Carl Jung,
những kiến thức từ cõi vô thức tập thể luôn có ảnh hưởng lên tất cả những hành vi của
con người. Nội dung của những ảnh hưởng đến từ cõi vô thức tập thể được gọi là
những nguyên mẫu. Đó chính là những tâm thức hệ chủ quan bao gồm những biểu
tượng hoặc những hình ảnh huyền thoại hay những hình ảnh nguyên thủy. Các nguyên
mẫu thuộc về tâm thức di truyền hoàn toàn không có liên hệ nguồn gốc sinh học. Các
nguyên mẫu không mang thuộc tính bản năng mà là những nhu cầu mang thuộc tính
tinh thần. Trong cuốn Thăm dò tiềm thức, Carl Jung cho rằng: biểu tượng hoàn toàn
khác với ký hiệu. Theo ông, “một chữ hay một hình ảnh sẽ trở thành biểu tượng khi nó
gợi đến một cái gì khác ngoài ý nghĩa hiển nhiên và trực tiếp” [14, tr.18]. Trong khi “ký
hiệu không bao giờ nói hết những ý nghĩa của một ý niệm ghi lại bằng ký hiệu ấy còn

biểu tượng gợi đến một nội dung to lớn hơn ý nghĩa hiển nhiên và trực tiếp của biểu
tượng” [14, tr.67]. Đối với các nhà triết học phân tâm, khi phân tích biểu tượng trước
hết họ khảo sát những biểu tượng tự nhiên, đối chiếu với các biểu tượng văn hóa.
Những biểu tượng tự nhiên “thoát thai từ nội dung phi ý thức của cái psyché (Chữ này
Jung dùng để chỉ toàn bộ những tác động trí thức và tiềm thức và được dùng theo một
nghĩa rộng hơn chữ “tâm thần”) [14, tr.20], còn “những biểu tượng văn hóa dùng để
diễn tả những chân lý vĩnh cửu. Những biểu tượng này đã nhiều lần thay đổi, có thể do
một tiến trình cấu tạo có ý thức, và trở thành những hình ảnh tập thể được các xã hội
văn minh chấp nhận” [14, tr.135].

7


Thế kỷ XX với sự phát triển vượt bậc của nhiều chuyên ngành khoa học xã hội
khác nhau như cấu trúc luận, ngôn ngữ học, ký hiệu học, nhân học... đã tác động
mạnh mẽ đến hoạt động nghiên cứu biểu tượng và lý thuyết biểu tượng trên thế giới.
Có thể có nhiều cách giải thích khác nhau về vỏ vật chất, nghĩa và ý nghĩa, giá trị
của một phương tiện giao tiếp, song các nhà khoa học cấu trúc luận, ngôn ngữ học,
ký hiệu học quan niệm ngôn ngữ, ký hiệu gồm hai phần: cái biểu đạt và cái được
biểu đạt. Từ mô hình cấu trúc do Ferdinand de Sausure lập ra với quan niệm ngôn
ngữ là một hệ thống ký hiệu, mỗi ký hiệu ngôn ngữ có hai phần cái biểu đạt và cái
được biểu đạt, nhiều nhà khoa học như Romand Jakobson, Tzvetan Todorov, Roland
Barthes, Jacques Derrida, C. Levi-Strauss kế tiếp nhau dụng hành và phát triển nó
thành hệ thống lý thuyết về cấu trúc luận, ký hiệu học với những giá trị lớn lao.
Roland Barthes đã phát triển mô hình cấu trúc của ký hiệu, cái biểu đạt và cái được
biểu đạt ở một mức cao hơn. Theo đó, “ký hiệu được hình thành từ cái biểu đạt và
cái được biểu đạt ban đầu lại kết hợp với nhau thành mô thức của cái biểu đạt và cái
được biểu đạt cao hơn tạo nên các ký hiệu mới” [38, tr.21]. Cái biểu đạt được cảm
nhận trực tiếp bằng các giác quan, cái được biểu đạt bị che lấp, ẩn sâu, khó nắm bắt.
Hệ thống quan điểm này là chìa khoá giải mã biểu tượng.

Dưới góc nhìn của ngôn ngữ học, biểu tượng là thuộc tính đặc trưng của ngôn
ngữ. Ferdinand de Sausure cho rằng “ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu đã được xã
hội chấp nhận bằng các quy ước... là sản phẩm của văn hóa đặc biệt của loài người.
Một trong những đặc tính quan trọng nhất cấu thành ngôn ngữ chính là tính biểu
tượng được thể hiện thông qua các ký hiệu” [38, tr.24-25]. Với quan niệm này, tác
giả đã thừa nhận “bên cạnh các ngôn ngữ thông thường như ngôn ngữ nói, ngôn ngữ
viết còn có thêm một loại ngôn ngữ quan trọng khác đó là ngôn ngữ biểu tượng”
[38, tr.25] được con người sử dụng trong hoạt động sống của mình. Và “ngôn ngữ
biểu tượng là một thành tố văn hóa do con người tạo ra để sử dụng như một loại
công cụ thông tin và giao tiếp có tính tượng trưng... Tìm hiểu ngôn ngữ biểu tượng
cũng chính là tìm hiểu đời sống văn hóa và xã hội thông qua các biểu tượng văn hóa
do họ tạo ra... Nghiên cứu biểu tượng là khoa học có chức năng sử

