Tải bản đầy đủ (.pdf) (767 trang)

Con đường thẳng tới chứng ngộ và tìm hiểu Phật giáo nguyên thủy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.87 MB, 767 trang )


Phiên bản cập nhật: 29-01-2019


PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

Satipaṭṭhāna
Con Đường Thẳng Tới Chứng Ngộ
&
Nghiên Cứu Đối Chiếu với các bộ A Hàm

The Direct Path to Realization &

A Comparative Study of the Majjhima Nikāya

Bhikkhu Anālayo
Nguyễn Văn Ngân dịch
PL 2561 - 2017

NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC



Cùng dịch giả
Đã xuất bản:
Abhidhamma Áp Dụng (2002)
Giải Thoát Bằng Năm Tập Hợp (2003)
Phân Tích (2005)
Đạo Vô Ngại Giải (2006); tái bản (2015)
Những Ngày Cuối Cùng Của Đức Phật (2016)
© Người dịch giữ bản quyền


(ISBN) 978-604-89-1109-6


Acknowledgements
My gratitude and thanks are offered to:
Bhikkhu Anālayo for granting permission to translate
his works into Vietnamese; Bhikkhunī Dhammadinnā
for having an important role in this matter.
Carol Belair for her language eloquence.
Gord Deyo and Kerry Walsh for their suggestions.
Ronald Singh for his tech savvy.


Lời Cảm Tạ
Con xin chân thành cảm tạ đóng góp ý kiến quý báu
của Sư Cô Tâm Tâm. Bất cứ sai sót nào trong sách
này hoàn toàn do hiểu biết không trọn vẹn của riêng
tôi. Mọi ý kiến đóng góp, xin vui lòng gửi về:

Xin chân thành cảm ơn Tiến Sĩ Bình Anson đã hoan
hỷ hỗ trợ hoằng pháp bằng cách phổ biến các dịch
phẩm của tôi trên mạng và kêu gọi hùn phước ấn tống
cuốn này.
Xin cảm ơn các bạn hữu ở Sài Gòn đã nhiệt tình giúp
đỡ. Tôi xin cảm ơn công sức của Phương Yến đã làm
bìa, sốt sắng và nhẫn nại trình bày, sửa chữa bản in.
Xin chân thành cảm ơn tất cả các nhà hảo tâm hỗ trợ
hùn phước ấn tống quyển này.
Cover photo: Ngan Van Nguyen
Book cover design: Ronald Singh & Phương Yến



Kính gửi:

Quý Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni
Quý đạo hữu, những người học Phật
chân thành tìm đường giải thoát
Cậu Mợ

Nguyện đem công đức dịch kinh này ngưỡng mong
Phật Pháp Chân Chánh hưng thịnh, tồn tại lâu dài
khắp nơi trên thế giới.
Ngưỡng mong những người tìm kiếm giải thoát nhận
ra được và dẹp bỏ tà kiến cùng với những lối tu tập
lệch lạc.


MỤC LỤC
Lời nói đầu ...................................................................... 14
Chú thích cho lời nói đầu .............................................. 23
Giới thiệu......................................................................... 27
Bản dịch Kinh Satipaṭṭhāna ........................................... 30
I. KHÍA CẠNH TỔNG QUÁT CỦA
CON ĐƯỜNG THẲNG.................................................. 48
I.1. NHÌN KHÁI QUÁT VỀ PHẨM SATIPAṬṬHĀNA...... 48
I.2. KHẢO SÁT VỀ SATIPAṬṬHĀNAS ......................... 57
I.3. SỰ THÍCH HỢP CỦA MỖI SATIPAṬṬHĀNA
CHO CHỨNG NGỘ ............................................... 61
I.4. ĐẶC TÍNH CỦA MỖI SATIPAṬṬHĀNA ................... 65
I.5. TẬP NGỮ “CON ĐƯỜNG THẲNG” ....................... 71

