Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Một vài kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học các tác phẩm văn xuôi trong chương trình ngữ văn lớp 12 cho học sinh trung tâm GDNN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.76 MB, 46 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

2

II. TÊN SÁNG KIẾN

2

1

III. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN 3
IV. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN

3

V. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

3

VI. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU HOẶC ÁP DỤNG THỬ
VII. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN

3

CHƯƠNG I: CƠ SƠ LÍ LUÂN VÀ THỰC TIÊN CỦA ĐỀ TÀI
1. CƠ SƠ LÝ LUẬN

3


3

3

1.1. Khái quát về sơ đồ tư duy 3
1.2. Ứng dụng sơ đồ tư duy vào dạy học 6
2. CƠ SƠ THỰC TIÊN

8

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN 10

1. Giới thiệu về Trung tâm GDNN – GDTX Yên Lạc........................................10
2. Thực trạng sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn nói chung

11

3. Thực trạng dạy học các tác phẩm văn xuôi trong chương trình Ngữ Văn lớp 12 tại Trung tâm GDNN
– GDTX Yên Lạc 12
CHƯƠNG 3: MÔT VÀI KINH NGHIÊM NHĂM NÂNG CAO HI ÊU QUẢ SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG
DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM VĂN XUÔI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 12 CHO HỌC SINH TRUNG
TÂM GDNN – GDTX YÊN LẠC

14

1. Sử dụng SĐTD trong các hình thức kiểm tra

14

1.1. Sử dụng SĐTD trong việc kiểm tra bài cũ


14

1.2. Sử dụng SĐTD trong kiểm tra 15 phút

16

2. Sử dụng SĐTD trong dạy học bài mới 17
2.1. Sử dụng sơ đồ tư duy trong hoạt động tìm hiểu Tiểu dẫn

18

2.2. Sử dụng sơ đồ tư duy trong hoạt động Đọc- hiểu văn bản

20


2.2.1. Xây dựng sơ đồ tư duy hệ thống kiến thức toàn bài
2.2.2. Xây dựng sơ đồ tư duy về nhân vật

20

21

3. Sử dụng SĐTD trong việc hệ thống, củng cố kiến thức sau mỗi bài học, mỗi phần của bài học

22

4. Giáo án minh họa sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy tác phẩm “Ai đa đ ăt tên cho dong sông?”
23

5. Kết quả nghiên cứu 39
KẾT LUẬN

41

VIII. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không 42
IX. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến 42
X. Đánh giá lợi ích thu được do sáng kiến

42

1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác
giả

42

2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến
theo ý kiến của tổ chức, cá nhân.........................................................................43
XI. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đa áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu. 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO

44


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
BT THPT
CNTT
GDNN-GDTX
GDTX

GV
HS
PPDH
SĐTD
SGK
THPT
THPTQG

Nội dung
Bổ túc trung học phổ thông
Công nghệ thông tin
Giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường xuyên
Giáo dục thường xuyên
Giáo viên
Học sinh
Phương pháp dạy học
Sơ đồ tư duy
Sách giáo khoa
Trung học phổ thông
Trung học phổ thông quốc gia

1


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sơ đồ tư duy (Mindmap) là phương pháp được đưa ra như một phương tiện
mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi
nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân tích một vấn đề ra thành một dạng của