8


dụng ngôn ngữ biểu tượng để giải mã các thành tố văn hóa được sản sinh trong đời
sống của con người” [38, tr.27].
Theo Iu. M. Lotman, biểu tượng là một ký hiệu văn hóa. Ông khẳng định “văn
hóa là hiện tượng ký hiệu học. Mọi hiện tượng văn hóa đều có đặc điểm ký hiệu
học. Cho nên, đối tượng của ký hiệu học chỉ có thể là văn hóa, và hướng tiếp cận
văn hóa chỉ có thể là ký hiệu học” [66, tr.9]. Biểu tượng sẽ phải được soi xét dưới
góc độ ký hiệu học. “Biểu tượng được xác định như một ký hiệu, mà ý nghĩa của nó
là một ký hiệu thuộc loại này hay loại khác… Hoặc biểu tượng là sự biểu đạt ký
hiệu cho một bản chất phi ký hiệu cao nhất và trừu tượng”. Không dễ gì định nghĩa
biểu tượng, quan niệm về biểu tượng “phải xuất phát từ các quan niệm trực giác do
kinh nghiệm văn hóa mang lại rồi cố gắng khái quát tiếp theo” [66, tr.218-219]. Lý
thuyết ký hiệu học văn hóa của Lotman lấy văn bản làm trung tâm. Ở bình diện biểu
hiện, biểu tượng là một văn bản. “Tức là nó có một ý nghĩa thống nhất đóng kín bên
trong nó”. Khi đó, “văn bản là thông tin chí ít hai lần mã hóa, thông tin được chuyển

tải bằng một ngôn ngữ, là một hiện tượng đa ngữ…Văn bản không phải là một cái
bọc đựng một nghĩa thụ động, mà là tổ chức “truyền đạt”, “lưu giữ” và sáng tạo
thông tin” [66, tr.11].
Biểu tượng thuộc về văn hóa. Giá trị của biểu tượng không hề bất định mà có
sự dịch chuyển, bổ sung khi nó dịch chuyển từ nền văn hóa này sang nền văn hóa
khác, từ các thiết chế xã hội này sang thiết chế xã hội khác. Tuy nhiên, giá trị ban
đầu vẫn tồn tại cùng nhận thức của xã hội để khi tư duy xã hội vận động thì giá trị
ấy được bổ sung, thêm mới phù hợp. Nghiên cứu biểu tượng trên thế giới vì thế đi
vào chiều sâu tri nhận, đó là thế giới biểu tượng của huyền thoại, chiêm mộng,
phong tục, cử chỉ, dạng thể, các hình, màu sắc, con số… mà hai tác giả Jean
Chevalier và Alain Gheerbrant viết nên cuốn Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới,
hay đó thế giới bí ẩn thuộc về tướng số, kinh dịch, phong thuỷ của xã hội phương
Đông, là thế giới linh thú, con vật trong Thánh kinh của Thiên chúa giáo - Cựu Ước
và Tân Ước “không chỉ là vật thể của hiện thực mà còn là biểu trưng của thế giới
tâm thần” được soi sáng dưới lý thuyết phân tâm học về cổ mẫu.

9


Nhìn chung, vấn đề nghiên cứu biểu tượng trên thế giới xoay quanh trục nguồn
gốc biểu tượng, quá trình hình thành biểu tượng hoặc biểu tượng như là một phương
tiện giao tiếp văn hoá, là đơn vị ngôn ngữ nghệ thuật… Vấn đề nghiên cứu biểu tượng
trên thế giới không đơn giản dừng lại ở những công trình mà chúng tôi đề cập. Vẫn còn
nhiều quan điểm về lý thuyết biểu tượng mà chúng tôi chưa thể cập nhật bởi nhiều lý
do chủ quan và khách quan. Song thiết nghĩ, những khái quát trên đây cũng nói lên
được trọng tâm của các khuynh hướng tiếp cận biểu tượng trên thế giới.

1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam
Biểu tượng không còn là đối tượng nghiên cứu mới ở Việt Nam, nhưng những
nghiên cứu về biểu tượng ở nước ta trong suốt thời gian dài vừa qua vẫn còn bỏ ngỏ

nhiều khoảng trống lí luận chuyên sâu, mang tính đặc thù trên từng lĩnh vực đời sống
xã hội. Tình hình nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam chủ yếu diễn ra theo hai xu hướng
chính là dịch thuật các công trình nghiên cứu nước ngoài và vận dụng lí thuyết đã được
dịch thuật để nghiên cứu biểu tượng theo từng lĩnh vực đời sống xã hội.

Về mặt dịch thuật và giới thiệu lý thuyết, có thể kể đến một số công trình đáng
chú ý sau đây: 1/ từ phân tâm học, chủ yếu là tác phẩm của Sigmund Freud, Carl
Jung như: Vật tổ và cấm kỵ (Đoàn Văn Chúc dịch), Nguồn gốc của văn hoá và tôn
giáo (Lương Văn Kế dịch), Các bài viết về giấc mơ và giải thích giấc mơ (Nguỵ
Hữu Tâm dịch), Thăm dò tiềm thức (Vũ Đình Lưu dịch), Jung đã thực sự nói gì
(Bùi Lưu Phi Khanh dịch), Phân tâm học nhập môn (Nguyễn Xuân Hiến dịch),
Phân tâm học về tính dục (Thụ Nhân dịch); các ấn phẩm đề cập đến biểu tượng
trong mối quan hệ với văn hoá tâm linh, nghệ thuật, tình yêu, tính cách dân tộc do
Đỗ Lai Thúy và các cộng sự thực hiện; 2/ từ ngôn ngữ, ký hiệu học văn hóa với Ký
hiệu học văn hóa của Iu. M. Lotman (1922-1993) do nhóm tác giả Lã Nguyên, Đỗ
Hải Phong, Trần Đình Sử thực hiện. Đây là một công trình khoa học tuyển tập các
nghiên cứu đặc sắc, những tư tưởng nòng cốt làm nên lý thuyết ký hiệu học văn hóa
của nhà nghiên cứu văn học, nhà văn hóa học và ký hiệu học nổi tiếng thế giới, một
trong số học giả hàng đầu thế kỷ XX. Cùng hướng dịch thuật, nghiên cứu trên đây
là công trình Từ kí hiệu đến biểu tượng (Trịnh Bá Đĩnh chủ biên) đã nghiên cứu và
dịch tác phẩm của R. Barthes, R. Jakobson, W. Morris, D. Chandler…