I.6. THUẬT NGỮ SATIPAṬṬHĀNA .............................. 76
II. PHẦN “ĐỊNH NGHĨA” CỦA KINH SATIPAṬṬHĀNA .. 83
II.1. QUÁN .................................................................... 84
II.2. Ý NGHĨA CỦA NHIỆT TÂM (ĀTĀPĪ) ..................... 90
II.3. HIỂU RÕ RÀNG TƯỜNG TẬN
(SAMPAJĀNA: TỈNH GIÁC) ................................ 103
II.4. QUÁN NIỆM VÀ TRÍ HIỂU BIẾT RÕ RÀNG
TƯỜNG TẬN ...................................................... 108


III. SATI ......................................................................... 113
III.1. KHẢO HƯỚNG PHẬT GIÁO
THUỞ BAN SƠ VỀ TRÍ .................................... 113
III.2. SATI .................................................................... 118
III.3. VAI TRÒ VÀ VỊ TRÍ CỦA SATI ........................... 130
III.4. HÌNH TƯỢNG SATI ........................................... 137
III.5. ĐẶC TÍNH VÀ NHIỆM VỤ CỦA SATI ................. 147
III.6. SATI VÀ ĐỊNH (SAMĀDHI) ............................... 156
IV. SỰ THÍCH HỢP CỦA ĐỊNH ..................................... 168
IV.1. KHÔNG HAM HỐ VÀ
KHÔNG CÒN BẤT MÃN .................................... 168
IV.2. ĐỊNH, CHÁNH ĐỊNH, VÀ NHẬP ĐỊNH
(JHĀNA) ............................................................. 180
IV.3. NHẬP ĐỊNH VÀ CHỨNG NGỘ .......................... 198
IV.4. ĐÓNG GÓP CỦA NHẬP ĐỊNH
VÀO SỰ PHÁT TRIỂN TUỆ QUÁN ................... 213
IV.5. TĨNH LẶNG VÀ QUÁN THỰC TÁNH ................. 221
V. “ĐIỆP KHÚC” TRONG SATIPAṬṬHĀNA ................. 231
V.1. QUÁN BÊN TRONG VÀ BÊN NGOÀI ................. 236
V.2. NHỮNG GIẢI THÍCH KHÁC

VỀ BÊN TRONG VÀ BÊN NGOÀI ...................... 245
V.3. VÔ THƯỜNG ...................................................... 255
V.4. SANH KHỞI DO TÙY THUỘC
(PAṬICCA SAMUPPĀDA, DUYÊN KHỞI) ......... 268
V.5. NGUYÊN LÝ SANH KHỞI DO TÙY THUỘC
VÀ ỨNG DỤNG THỰC TIỄN CỦA NÓ ............... 276
V.6. THUẦN NHẬN BIẾT VÀ KHÔNG BÁM NÍU
VÀO CÁI GÌ CẢ .................................................. 285


VI. THÂN ........................................................................ 296
VI.1. QUÁN THÂN ...................................................... 296
VI.2. MỤC ĐÍCH VÀ LỢI ÍCH CỦA QUÁN THÂN ...... 303
VI.3. NHẬN BIẾT RÕ RÀNG HƠI THỞ...................... 313
VI.4. PHẨM ĀNĀPĀNASATI SUTTA .......................... 334
VI.5. CÁC TƯ THẾ (OAI NGHI) VÀ ĐỘNG TÁC ........ 342
VI.6. CÁC BỘ PHẬN CỦA CƠ THỂ
VÀ CÁC YẾU TỐ CHÍNH ................................... 363
VI.7. TỬ THI TAN RỮA VÀ QUÁN CÁI CHẾT ........... 379
VII. CẢM GIÁC (THỌ) .................................................... 386
VII.1. QUÁN CẢM GIÁC ............................................ 386
VII.2. CẢM GIÁC VÀ QUAN ĐIỂM (DIṬṬHI) ............. 397
VII.3. CẢM GIÁC DỄ CHỊU VÀ
SỰ QUAN TRỌNG CỦA HOAN HỈ .................. 405
VII.4. CẢM GIÁC KHÓ CHỊU ...................................... 418
VII.5. CẢM GIÁC TRUNG TÍNH ................................ 425
VIII. TÂM ........................................................................ 430
VIII.1. QUÁN TÂM ...................................................... 430
VIII.2. NHẬN BIẾT RÕ RỆT NHƯNG KHÔNG PHẢN
ỨNG LẠI TRẠNG THÁI TÂM CỦA MÌNH ........ 433