10


Bên cạnh đó, đáng chú ý là các nghiên cứu của Đoàn Văn Chúc, Đinh Hồng
Hải, Trần Đình Sử, Trần Lê Bảo, Lê Nguyên Cẩn, … đã từng bước làm đầy đặn hơn
hướng nghiên cứu biểu tượng văn hóa và văn học ở Việt Nam.
Chúng tôi coi những công trình trên đây có ý nghĩa tạo lập cơ sở lý thuyết và
thực tiễn cho nghiên cứu Biểu tượng học ở Việt Nam. Đây cũng là các công trình lý

luận quan trọng giúp chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án.
Việc nghiên cứu biểu tượng trong văn học cũng là hướng nghiên cứu được nhiều
nhà nghiên cứu chú ý trong thời gian qua. Từ các bài báo nghiên cứu biểu tượng trong
thơ ca, tiểu thuyết như Biểu tượng thơ ca, (Bùi Công Hùng), Vấn đề nghiên cứu biểu
tượng thơ ca dân gian (Phạm Thu Yến), Quan hệ giữa tôn giáo và thơ ca trong thế giới
biểu tượng (Nguyễn Văn Hạnh), Một số biểu tượng mang tâm thức Mẫu trong “Đội
gạo lên chùa” của Nguyễn Xuân Khánh (Hoàng Thị Huế)… đến các công trình, luận án
chuyên sâu như: Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt (Nguyễn
Thị Ngọc Điệp), Thi pháp ca dao (Nguyễn Xuân Kính), Từ kí hiệu đến biểu tượng
(Trịnh Bá Đĩnh chủ biên), Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa (Lê Nguyên Cẩn), Thơ
Hoàng Cầm từ góc nhìn văn hóa (Lương Minh Chung), Biểu tượng trong thơ kháng
chiến Việt Nam (Trần Thị Hường)… đã khám phá chiều sâu tác phẩm từ góc nhìn văn
hoá, tư tưởng. Các tác giả đã khảo sát biểu tượng rồi tiến hành giải mã các lớp trầm tích
văn hoá, tư tưởng trên các biểu tượng trong tác phẩm qua đó tìm thấy dấu ấn văn hoá
trong tư duy nghệ thuật của mỗi nhà văn.

Biểu tượng rất khó tiếp cận vì tính phức tạp của nó. Ngay cả khi được trang bị
kiến thức về nó, chúng ta cũng không dễ dàng cảm thức đầy đủ giá trị mà nó biểu
đạt. Điều may mắn cho tôi khi thực hiện luận án này là tiếp cận được nhiều công
trình nghiên cứu về biểu tượng trên thế giới bằng tiếng Việt nhờ vào tâm huyết và trí
tuệ của các nhà nghiên cứu, dịch giả Việt Nam. Đấy là nguồn lí thuyết căn bản để
hiểu thế nào là biểu tượng, phân biệt được biểu tượng với các dạng thức tương cận
nó, cũng như xác lập các khuynh hướng tiếp cận biểu tượng. Nhìn chung, nghiên
cứu biểu tượng ở Việt Nam chưa hướng đến xây dựng hệ thống lí luận đặc thù, chưa
thành lập được khoa nghiên cứu biểu tượng độc lập như các chuyên ngành khoa học
khác. Tuy vậy, hoạt động nghiên cứu cũng đạt được kết quả đáng trân

11



trọng. Từ chỗ nghiên cứu biểu tượng như là thuộc tính cơ bản của văn hoá học, đến
nay, nghiên cứu biểu tượng ở Việt Nam diễn ra trên cả diện rộng và chiều sâu ở tất
cả các lĩnh vực xã hội, qua đó thấy được ý nghĩa to lớn của thế giới biểu tượng trong
đời sống xã hội.
1.1.2. Nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
1.1.2.1. Nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trước 1986
Trong nền văn học Việt Nam, tiểu thuyết lịch sử xuất hiện khá sớm với Hoan

Châu ký, hay còn có tên là Thiên Nam liệt truyện, do tác giả Nguyễn Cảnh thị (tức
người họ Nguyễn Cảnh), biên soạn vào khoảng niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1705) đời
Lê, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái. Tiếp đến, nền văn học hiện đại có
Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu, Tiếng sấm đêm đông, Lê Đại Hành, Hai Bà
Trưng đánh giặc… của Nguyễn Tử Siêu, đặc biệt là nhiều tác phẩm của Nguyễn Triệu
Luật như Hòm đựng người, Bà chúa chè, Chúa Trịnh Khải, Loạn kiêu binh, Rắn báo
oan… đã làm nên dòng văn học riêng trong dòng văn học chung- văn học hiện đại Việt
Nam. Tuy nhiên, trước 1986, những công trình nghiên cứu về dòng văn học này không
nhiều, chỉ là những bài viết ngắn, nhỏ lẻ đăng trên các tạp chí, thảng hoặc xuất hiện
một số nhận định khái quát chung nhân đọc tác phẩm như trường hợp tác giả Triêu
Dương trong bài Mấy ý kiến về tiểu thuyết lịch sử nhân đọc cuốn “Quận He khởi
nghĩa”, đăng trên Tạp chí Văn học số 8/1964 có đề cập đến chủ đề, nhân vật, phương
thức tái hiện các sự kiện lịch sử. Hay Tân Dân Tử viết lời giới thiệu tiểu thuyết Gia
Long tẩu quốc có bàn đến lịch sử đại lược và tiểu thuyết lịch sử với điểm khác nhau cơ
bản là “Lịch sử đại lược có nói đến nhân vật xuyên sơn, quốc gia hưng phế mà không tả
diện mạo, tính tình ngôn ngữ, không tả tính tình phong cảnh, còn lịch sử tiểu thuyết thì
nói đủ các nhân vật xuyên sơn, tính tình ngôn ngữ, tả tới hỉ nộ, ái ố, trí não tinh thần, tả
tới phong cảnh, cỏ hoa, nhà cửa, đài các, nhành chim lá gió, nhạc suối kèn ve làm cho
độc giả…dễ cảm xúc vào lòng, dễ quan niệm vào trí” [57, tr.Pl10]. Nguyễn Triệu Luật
trong lời mở đầu tiểu thuyết Hòm đựng người, và lời tựa tác phẩm Ngọc đường Trường
Thi… có bàn đến “Viết lịch sử tiểu thuyết (Roman historique) không cần theo phép của
sử học, không cần có sự thật. Tác giả chỉ tưởng tượng ra một chuyện “có thể có” ở một

thời đại,

12


rồi đem chuyện ấy lồng vào khung thời đại ấy. Mục đích là lấy chuyện không đâu
mà làm sống lại một thời đại” [90, tr.5]; “Triệu Luật phỏng theo lối ấy mà viết cuốn
lịch sử tiểu thuyết này. Phần chân sử ở trong tự cũng như có giá mà phần lông bông
thêm thắt may ra cũng có giá. Tưởng đó là lối viết lịch sử tiểu thuyết nên cho nhập
cảng vào địa hạt văn chương ta nên đem ra thử lần đầu” [90, tr.302] … Nhìn chung
có rất nhiều phát biểu về tiểu thuyết lịch sử song những phát biểu ấy chưa thể đạt
chiều sâu lí luận cho một thể tài văn học.
Đáng kể nhất trong các công trình nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
trước 1986 là công trình nghiên cứu Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại của Phan Cự Đệ.
Trong công trình nghiên cứu này, tác giả xác định tiểu thuyết lịch sử là một khuynh
hướng sáng tác. Đồng thời với việc điểm lượt những tác giả, tác phẩm tiêu biểu, nhà
nghiên cứu Phan Cự Đệ đã nêu ra những nhận địch thoả đáng về tiểu thuyết lịch sử
với các đặc điểm riêng của khuynh hướng sáng tác này trước 1930 và sau đó. Theo
ông, “Trong thời kỳ 1900 - 1930, tiểu thuyết lịch sử là một hình thái mới của văn
học yêu nước và cách mạng. Tiểu thuyết lịch sử viết về quá khứ của dân tộc nhưng
lại mang một ý nghĩa rất hiện đại… những tác phẩm này đồng thời lại là một loại
tiểu thuyết lịch sử có luận đề, luận đề về cách mạng Việt Nam” [26, tr.47]. Ưu điểm
của các tác giả tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này là “họ đã phát huy vai trò của hư cấu
sáng tạo, không hoàn toàn nô lệ vào tài liệu lịch sử” nhưng nhược điểm là “họ chưa
có một thái độ nghiên cứu lịch sử thật nghiêm túc, đôi khi họ vi phạm tính chân
thực lịch sử nghiêm trọng” [26, tr.51]. Trên nguyên tắc sáng tác của Gôgôn,
L.Tônxtôi, Quách Mạt Nhược, ông không tán thành “cái bệnh hiện đại hoá lịch sử,
xem lịch sử chỉ là một cái đinh để tôi treo các bức hoạ của tôi” [26, tr.51].
Nhìn chung, trong bối cảnh Việt Nam tập trung nhân tài vật lực cho những
cuộc trường chinh vĩ đại, kháng chiến kiến quốc và hàn gắn vết thương chiến tranh

sau khi đất nước được thống nhất… đời sống văn học đã cuộn xoáy theo hiện thực
ấy. Các nhà văn, các nhà nghiên cứu, phê bình, dịch thuật không thể đứng ngoài
cuộc đời dân tộc mà sống cho riêng mình. Trên diện rộng và sâu, đời sống văn học
chỉ xoay quanh đề tài chiến tranh nhân dân, kiến thiết đất nước, phản ánh kịp thời
hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Về mặt ý nghĩa lịch sử tư tưởng xã hội, đời

13


sống văn học thời kỳ này đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cổ vũ, “minh hoạ”,
nhưng ý nghĩa văn học, lí luận và phê bình đúng với bản chất nghệ thuật vẫn còn
nhiều khoảng trống cần được hoàn thiện trong tiến trình phát triển của văn học nghệ
thuật dân tộc qua các chặng đường tiếp theo.
1.1.2.2. Nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986
Từ sau 1986, hoạt động nghiên cứu văn học nói chung, nghiên cứu tiểu thuyết
lịch sử nói riêng đã có bước chuyển biến tích cực. Cánh cửa giao lưu văn hoá được
rộng mở, tiếng nói dân chủ trong đời sống văn học ngày càng được chú trọng là tiền
đề để phong trào dịch thuật, sáng tác và nghiên cứu phát triển. Những quan điểm có
tính nguyên tắc sáng tác văn học, trong đó có thể tài tiểu thuyết lịch sử của các nhà
nghiên cứu, các tác giả tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng trên thế giới như Bakhtin,
Biêlinxki, Kundera, Lukács, Hella S. Haasse, Lion Feuchtwanger… được dịch
thuật, giới thiệu đã góp phần tạo nên sự chuyển biến tích cực ấy.
Trên lĩnh vực nghiên cứu, phê bình, nhiều hội thảo chuyên đề về tiểu thuyết
lịch sử diễn ra. Cuối năm 2012, Hội đồng lí luận - phê bình văn học, nghệ thuật
trung ương tổ chức Hội thảo khoa học “Sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề tài lịch
sử”, Viện Văn học và Nhà xuất bản Phụ nữ tổ chức toạ đàm về tiểu thuyết Nguyễn
Xuân Khánh. Những tham luận tại toạ đàm được tập hợp thành công trình Lịch sử
và văn hoá, cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Xuân Khánh, cũng đã mở ra cách tiếp
cận đa chiều về tiểu thuyết lịch sử nói chung, tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân
Khánh nói riêng, trên cả phương diện nội dung lẫn phương thức tự sự, đặc biệt là