VIII.3. BỐN TRẠNG THÁI TÂM “PHÀM TỤC” ............ 438
VIII.4. BỐN TÂM “TĂNG THƯỢNG” ......................... 442
IX. DHAMMAS: CÁC CHƯỚNG NGẠI (TRIỀN CÁI) .... 449
IX.1. QUÁN DHAMMAS (CÁC PHÁP) ...................... 449
IX.2. QUÁN NĂM CHƯỚNG NGẠI ............................ 459
IX.3. SỰ QUAN TRỌNG CỦA VIỆC NHẬN RA
CÁC CHƯỚNG NGẠI ẤY ................................. 468
IX.4. ĐIỀU KIỆN ĐỂ CHƯỚNG NGẠI CÓ MẶT
HAY VẮNG MẶT ................................................ 476


X. DHAMMAS: CÁC TẬP HỢP (UẨN) .......................... 496
X.1. NĂM TẬP HỢP ................................................... 496
X.2. BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA LỜI DẠY
VỀ ANATTĀ ....................................................... 517
X.3. TỰ NGÃ KINH NGHIỆM VÀ QUÁN
CÁC TẬP HỢP ................................................... 520
X.4. SỰ SANH KHỞI VÀ ĐOẠN DIỆT
CỦA CÁC TẬP HỢP ........................................... 529
XI. DHAMMAS: SÁU GIÁC QUAN VÀ CÁC
ĐỐI TƯỢNG CỦA CHÚNG (NỘI NGOẠI XỨ) ......... 536
XI.1. SÁU GIÁC QUAN VÀ CÁC ĐỐI TƯỢNG
CỦA CHÚNG VÀ CÁC RÀNG BUỘC ................ 536
XI.2. TIẾN TRÌNH NHẬN THỨC ................................ 550
XI.3. HUÂN TẬP NHẬN THỨC ................................. 565
XI.4. LỜI CHỈ DẪN CHO BĀHIYA ............................. 572
XII. DHAMMAS: CÁC YẾU TỐ TẠO THÀNH
CHỨNG NGỘ .......................................................... 584
XII.1. QUÁN CÁC YẾU TỐ TẠO THÀNH
CHỨNG NGỘ ................................................... 584

XII.2. TIẾN TRÌNH CÓ ĐIỀU KIỆN CỦA
CÁC YẾU TỐ TẠO THÀNH CHỨNG NGỘ....... 589
XII.3. LỢI ÍCH CỦA TU TẬP CÁC YẾU TỐ
TẠO THÀNH CHỨNG NGỘ ............................. 600
XIII. DHAMMAS: BỐN SỰ THỰC CAO CẢ .................. 610
XIII.1. Ý NGHĨA CỦA DUKKHA ................................. 610
XIII.2. BỐN SỰ THỰC CAO CẢ................................. 615
XIII.3. QUÁN BỐN SỰ THỰC CAO CẢ
(THÁNH ĐẾ) .................................................... 622


XIV. THỰC CHỨNG ....................................................... 628
XIV.1. CHỨNG NGỘ TỪ TỪ HAY ĐỘT NGỘT ......... 629
XIV.2. NIBBĀNA VÀ Ý NGHĨA
GIỚI HẠNH CỦA NÓ ....................................... 644
XIV.3. Ý NIỆM NIBBĀNA CỦA ĐẠO PHẬT THỜI
NGUYÊN THỦY ............................................... 654
XIV.4. NIBBĀNA: KHÔNG PHẢI LÀ TRẠNG THÁI
HỢP NHẤT THU TÓM HẾT THẢY CŨNG
KHÔNG PHẢI HOÀN TOÀN DIỆT TẬN .......... 660
XV. KẾT LUẬN .............................................................. 673
XV.1. NHỮNG KHÍA CẠNH QUAN TRỌNG NHẤT
CỦA SATIPAṬṬHĀNA ...................................... 673
XV.2. SỰ QUAN TRỌNG CỦA SATIPAṬṬHĀNA ....... 681
Phụ đính ........................................................................ 701
Nghiên cứu đối chiếu Majjhima-Nikāya...................... 701
Chữ viết tắt & sách tham khảo & trích dẫn ................ 751


JHĀYATHA, MĀ PAMĀDATTHA,

MĀ PACCHĀ VIPPAṬISĀRINO AHUVATTHA!