những bàn luận sâu sắc về tư duy lịch sử và văn hóa trong tiểu thuyết của Nguyễn
Xuân Khánh. Ở đó, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng, Nguyễn Xuân Khánh là
người có tư tưởng riêng chứ không minh họa cho tư tưởng nào khác. Ông viết lịch
sử là để viết về con người, về những giá trị nhân văn trong đời sống… Cũng như
“Sông Đông êm đềm của Sôlôkhốp - miêu tả cái dữ dội của hiện thực từ một giai
đoạn lịch sử để cuối cùng cũng chỉ hướng tới khao khát nhân văn của nhân loại. Tác
giả Nguyễn Đăng Điệp cho rằng, “Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh là một diễn
ngôn về lịch sử và văn hóa… Diễn ngôn nghệ thuật của Nguyễn Xuân Khánh chính

14


là những suy tư của ông về lịch sử và văn hóa, trong đó, văn hóa là lõi cốt của lịch
sử, là chiều sâu quy định sự hằng tồn của quốc gia, dân tộc” [27, tr.8].
Vào năm 2019, Tạp chí Văn nghệ quân đội và Đại học Hồng Đức cũng tổ chức
hội thảo khoa học về nghiên cứu và giảng dạy tiểu thuyết lịch sử. Hội thảo đã thu
hút được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm về thể loại có phần “nhạy cảm” này.
Bên cạnh những toạ đàm còn có những bài viết, phê bình sâu sắc của các nhà
nghiên cứu, những phát biểu, trao đổi giàu chất lí luận của Nguyễn Xuân Khánh,
Nguyễn Mộng Giác, Nam Dao… về thể tài văn học này. Trong bài viết “Cần đổi
mới suy nghĩ về lịch sử và tiểu thuyết lịch sử”, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử kêu
gọi phải thay đổi nhận thức và đổi mới tư duy tự sự lịch sử, mạnh dạn thể nghiệm
lối viết hiện đại/hậu hiện đại. Nguyễn Văn Dân trong bài “Tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam đương đại - phác họa một số xu hướng chủ yếu” đã căn cứ vào mục đích và
quan niệm nghệ thuật của nhà văn để phân chia thành ba khuynh hướng: Tiểu thuyết
lịch sử chương hồi khách quan; Tiểu thuyết lịch sử giáo huấn; Tiểu thuyết lịch sử
luận giải.
Bên cạnh những công trình trên, còn có nhiều luận văn, luận án nghiên cứu về
tiểu thuyết lịch sử giai đoạn trước và sau 1986. Có những luận án liên quan đến vấn
đề nghiên cứu của tôi như luận án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu

thế kỷ XX đến 1945 - Diện mạo và đặc điểm của Bùi Văn Lợi, chuyên luận Tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam sau 1945 của Nguyễn Thị Tuyết Minh, luận án Tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam sau 1986 dưới góc nhìn tự sự học của Nguyễn Văn Hùng…
Luận án tiến sĩ của Bùi Văn Lợi bàn diện mạo và đặc điểm của tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến 1945. Với công trình này, tác giả Bùi
Văn Lợi đã sử dụng phương pháp văn học sử và phương pháp so sánh để làm sáng
tỏ những điều kiện lịch sử, xã hội - văn hóa với tư cách là động lực thúc đẩy sự ra
đời và phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945. Luận
án đã nêu ra và phân tích một số khái niệm như: Tiểu thuyết lịch sử là gì? Sự khác
biệt giữa tiểu thuyết lịch sử với các chủng loại tiểu thuyết xã hội, tiểu thuyết hiện
thực, tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết kiếm hiệp. Tiếp theo đó, tác giả nêu ra sự
khác nhau giữa cuốn tiểu thuyết lịch sử với một công trình khoa học lịch sử, giữa

15


một bên là hư cấu, dã sử với một bên là chính sử. Theo tác giả, đặc điểm nội dung
tiểu thuyết lịch sử thể hiện ở cảm hứng sáng tạo và quan niệm nghệ thuật về con
người. Trong đó, cảm hứng lịch sử và dân tộc, cảm hứng thế sự, cảm hứng đạo lý là
những cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này. Hình tượng con người
anh hùng cứu nước là hình tượng trung tâm. Song, có sự phát hiện độc đáo và chân
thực hơn là nét đời thường ở con người anh hùng phi thường. Đặc điểm kết cấu tiểu
thuyết lịch sử thời kỳ này chính là theo phong cách kết cấu truyền thống: Kết cấu
theo thời gian tuyến tính và kết cấu theo tuyến nhân vật chính diện/phản diện. Luận
án đã thâu tóm được đặc điểm và diện mạo của tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này nhưng
vấn đề biểu tượng chưa được đề cập.
Chuyên luận Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1945 của Nguyễn Thị Tuyết
Minh (do Nxb CAND ấn bản năm 2012) là bước “chạy tiếp sức” rất ý nghĩa, tiếp
nối công trình của Bùi Văn Lợi. Đối tượng tiểu thuyết lịch sử được khảo sát nối dài
từ 1945 đến nay đã không cho phép tác giả đi sâu nghiên cứu muôn mặt của đời

sống tiểu thuyết lịch sử. Chuyên luận đã tiến đến phân kỳ tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam từ 1945 đến nay thành hai giai đoạn: giai đoạn 1: từ 1945 đến 1985, giai đoạn
2: từ 1986 đến nay. Trên cơ sở phân kỳ tiểu thuyết lịch sử, tác giả nêu ra các đặc
điểm về nội dung và phương thức nghệ thuật ở mỗi giai đoạn. Ở giai đoạn đầu, nội
dung chủ yếu là yêu nước, nghệ thuật tự sự theo lối kết cấu chương hồi, kết cấu thời
gian, kết cấu nhân quả, ngôn từ nghệ thuật đậm chất biền ngẫu, nhiều điển tích, điển
cố. Ở giai đoạn tiếp theo, nội dung thế sự được nhà văn quan tâm khai thác nhiều
hơn và trở thành cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết lịch sử. Nghệ thuật tự sự có
những đổi mới đáng kể qua kết cấu, điểm nhìn, giọng điệu và mang âm hưởng tiểu
thuyết phương Tây, gắn với tâm thức văn hóa, tâm thế sáng tạo ở thời kỳ hội nhập.
Luận án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 dưới góc nhìn tự sự học của
Nguyễn Văn Hùng có thể xem là một công trình lí luận về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
thời kỳ đổi mới. Trên nền tảng lí thuyết tự sự học, tác giả đã khảo sát, phân tích và tìm
ra những đặc trưng quan trọng về điểm nhìn trần thuật, kết cấu tự sự, diễn ngôn tự sự
của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thời kì này. Đặc biệt, tác giả tìm thấy tính chất, dấu ấn
hậu hiện đại trong tư duy nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử thời kì mới.

16


Chúng ta có thể nhìn nhận tình hình nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
sau 1986 diễn ra sôi nổi hơn giai đoạn trước đó. Trọng tâm của các công trình
nghiên cứu vẫn xoay quanh mục đích của nhà văn khi chọn lịch sử làm đối tượng
nghệ thuật, vấn đề chính sử và dã sử, hư cấu nghệ thuật và bịa đặt lịch sử... những
vấn đề có tính chất lí luận về thể tài văn học này được nêu ra tranh biện và giải
quyết. Mặt khác, các nghiên cứu đã chú ý đến phương thức nghệ thuật tự sự, vấn đề
văn hoá thời đại lịch sử khi được phản ánh qua tác phẩm. Tuy nhiên, với thành tựu
vượt bậc của thể tài văn học này trong dòng chảy chung của văn học dân tộc thời kỳ
đương đại, những giới hạn nghiên cứu không hề đóng khép, mà cần sự khám phá
nhiều hơn. Đấy là cơ sở để chúng tôi tiếp tục kế thừa, phát huy và tìm tòi những

điểm mới mẻ về tiểu thuyết thuyết lịch sử đương đại Việt Nam.
1.2. Cơ sở lí thuyết và hướng tiếp cận của luận án
1.2.1. Vấn đề biểu tượng
1.2.1.1. Khái niệm biểu tượng
Hằng ngày, chúng ta sống trong thế giới biểu tượng và biểu tượng sống với
chúng ta. Nhưng, Biểu tượng là gì? Theo nhà ký hiệu học văn hóa Iu.Lotman thì “từ
biểu tượng (symbol) là một trong những từ nhiều nghĩa nhất trong hệ thống các
khoa học về ký hiệu”. Tác giả J.Chevalier lại cho rằng “Không định nghĩa được
biểu tượng. Tự bản chất của nó, phá vỡ các khuôn khổ định sẵn và tập hợp các thái
cực lại trong cùng một ý niệm. Nó giống như mũi tên bay mà không bay, đứng im
mà biến ảo, hiển nhiên mà lại không nắm bắt được… Nếu phải định nghĩa về nó,
chúng ta phải huy động hệ thống từ ngữ để gợi ra một hay nhiều nghĩa của một biểu
tượng; nên phải luôn nhớ rằng, các từ không thể diễn đạt được tất cả giá trị của biểu
tượng” [69, tr.14]. Dẫu các nhà nghiên cứu thừa nhận rất khó để nêu ra một định
nghĩa hoàn thiện về biểu tượng nhưng chúng ta vẫn tìm thấy điểm chung trong quan
niệm của họ về biểu tượng. Trong tiếng Hán, biểu tượng là một từ ghép “biểu” và
“tượng” lại với nhau, có nghĩa. Biểu có nghĩa là “bày ra”, “trình bày”, “dấu hiệu” để
người ta nhận biết một điều gì đó. Tượng có nghĩa là hình tượng. Biểu tượng là một
hình tượng nào đó được phô bày ra trở thành một dấu hiệu, ký hiệu tượng trưng,
nhằm để diễn đạt một ý nghĩa mang tính trừu tượng. Trong tiếng Anh, tiếng Pháp,

17


thuật ngữ symbol hay symbole được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng bắt nguồn từ
tiếng Hy Lạp cổ đại: Symbolon. Có nghĩa là ký hiệu (sign), dấu hiệu, tín hiệu. Từ
góc nhìn của một khoa học chuyên sưu tầm, tập trung phân tích các mặt hình và
nghĩa các từ của một ngôn ngữ, định nghĩa biểu tượng của các nhà từ điển học trên
thế giới có sự tương đồng nhau. Theo “Từ điển Latin” của Chertol T. Lewis,
“symbol/symbolon là ký hiệu, phù hiệu mà nó mang lại một cái gì khác, nhằm hiểu