HÃY NGỒI THIỀN ĐI, ĐỪNG XAO LÃNG,
ĐỂ KHỎI HỐI TIẾC VỀ SAU!
(M I 46)


LỜI NÓI ĐẦU
Tỳ khưu Anālayo sinh năm 1962 ở Đức, xuất gia năm
1995 ở Sri Lanka (Tích Lan), tốt nghiệp Tiến sĩ với
luận án về Satipaṭṭhāna tại đại học Peradeniya năm
2000. Với sự cẩn thận chu đáo, tỳ khưu Anālayo đã
sắp xếp phối hợp các kinh điển trong tạng Pāḷi với các
tác phẩm nghiên cứu tỉ mỉ hiện hành cùng với những
hướng dẫn của các thiền sư đương thời, để đưa ra
nhiều gợi ý phong phú, vô cùng chính xác với chánh
bản Pāḷi, rõ ràng cho người học Giáo Pháp của Đức
Phật thời hiện đại.1
Khi soạn cuốn Satipaṭṭhāna The Direct Path To
Realization, ý của tỳ khưu Anālayo về chữ ekāyano
có nghĩa là thẳng, vì thế bản dịch cuốn này mới có tên
là Satipaṭṭhāna, Con Đường Thẳng Tới Chứng Ngộ.
Trong Majjhima Nikāya, chữ ekāyano xuất hiện hai
lần: Satipaṭṭhāna Sutta kinh thứ 10, và Mahāsīhanāda
Sutta thứ 12 (xin đọc “Index To The Majjhima Nikāya”
của M. Yamazaki và Y. Ousaka, trang 108). Chỉ có
tỳ khưu Ñāṇatiloka và Ñāṇamoli là người liên tưởng
đến chữ ekāyano trong kinh thứ 12 này, chọn dịch
ekāyano là direct, và tỳ khưu Anālayo trong tác

phẩm “A Comparative Study of the Majjhima Nikāya”
(Vol. I), trang 75 xuất bản năm 2011, xác nhận nghĩa
của ekāyano... in the sense of straight or direct. Theo


SATIPAṬṬHĀNA CON ĐƯỜNG THẲNG TỚI CHỨNG NGỘ

15

The New Oxford Dictionary of English (1998), trang
522 chữ direct cũng có nghĩa là straight. Như vậy, ở
đây, dịch direct = straight = thẳng rất phù hợp với ý
của tác giả, phù hợp với thí dụ trong kinh 12 nói trên:
đi thẳng đến hố than (xin đọc HT Minh Châu, KTB 1,
tr. 173) và phù hợp với cách nói của người Việt.
Trong Satipaṭṭhāna Sutta có câu ‘atthi kāyo ti vā
panassa sati paccupaṭṭhitā hoti yāvadeva ñāṇamattāya
patissati-mattāya’, ta thấy có hai chữ sati:
HT Minh Châu dịch là: ‘ “Có thân đây”, vị ấy an trú
chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí,
chánh niệm’.2 Ngài Soma dịch ñāṇamattāya patissatimattāya là ‘mindfulness (sati) for just knowledge and
rememberance (sati), for the increase of mindfulness
and clear comprehension is the meaning: quán niệm chỉ
để cho trí và để ghi nhớ thôi’, nghĩa là ‘để tăng trưởng
quán niệm và hiểu biết rõ ràng tường tận’ . 3 Khi soạn
luận án Tiến Sĩ xuất bản năm 2000, tỳ khưu Anālayo
dùng bản dịch Satipaṭṭhāna Sutta của tỳ khưu Ñāṇamoli
là chính. Nhưng trong tác phẩm mới nhất, xuất bản năm
2017, quyển Early Buddhist Meditation Studies, chương
Mindfulness, tỳ khưu Anālayo dịch câu trên là ‘có quán

niệm chỉ để cho trí và ý thức nhận biết được liên tục’.4 Vì
thế, tôi đã cập nhật lời dịch này trong phần “điệp khúc”
cho phù hợp với ý của tỳ khưu Anālayo.
Tôi đã trích dịch tối đa các tác giả được tỳ khưu
Anālayo đề nghị chúng ta tham khảo với hy vọng
cung cấp thêm tài liệu để quý vị nghiên cứu thêm.
Chỉ những tài liệu nào tôi không có hay vài tham
khảo nhiều trang quá, nên không thể trích dịch được.


16

Dịch giả NGUYỄN VĂN NGÂN

Những phần trích dịch này đều được in nghiêng để
độc giả dễ phân biệt.
PHẦN PHỤ ĐÍNH: NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU KINH
SATIPAṬṬHĀNA TRONG NIKĀYA VỚI CÁC KINH TRONG
CÁC BỘ ĀGAMA (A HÀM) CỦA TỲ KHƯU ANĀLAYO

Người đầu tiên nghiên cứu đối chiếu Nikāya và Āgama
là Anesaki Masaharu năm 1901,5 nhưng người thực
sự đi tiên phong trong nghiên cứu này là HT Minh
Châu.6 Trong khi quyển của HT Minh Châu sắp
xếp theo Trung A Hàm tiếng Hán, còn quyển của tỳ
khưu Anālayo lại xếp theo Majjhima-nikāya (Bộ Kinh
Trung). Khác với HT Minh Châu, phạm vi nghiên cứu
của tỳ khưu Anālayo đề cập đến tất cả các kinh trong
Majjhima-nikāya và xét tối đa các loại kinh tương
đương được biết đến. Các loại kinh tương đương

này không chỉ là kinh trong các bộ A Hàm tiếng Hán,
mà còn ở các bản dịch tiếng Hán, tiếng Tây Tạng,
các đoạn, mảnh rời rạc tiếng Sanskrit, trích toàn thể
hay từng phần có trong Pāli Tipiṭikā (Tam Tạng Pāḷi)...
Như vậy, tuy có cùng đối tượng nghiên cứu rộng rãi
với HT Minh Châu, nhưng khác biệt đáng kể ở chỗ
công trình nghiên cứu đối chiếu của tỳ khưu Anālayo
đề cập đến toàn thể Nikāya với các chi tiết rút ra từ
các bản tương đương.
Ngoài việc nêu ra các điểm giống nhau giữa các ấn
bản tương đương, tỳ khưu Anālayo còn làm sáng
tỏ chi tiết các khác biệt đáng kể. Những khác biệt
ấy được bàn theo những nguyên nhân có thể xảy ra
trong lịch sử: quan điểm riêng của tông phái, khác
biệt trong truyền khẩu, thêm tài liệu của chú giải vào,


SATIPAṬṬHĀNA CON ĐƯỜNG THẲNG TỚI CHỨNG NGỘ

17

lỗi lầm khi dịch thuật... Chỗ nào có thể được, tỳ khưu
Anālayo đưa ra nhận định bản nào có lẽ lưu tồn chính
xác ý nghĩa của chi tiết này, chi tiết kia của lời kinh.7
Trong phần phụ đính, tôi dịch trọn vẹn đoạn nghiên
cứu đối chiếu liên quan đến satipaṭṭhāna (từ trang 73
đến trang 97). Trong nghiên cứu của mình, tỳ khưu
Anālayo có ghi số trang trong Nikāya, ví dụ [MN I 56],
nên trong bản dịch kinh Satipaṭṭhānasutta, tôi đã thêm
vào số trang này để quý vị tham khảo khi đọc phần