thấu những gì đằng sau nó” [160, tr.141]; Theo tự điển “Le Petit Larousse” của
Claude Augé “biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh, con vật sống động hay đồ vật,
biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật hay một điều gì
đó” [17, tr.78]; Theo “Từ điển biểu tượng” của Liungman “những gì được gọi là
biểu tượng khi nó được một nhóm người đồng ý rằng nó có nhiều hơn một nghĩa là
đại diện cho chính bản thân nó” [38, tr.12]; Theo “Từ điển tiếng Việt” do giáo sư
Hoàng Phê chủ biên, biểu tượng có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất là hình ảnh tượng
trưng, nghĩa thứ hai là hình thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh
của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác động của sự vật vào giác quan đã chấm
dứt… Có thể thấy rằng, những định nghĩa về biểu tượng của các bộ từ điển có sự
tương đồng nhau khi xem biểu tượng là cái đại diện, biểu hiện cho cái gì đó, ngoài
nó và khác nó. Đó có thể là một vật, một hình ảnh, một hành vi, một nghi thức, nghi
lễ… có tính “ý niệm” được xã hội thừa nhận. Có thể coi biểu tượng gồm có hai
thành tố “Cái biểu đạt” và “Cái được biểu đạt”.
Các tác giả của công trình Từ kí hiệu đến biểu tượng đã khảo sát, phân tích
quan niệm của các nhà nhiên cứu về cái biểu đạt và cái được biểu đạt của biểu
tượng và đã chia thành ba nhóm quan niệm khác nhau. Với quan điểm cái được biểu
đạt vắng mặt và được hiểu trực tiếp từ cái biểu đạt, một số nhà nghiên cứu đã đồng
quy tất cả những cái gì thuộc các hình thức biểu hiện văn hóa tinh thần của loài
người như lễ hội, nghi thức, huyền thoại, tôn giáo, hình ảnh ẩn dụ nghệ thuật, khái
niệm và công thức khoa học, lịch sử, ngôn ngữ…đều là biểu tượng. Tiêu biểu cho
quan niệm này là E. Cassier và Ch. Pierce; Nhưng, nếu coi cái được biểu đạt phải
được hiểu gián tiếp, ngoài cái biểu đạt thì biểu tượng là một dạng ký hiệu đặc biệt,
nó gắn liền với nội dung tư tưởng nào đó, đến lượt nội dung đó lại dùng làm bình

18


diện cho một nội dung khác, thông thường là nội dung ở đây có giá trị văn hóa cao
hơn. “Nó làm trung hòa ý nghĩa thứ nhất, biến một ký hiệu chỉ có chức năng thông

tin thuần túy thành sự biểu đạt văn hóa” [31, tr.27]. Những đại diện tiêu biểu cho
quan niệm này có thể kể đến Iu. Lotman, Todorov và các nhà phân tâm học S.
Freund, Carl Jung…; Loại ý kiến thứ ba coi biểu tượng là một loại hiện tượng
thiêng liêng, thần bí, một thông điệp của đấng tối cao gửi đến con người.
Như vậy, trong hoạt động nghiên cứu, những luận giải về mối liên hệ giữa
hình thức và nội dung của biểu tượng, quan niệm về hai thành tố cái biểu đạt và cái
được biểu đạt của biểu tượng từ các nhà khoa học không hoàn toàn trùng khớp
nhau, điều đó đã làm nên tính phong phú, đa dạng về biểu tượng. Biểu tượng không
đơn giản là khái niệm dùng để gọi tên, định danh sự vật, hiện tượng với nghĩa cố
định, bất biến; không thể là sản phẩm của ý thức cá nhân nào đó… Biểu tượng
thuộc về văn hoá mang tâm thức cộng đồng, có tính chất cổ xưa, huyền bí, ý nghĩa
của nó đã vượt lên trên vỏ vật chất ngôn ngữ mà nó đa mang, hàm ẩn những thông
điệp văn hoá tinh thần của nhân loại.
1.2.1.2. Phân biệt biểu tượng với một số dạng thức tương cận
Theo Đoàn Văn Chúc, biểu tượng - một mặt dùng chỉ định chung tất cả các
dạng thức biểu tượng, tức là mọi dạng thức dùng hình này để tỏ nghĩa nọ, mặt khác
bản thân nó là sản phẩm mang tâm thức văn hóa cộng đồng diễn ra qua đồng đại và
lịch đại chứ không phải là sự quy ước giản đơn của cộng đồng hình thành nên nó.
Mỗi biểu tượng đều có ý nghĩa riêng tùy thuộc vào thời gian và không gian của nó,
nói một cách khác, ý nghĩa của mỗi biểu tượng phụ thuộc vào nền văn hóa sản sinh
ra nó, phụ thuộc vào bối cảnh và thời điểm mà nó ra đời, kể cả tâm thức sáng tạo và
tiếp nhận. Và tất nhiên, mục đích sử dụng của nó cũng thay đổi tùy thuộc vào các
yếu tố trên. Chính điều này làm nên sự khác biệt cơ bản giữa biểu tượng với các
dạng thức biểu tượng có tính ổn định về nghĩa mà chúng tôi tham vấn từ các công
trình nghiên cứu sẽ trình bày dưới đây.
Biểu trưng: Là bày ra, trưng ra cho nhận thấy một cái gì đó. Vật được chọn
làm biểu trưng có quan hệ nghĩa “gần gũi hay chồng khớp” với giá trị được diễn
đạt. Ví như cái cân có nghĩa là cân bằng, công minh được chọn làm biểu trưng cho