đối chiếu. Chỉ thiếu một điều là máy tính của tôi không
đánh được tiếng Hán! Dưới đây, tôi sẽ trích thêm
những khác biệt giữa kinh Nikāya và các bộ Āgama
ghi trong Early Buddhist Meditation Studies của tỳ
khưu Anālayo không có trong phụ đính cuối sách.
Quán hơi thở
Có thể tìm thấy trong Ānāpānasati-sutta lời chỉ dẫn tu
tập quán hơi thở, bản tương ứng của nó trong Vinaya
của: Saṃyukta-āgama, Mahāsāṅghika (Đại Chúng
Bộ), Mūla-sarvāstivāda * (xuất phát từ Sarvāstivāda,
nhưng các học giả không đồng ý với nhau về nguồn
gốc của phái này) và Sarvāstivāda (Nhất Thiết Hữu
Bộ). Các bản này miêu tả ý thức nhận biết rõ rệt hơi
thở được tiến hành như thế nào qua 16 bước... 16
bước này được chia ra thành từng nhóm 4 bước. Mỗi
nhóm bốn tương ứng với một satipaṭṭhāna. Lý lẽ nêu
trong Saṃyukta-āgama về tương quan giữa bốn nhóm
quán hơi thở với bốn cách thiết lập quán niệm thật dễ
hiểu, vì mỗi một nhóm bốn này đối tượng của quán
tưởng là thân, cảm giác, tâm và dharmas tương ứng.
Vì thế đây đúng là những trường hợp trau dồi từng


18

Dịch giả NGUYỄN VĂN NGÂN

satipaṭṭhāna. Theo cách này, cả bốn satipaṭṭhāna có
thể được tu tập bằng một đối tượng hơi thở độc nhất,
tự nó vốn là hiện tượng thuộc thân.

Tuy nhiên, khi đưa vào thực hành, đây không phải
giản dị là phó sản của nhận biết rõ rệt hơi thở. Trái
lại, thi hành hệ thống 16 bước này dường như đòi
hỏi nỗ lực có ý thức về nới rộng ý thức nhận biết rõ
rệt của mình vốn sau khi thiết lập xong quán hơi thở,
tiếp tục tiến hành nhận biết toàn thân, nhận biết cảm
giác, nhận biết điều kiện của tâm, và về vô thường...
Cách thức quán như thế bắt đầu bằng quán hơi thở
và sự liên hệ của nó đến thân như là một hiện tượng
thuộc thân. Bắt đầu nhận biết rõ về hỉ và lạc như là
kết quả của tĩnh lặng do quán hơi thở sanh ra, rồi trở
thành trường hợp quán cảm giác, rồi lần sẽ dẫn đến
nhận biết rõ về tâm, hoan hỉ, định, và thoát khỏi nó
như là một loại quán tâm. Sau đó, quán dharmas đòi
hỏi chăm chú đến vô thường và những khía cạnh tuệ
giác thực tánh có liên quan.8
Thêm vào đó, Vinaya của Mahāsāṅghika

Sarvāstivādā miêu tả chi tiết một đạo sĩ đi vào ẩn
cư ngồi xuống quán hơi thở qua mười sáu bước.9
Sự kết hợp với sống ẩn cư còn mạnh mẽ hơn trong
Mūla-sarvāstivāda Vinaya, vì ở đây, quán hơi thở qua
mười sáu bước được Đức Phật thực hiện trong thời
kỳ hai hay ba tháng độc cư.10 Nhu cầu đi vào ẩn cư
cũng là một phần trong lời chỉ dẫn quán hơi thở trong
Ānāpānasatisutta, cũng như trong kinh Saṃyuktaāgama và Ekottarika-āgama.11 Satipaṭṭhānasutta
tiếng Pāḷi bắt đầu phần miêu tả và giải thích bằng