19



công lý…Nhưng với biểu tượng ý nghĩa được suy ra từ vật được chọn làm biểu
tượng luôn bị khúc xạ, mơ hồ.
Ký hiệu: Ký hiệu được hiểu theo hai nghĩa: (1) - dấu hiệu vật chất đơn giản do
quan hệ tự nhiên hoặc do quy ước, được coi như thay cho một thực tế phức tạp hơn
(chữ viết, ký hiệu hóa học); (2) - cái có thể nhận biết trực tiếp, cho phép kết luận về
sự tồn tại hoặc về tính chân thực với một cái khác liên hệ với nó (chữ cái).
Theo các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học thì “Ký hiệu tức là cái vật
chất có thể cảm biết được mà người phát sử dụng để kích thích đối phương tiếp
nhận nhằm truyền đạt một cách quy ước về một vật hoặc một tình huống vắng mặt
hoặc chưa xuất hiện… Phương diện có thể cảm biết ấy là cái biểu đạt, cái vắng mặt
đó là cái được biểu đạt” [117, tr.164]. Như vậy, ký hiệu là những hình ảnh vật thể
vật chất, hữu hình do sự tồn tại tự nhiên hoặc do con người sáng tạo ra dùng để
nhận biết một sự tồn tại, một liên hệ nào đó bên ngoài nó. Trong khi đó, biểu tượng
không chỉ là hình ảnh vật chất cụ thể mà còn có cả cái phi vật thể, cái được biểu đạt
không chỉ là cái hiển hiện mà còn có cả cái “ẩn nấu”, “hình dung”.
Dấu hiệu: Dấu hiệu là một từ rất thông dụng trong đời sống hằng ngày. Đó là
dấu để làm hiệu, báo hiệu một cái gì đó sắp sửa xảy ra. Vật làm “dấu” cũng đơn
giản là hình ảnh, cử chỉ, màu sắc …có tính ước lệ. Chẳng hạn quan niệm của người
Việt chim én - dấu hiệu mùa xuân, hoa cúc - dấu hiệu mùa thu, hoa mai - dấu hiệu
mùa xuân, người phụ nữ tóc búi trên đỉnh đầu - đã có chồng…
Tín hiệu: Tín hiệu là một từ có hàm nghĩa cố định, bất biến và không thay thế cho
vật nào. Trong mọi trường hợp tín hiệu không thuộc về lĩnh vực tư tưởng, chỉ thuộc về
thế giới của những đồ vật kỹ thuật thuần túy. Ví như: tín hiệu đèn giao thông.

Ẩn dụ: Là phương thức chuyển nghĩa của cái này cho cái kia. Mối quan hệ
giữa vật/ cái biểu đạt và cái được biểu đạt dựa trên cơ sở tương đồng nhau. Ẩn dụ có
tính linh hoạt, thiếu bền vững vì gắn liền với hoàn cảnh và mục đích sử dụng.
Chúng ta có thể thấy “thuyền” trong ca dao chỉ đối tượng người con trai trong quan

hệ tình yêu lứa đôi: “Thuyền về có nhớ bến chăng, Bến thì một dạ khăng khăng đợi
thuyền”. Nhưng khi Tố Hữu sử dụng trong trường ca Nước non ngàn dặm thì
“thuyền” ở đây là con thuyền cách mạng. Như vậy, nghĩa ẩn dụ là nghĩa định danh

20


sự vật hiện tượng trong khi nghĩa biểu tượng là trừu tượng, giá trị không nhằm định
danh cho sự vắng mặt nào cả.
Phúng dụ: Là biện pháp tu tù nghệ thuật thường được sử dụng trong các tác
phẩm văn học. “Là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta dùng hình ảnh cụ thể,
sinh động để biểu thị một ý niệm về triết lý nhân sinh hay một bài học luân lý đạo
đức, nhằm làm cho sự trình bày đó trở nên sâu sắc, thâm thúy” [81, tr.65]. Đó là sự
kết hợp của các hình tượng, hình ảnh với nhau trong một cấu trúc chặt chẽ hoàn
chỉnh nhằm liên tưởng hướng đến một ý nghĩa trừu tượng. Hình ảnh phúng dụ có
hai mặt nghĩa: nghĩa “trực hiện” và nghĩa “ngụ ý”. Nghĩa “trực hiện” là phương
tiện, nghĩa “ngụ ý” là mục đích.
Vẫn còn nhiều dạng thức khác tương cận biểu tượng mà con người sử dụng
trong hoạt động giao tiếp hằng ngày nhằm hướng đến sự hiểu, song, chúng tôi chỉ
nêu ra một số dạng thức cơ bản, thường gặp đồng thời phân tích sự khác biệt nhau
giữa chúng với biểu tượng để qua đó làm rõ hơn về biểu tượng, củng cố thêm về
cách thức lập luận khi nghiên cứu, phân tích đối tượng của luận án.
1.2.1.3. Hình tượng nghệ thuật và biểu tượng nghệ thuật
Hình tượng nghệ thuật là tế bào trung tâm của tác phẩm. Đó là “các khách thể
đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong tác phẩm nghệ
thuật” [117, tr.147]. Nó vừa là thế giới hiện thực được nhà văn tái hiện vừa là thế
giới mới, sản phẩm nghệ thuật biểu hiện toàn bộ quan điểm, tư tưởng, tình cảm, thái
độ, vốn sống của nhà văn trước thực tại xã hội. Trong tác phẩm nghệ thuật, không
có hình tượng nghệ thuật thì không có cơ sở để tạo nên nội dung và hình thức của
tác phẩm nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học có thể tồn tại

qua chất liệu vật chất như một đồ vật, một phong cảnh thiên nhiên… cũng có thể tồn
tại dưới dạng tinh thần, phi vật thể như một sự kiện xã hội, một lối sống… được cảm
nhận. Thông thường trong tác phẩm văn học, hình tượng nghệ thuật là con người
(con người cá thể: chị Dậu, Chí Phèo, Huấn Cao…; con người tập thể, đại diện:
Nhân dân, Tổ quốc, Bà má Hậu Giang, Người con gái Việt Nam, Dáng đứng Việt
Nam, Mẹ Tơm, Mẹ Suốt…) do nhà văn tái hiện hoặc sáng tạo ra. Đặc điểm cơ bản
của hình tượng nghệ thuật là “vừa có giá trị thể hiện những nét cụ thể, cá biệt

21


×