SATIPAṬṬHĀNA CON ĐƯỜNG THẲNG TỚI CHỨNG NGỘ


19

bốn bước đầu tiên của quán hơi thở, nhưng trong
Madhyama-āgama phần tương ứng lại không như
thế và trong phần tương ứng của Ekottarika-āgama
lại không có phần quán hơi thở gì cả.12
Vinaya của Mahāsāṅghika nói rõ ràng loại tu tập quán
niệm mà đạo sĩ thõng tay vào chợ (dịch sát: bắt tay
khi đi vào thị trấn) là “quán thân”.13 Theo nguyên tắc,
quán thân có thể ngụ ý đến bất cứ tu tập nào liên
quan đến thân, ngay cả quán hơi thở. Tuy nhiên, xét
lời chỉ dẫn quán hơi thở rõ ràng đề cập đến tư thế
ngồi, hình như công bằng khi kết luận rằng đây không
phải là loại quán thân mà Vinaya của Mahāsāṅghika
nghĩ đến.14
Quán thân
Kinh Mahātaṇhāsaṅkhaya-sutta và kinh Trung A Hàm
tương ứng của nó miêu tả người tu hành có thể đương
đầu với kinh nghiệm giác quan nhưng không phản
ứng lại bằng thích hay không thích. Tên kinh Pāḷi này
được dịch là “Đại Kinh về Đoạn Diệt Tham Ái”, truyền
đạt chính xác nội dung của nó là làm thế nào để vượt
qua tham ái, được phân tích về hiện hữu của Phật
giáo ban sơ coi đó là thủ phạm chính của đủ loại nô lệ
tâm thức. Các ấn bản tương ứng của kinh này miêu
tả người tu hành không phản ứng lại bất cứ cái gì kinh
nghiệm được ở cửa giác quan bằng tham hay sân và
người sống trú trong “tâm vô biên”. Ngoài ra, qua khía
cạnh thực tiễn, đây là biểu hiện đầy ý nghĩa, người

có tâm vô biên như vậy và không phản ứng lại bằng
mong ước và từ khước, người ấy đã thiết lập được
“quán thân”.15


20

Dịch giả NGUYỄN VĂN NGÂN

Thân trong thiền quán của Phật giáo ban sơ
Thái độ về thân của truyền thống Phật giáo ban sơ
trong quá khứ thường bị coi là tiêu cực. MonierWilliams (thế kỷ thứ 19) nói:
“ Trong Đạo Phật, thân không bao giờ có thể là nơi
cư trú của bất cứ cái gì ngoài sự bất thiện. Như vậy,
người học Phật tìm kiếm giải thoát cuối cùng khỏi bất
cứ kiếp sống thân xác nào, hiện tại cũng như tương
lai, như là điều tốt lành vĩ đại nhất trong tất cả các tốt
lành, là điều may mắn cao cả nhất trong tất cả các
may mắn, cao thượng nhất của tất cả các mục đích,
chí nguyện.” 16
Bateson, trích câu trên của Monier-Williams rồi kết luận:
“ Giải thoát từ sắc thân vì thế là summum bonum *
(cứu cánh tối thượng) của Đạo Phật... nỗ lực không
ngừng và hy vọng tối hậu của tất cả những người học
Phật là để thoát khỏi kiếp sống thể xác này.” 17
Dựa vào Bateson, Kajiyama một lần nữa xác nhận là:
Trong truyền thống Phật giáo “thân được coi như là
cội nguồn của ghê tởm, khổ đau và bất thiện, và giải
thoát ra khỏi cái thân này là lý tưởng.” 18
Khi nghiên cứu thái độ của Phật giáo về tình dục,

Faure kết luận là:
“ Người theo đạo Phật không chấp nhận thân... nhằm
mục đích khơi dậy ý tưởng ham muốn nhục dục là
đáng sợ.” 19


SATIPAṬṬHĀNA CON ĐƯỜNG THẲNG TỚI CHỨNG NGỘ

21

Tuy nhiên, xem xét kỹ những khảo cứu mới đây về
thái độ của Phật giáo nguyên thủy về thân cho chúng
ta thấy là kinh văn không nhìn nhận ấn tượng về đánh
giá tiêu cực bất di bất dịch về thân.
Theo nghiên cứu về thân trong thiền viện Phật giáo,
Collins làm nổi bật lên điều: “ngoài việc hủy diệt và
khước từ thân trong phân tích thiền quán” còn có “sự
kiến tạo thân trong tác phong xã hội như là đối tượng
công chúng được công nhận và được đề cao”.20
Nói cách khác, song song với thẩm định tiêu cực
trong một số loại thiền tập, một thái độ tích cực trở
nên quan trọng, nổi bật khi sự xuất hiện của tỳ khưu
trước công chúng được tả đến, sự xuất hiện của các
vị này thích hợp đến nỗi khơi dậy trong chúng sanh
lòng ao ước muốn gặp họ.21
Mrozik chỉ cho thấy rằng sự đánh giá tiêu cực về thân
còn có sự đánh giá tích cực đối ứng với nó về thân
như là hiện thân của giới hạnh, kết luận là “không chỉ
có một loại giảng giáo pháp về thân trong văn học
Phật giáo”.22

Harris chỉ rõ là riêng trong trường hợp truyền thống
Theravāda, “quan niệm Đạo Phật Theravāda có thái
độ tiêu cực về thân là xuyên tạc Đạo Phật Theravāda.”
Miêu tả về thân trong kinh văn và truyền thống của
Theravāda không chỉ có một.23 Theo Walther Wüst, ví
dụ hiển nhiên là hiện thân về giới hạnh thực ra chính
là tự thân Đức Phật, theo truyền thống ba mươi hai
tướng tốt Ngài có là ví dụ điển hình cho giới hạnh và
thành tựu của Đức Phật.24


22

Dịch giả NGUYỄN VĂN NGÂN

Tuy nhiên, dưới đây, tôi (tỳ khưu Anālayo) sẽ lập luận
rằng có thể tìm thấy nhiều loại thân trong văn học
Phật giáo nguyên thủy nói chung.
Mục đích của quán các bộ phận cấu thành cơ thể rõ
ràng là hủy diệt ý niệm về cái đẹp của thân như là
cái gì lôi cuốn tình dục.25 Điều này không có nghĩa là
quán tưởng như vậy có mục đích dẫn đến thái độ ghê
tởm và chán ghét thân này. Wilson chỉ cho thấy rằng
“ta chớ nên giả định là người học Phật có ác cảm, ghê
sợ tấm thân này” bởi vì “cái nhận định tối hậu những
người hành thiền tìm kiếm không phải là sự hấp dẫn
hay ghê tởm, mà chính là sự không quan trọng, bình
thường”.26 Hamilton giải thích rằng: “thật là khờ dại
khi cho rằng kinh văn Phật giáo trau dồi ác cảm với
thân hay bất cứ cái gì khác” thay vào đó, nên hiểu là

“điều tỳ khưu nhắm đến là sự không quan trọng”.27 Vì
thế “thái độ của Phật giáo ban sơ về thân không phải
tích cực hay tiêu cực, chỉ là phân tích.”28
KẾT LUẬN
Đây là công trình nghiên cứu rất tỉ mỉ, nội dung rất
phong phú, không những dành cho người mới học
Satipaṭṭhāna, mà còn là tài liệu cho những học giả
muốn đi sâu thêm về đề tài này. Quý vị sẽ nhận chân
được tất cả những giá trị tiềm ẩn chứa đựng trong
kinh Satipaṭṭhāna, nhờ bộ óc khôi việt của tỳ khưu
Anālayo.
Dhammaruci Nguyễn Văn Ngân
Bắt đầu dịch: ngày 7 tháng 5, 2016
Dịch xong ngày 5 tháng 8, 2017


CHÚ THÍCH CHO LỜI NÓI ĐẦU
1. Bhikkhu Bodhi, bìa sau quyển Satipaṭṭhāna, The
Direct Path To Realization.
HT Minh Châu, BKT 1, tr. 134.
Soma Thera, WM, tr. 53.
Anālayo, EBMS, tr. 25.
Anesaki Masaharu 1901: “Correspondence,
Chinese Āgama and Pāli Nikāyas” (Journal of the
Royal Asiatic Society, tr. 895-900).
6. Minh Châu, The Chinese Madhyama-āgama
and the Pāli Majjhima-nikāya (Buddhist Tradition
series, vol.15), Delhi, Motilal Banarsidass.
7. Roderick S. Bucknell (University of Queensland)
2010: Foreword, A Comparative Study of the

Majjhima-nikāya, trang xix-xx.
8. Anālayo, EBMS, tr. 34-36: MN 118 ở MN III 82,24
đến 83,19; SĀ 803 ở T II 206a27 đến 206b11; T
1425 ở T XXII 254c14 đến 255a4; T 1448 ở T XXIV
32c7 đến 32c21 (chỉ dẫn trong bản Tây Tạng, D I
kha 62b6 hay Q 1030 ge được viết tắt), và T 1435
ở T XXIII 8a17 đến 8b2.
9. Anālayo, EBMS, tr. 36, ct. 34 ghi: “T 1425 ở T
XXII 254c12 và T 1435 ở T XXIII 8a19”.

2.
3.
4.
5.


×