lược đồ phân nhánh. Phương pháp này được phát triển vào cuối thập niên 60
(thế kỷ 20) bởi Tony Buzan, giúp ghi lại bài giảng mà chỉ dùng các từ then chốt
và các hình ảnh. Cách ghi chép này nhanh, dễ nhớ và dễ ôn tập hơn.
Phương pháp này khai thác khả năng ghi nhớ và liên hệ các dữ kiện lại với
nhau bằng cách sử dụng màu sắc, một cấu trúc cơ bản được phát triển rộng ra từ
trung tâm, chúng dùng các đường kẻ, các biểu tượng, từ ngữ và hình ảnh theo
một bộ các quy tắc đơn giản, cơ bản, tự nhiên và dễ hiểu. Với một sơ đồ tư duy,
một danh sách dài những thông tin đơn điệu có thể biến thành một bản đồ đầy
màu sắc, sinh động, dễ nhớ, được tổ chức chặt chẽ. Nó kết hợp nhịp nhàng với
cơ chế hoạt động tự nhiên của não chúng ta. Việc nhớ và gợi lại thông tin sau
này sẽ dễ dàng, đáng tin cậy hơn so với khi sử dụng kỹ thuật ghi chép truyền
thống. Vì những ưu điểm ấy, sơ đồ tư duy được ứng dụng nhiều trong dạy học,
đặc biệt là trong môn Ngữ Văn.
Nhắc đến bộ môn Ngữ Văn, phân môn chiếm số tiết nhiều nhất là phân
môn Văn học. Trong chương trình Ngữ Văn THPT lớp 12, phân mơn Văn học
chủ yếu chia thành hai phần: thơ và văn xuôi. Trong đó, theo đánh giá của bản
thân, tơi cho rằng phần văn xuôi gây ra nhiều trở ngại hơn cho học sinh Trung
tâm GDNN – GDTX Yên Lạc bởi hệ thống kiến thức khá dài và khó ghi nhớ.
Hơn nữa, một đặc trưng riêng biệt của học sinh ở các Trung tâm GDNN –
GDTX là khả năng ghi nhớ kiến thức kém. Bởi vậy, nếu người giáo viên hệ
thống hóa kiến thức qua sơ đồ tư duy sẽ giúp các em dễ thuộc, dễ nhớ, dễ hiểu.
Vì vậy, việc sử dụng sơ đồ tư duy là vô cùng cần thiết. Sơ đồ tư duy, với những
ưu điểm của nó, sẽ giúp học sinh nắm bắt nhanh và nhớ lâu những hệ thống kiến
thức cơ bản của tác phẩm phục vụ cho kỳ thi THPTQG 2019.
II. TÊN SÁNG KIẾN
“Một vài kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng sơ đồ tư duy trong
dạy học các tác phẩm văn xuôi trong chương trình Ngữ Văn lớp 12 cho học sinh
Trung tâm GDNN – GDTX Yên Lạc”.
2



III. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
- Họ và tên: Đường Thị Huệ
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trung tâm GDNN - GDTX Yên Lạc
- Số điện thoại: 0915 257 427. Email:
IV. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN
Tác giả sáng kiến đồng thời là chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
V. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Sáng kiến được áp dụng trong dạy học nội khóa phần các tác phẩm văn
xi lớp 12 chương trình BT THPT, có thể áp dụng mở rộng đối với dạy học
môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thơng nói chung.
Với việc thực hiện đề tài này tôi tham vọng sẽ:
- Tự tạo ra hững thú và đam mê cho bản thân trong quá trình dạy học.
- Tạo ra hứng thú cho học sinh trong những tiết học văn bản văn xuôi.
- Học sinh sẽ nắm bắt được hệ thống kiến thức cơ bản cần thiết phục vụ
cho kỳ thi THPTQG sắp tới.
VI. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU HOẶC ÁP
DỤNG THỬ
Sáng kiến được áp dụng lần đầu trong học kì I, năm học 2017 – 2018 khi
tôi được phân công giảng dạy Ngữ văn khối 12, cụ thể bắt đầu từ ngày
25/09/2017.
VII. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái quát về sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy (mindmap) là một phương pháp được sử dụng để phát huy tối
đa khả năng của bộ não con người trong việc ghi nhớ các hình ảnh, chi tiết, để
liên hệ các nội dung của một vấn đề nào đó theo một hệ thống rành mạch. Các
nội dung của vấn đề được liên kết với nhau bằng một đường nối để làm cho các
dữ kiện của một nội dung cần nhớ, phân tích sẽ được nhìn nhận dễ dàng, nhanh

chóng và chính xác hơn.
3


Ngày nay, phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy đã trở nên rất phổ biến trên
toàn thế giới, thâm nhập vào nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, được
ứng dụng rộng rãi chứ không chỉ trong lĩnh vực giáo dục. Ngày nay, nó được
hơn 250 triệu người trên thế giới sử dụng, được xem là “công cụ vạn năng cho
bộ não”.
Cấu tạo của một sơ đồ tư duy thường bao gồm:
- Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ
đề.
- Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm
rõ chủ đề.
- Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi
ý chính.
- Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung
tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, SĐTD là một bức tranh tổng thể, một
mạng lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung,
một đơn vị kiến thức nào đó.
Các bước thiết kế một SĐTD:
Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên
phần mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:
Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ
hình ảnh minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được)
Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ
chủ đề, thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính,
đặt tiêu đề các nhánh chính, nối chúng với trung tâm.
Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm
rõ mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai

thành mạng lưới liên kết chặt chẽ.
Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các
ý, tạo tác động trực quan, dễ nhớ.
*Lưu ý:
- Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các
nhánh con.
4


- Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu
hút sự chú ý của mắt, như vậy SĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn.
- Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn.
- Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ
đồng thời tạo sự cân đối, hài hịa cho sơ đồ.
- Khơng ghi q dài dịng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết, nên
dùng các từ, cụm từ một cách ngắn gọn.
- Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần
thiết góp phần làm rõ các ý, chủ đề.
- Có thể đánh số thứ tự ở các ý chính cùng cấp.
- Không đầu tư quá nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” sơ đồ bằng vẽ, viết,
tô màu...
- Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài.
- Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình
Sau đây, chúng tơi sẽ áp dụng sơ đồ tư duy để chỉ ra các ứng dụng cơ bản
của nó mà ngày nay nhiều người trên thế giới thường hay ứng dụng:

Chúng tơi cũng trình bày những ưu điểm của phương pháp sơ đồ tư duy
bằng sơ đồ như sau:

5



1.2. Ứng dụng sơ đồ tư duy vào dạy học
Phương pháp vận dụng sơ đồ tư duy vào dạy học được du nhập vào Việt
Nam từ nửa sau thế kỉ XX. Ban đầu, những nhà nghiên cứu khoa học sư phạm
ứng dụng đã sử dụng thử nghiệm trên một số bài dạy và các hoạt động ngoại
khóa. Thành cơng của nó đã vẫy gọi nhiều nhà giáo đến với sơ đồ tư duy, và
ngày nay, sơ đồ tư duy có thể được vận dụng vào bất cứ môn học nào, thậm chí
là mọi tiết học và mọi hoạt động dạy học.
Việc ứng dụng sơ đồ tư duy vào dạy học, hiện nay được xem là một việc
làm khả thi và phù hợp với sự nghiệp đổi mới giáo dục mà ngành đang đẩy
mạnh. Đây là việc làm cần thiết do ở sơ đồ tư duy có những ưu điểm lớn trong
việc dạy học môn Ngữ Văn:
Dạy học bằng SĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả.
Chúng ta biết rằng việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ đơn
thuần là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học.
Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn
thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc theo thói quen học vẹt, các em chưa
có ý thức hoặc chưa biết rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài nào biết
bài ấy, nắm kiến thức một cách đơn lẻ, rời rạc, chưa biết tích hợp, liên hệ kiến
thức vớd4i nhau giữa các bài học, giữa các phân mơn, vì vậy mà chưa phát triển
được tư duy lô-gic và tư duy hệ thống. Do đó, dù các em học rất chăm chỉ nhưng
vẫn học kém. Vì học phần sau đã quên phần trước, không biết vận dụng kiến
thức đã học trước đó vào những phần sau. Lại có nhiều học sinh khi đọc sách
6


hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, hay kiến
thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Bởi vậy, rèn lụn cho các em có thói quen
và kĩ năng sử dụng thành thạo SĐTD trong quá trình dạy học sẽ gúp học sinh có

được phương pháp học tốt, phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát
triển tư duy.
- SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên
cứu của các nhà khoa học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và
in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngơn ngữ của mình.
Vì vậy, sử dụng SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa
tiềm năng của bộ não. Việc học sinh trực tiếp vẽ SĐTD vừa lôi cuốn, hấp dẫn
các em, đồng thời còn phát triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, bởi đó là “sản phẩm
kiến thức hội họa” do chính các em tự làm ra, lại vừa phát huy được tối đa khả
năng sáng tạo của các em trong học tập, không rập khuôn một cách máy móc
như khi lập các bảng biểu, sơ đồ, vì các em dễ dàng vẽ thêm các nhánh để phát
triển ý tưởng riêng của mình. Vì thế, tạo một khơng khí sơi nổi, hào hứng, say
mê cho học sinh trong học tập. Đây cũng là một trong những nội dung quan
trọng của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực” mà Bộ GD&ĐT đang triển khai thực hiện.
- Sơ đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên
tưởng (các nhánh). Do đó, chúng ta có thể vận dụng Sơ đồ tư duy vào tất cả các
khâu trong quá trình dạy học. Từ khâu kiểm tra bài cũ, đến khâu dạy học kiến
thức mới, hay khâu củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, rồi ơn tập hệ thống hóa
kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì, kể cả việc kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15
phút.
- Sơ đồ tư duy, một cơng cụ có tính khả thi cao. Ta có thể vận dụng được
với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay nói chung.
Bởi vì ta có thể thiết kế Sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ,… bằng
cách sử dụng bút chì màu, phấn màu, tẩy…hoặc cũng có thể thiết kế trên phần
mềm Sơ đồ tư duy (Mind Map). Với những trường đủ điều kiện về cơ sở vật
chất như Máy chiếu Projecto, phịng máy vi tính đảm bảo, chúng ta có thể sử
dụng phần mềm (Mind Map) để phục vụ cho việc dạy học có ứng dụng CNTT.
Tóm lại, việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học sẽ giúp HS:
1. Tăng sự hứng thú trong học tập.

2. Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của các em.
7


3. Tiết kiệm thời gian rất nhiều.
4. Nhìn thấy được bức tranh tổng thể.
5. Ghi nhớ tốt hơn.
6. Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em.
Tuy nhiên, có một thực tế hiện nay là, nhiều giáo viên vẫn còn e ngại, chưa
tận dụng tối đa phương pháp dạy học này, cho rằng nó khơng thể là phương
pháp phù hợp với hệ hình tư duy của các nước phương Đơng. Ngược lại, cũng
có một số giáo viên vận dụng thái quá theo kiểu cho nó là phương pháp vạn
năng, biến nó thành độc tơn trong dạy học nên gây ra những hệ quả khơng tốt,
bởi vì bất kì một phương pháp giáo dục, giảng dạy nào cũng có điểm khả thủ và
bất khả thủ. Chối từ nó đồng nghĩa với việc đóng lại một cánh cửa truyền thụ tri
thức, nhưng vận dụng thái quá cũng sẽ làm nó tự bộc lộ hạn chế của mình.
Do vậy, trong đề tài của mình, chúng tơi sẽ cố gắng khơng mắc vào hai thái
cực cực đoan đó.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Văn xuôi là một dạng ngôn ngữ thể hiện một cấu trúc ngữ pháp và mơ
phỏng văn nói tự nhiên, không tuân theo các lề luật như thi ca. Mặc dù có nhiều
tranh luận xung quanh cấu trúc của văn xi, tính đơn giản và cấu trúc lỏng lẻo
của nó đã đưa đến việc con người áp dụng văn xuôi vào phần lớn văn nói, để
trình bày sự kiện cũng như viết về các chủ đề thực tế cũng như hư cấu. Văn xi
chủ yếu dựa vào năng lực trí ṭ cộng với tình cảm và trí tưởng tượng.
Văn xi hồn tồn khơng có cấu trúc vần mà hầu hết thơ ca đều có. Thơ
ca bao giờ cũng có nhịp, vần và độ dài quy định. Ngược lại, văn xuôi chứa trọn
bộ các câu đầy đủ và có ngữ pháp chặt chẽ, tạo ra các đoạn văn và bỏ qua tính
mỹ thuật của thơ ca. Một số tác phẩm văn xi cũng chứa các đoạn văn mang
tính đối xứng và có chất thơ, và việc kết hợp một cách có chủ ý giữa văn xuôi và

thơ ca được gọi là văn xi có vần. Vần điệu được coi là mang tính hệ thống và
cơng thức, trong khi văn xi được coi là mang tính ngơn ngữ nói hay giao tiếp
nhiều hơn.
Văn xi có nhiều thể loại: văn diễn giảng, văn lịch sử, văn nghị luận, văn
tự sự. Văn xuôi văn học có tiểu thuyết, truyện ngắn, tùy bút, ký... Khi các tác
phẩm triết học, lịch sử, giáo dục... có chứa các giá trị thẩm mỹ nó sẽ cũng được
xem là văn xuôi.
8


Như vậy, văn xi hồn tồn khác biệt với thơ ca. Nếu như thơ ca được tạo
nên từ những câu thơ có vần có nhịp thì văn xi lại được tạo nên từ những câu
văn. Với những đặc trưng đó, trong chương trình Ngữ Văn lớp 12 có các tác
phẩm văn xi:
- Tun ngơn độc lập - Hồ Chí Minh
- Nguyễn Đình Chiểu - ngơi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc –
Phạm Văn Đồng
- Người lái đị sơng Đà - Nguyễn Tuân
- Ai đã đặt tên cho dòng sơng - Hồng Phủ Ngọc Tường
- Vợ chồng A Phủ - Tơ Hồi
- Vợ nhặt - Kim Lân
- Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành
- Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi
- Chiếc thuyền ngồi xa - Nguyễn Minh Châu
- Thuốc - Lỗ Tấn
- Số phận con người - Sơ-lơ-khốp
- Ơng già và biển cả - Hê-ming-
Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài, với mục đích tập trung kiến thức cho
học sinh trong kỳ thi THPTQG 2019, chúng tôi chỉ áp dụng trong các tác phẩm
thuộc cấu trúc đề thi THPTQG 2019.


9


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG
DẠY HỌC NGỮ VĂN
1. Giới thiệu về Trung tâm GDNN – GDTX Yên Lạc
Trung tâm GDNN - GDTX Yên Lạc được thành lập năm 1996. Nằm trên
mảnh đất giàu truyền thống yêu nước và cách mạng thuộc địa bàn xã Tam Hồng,
huyện Yên Lạc, Trung tâm đã xây dựng, phấn đấu, trưởng thành và khẳng định
được vị trí, chức năng, nhiệm vụ của một Trung tâm GDNN - GDTX cấp hụn.
Ở địa bàn nơng thơn, tình hình kinh tế – xã hội còn chưa phát triển, đời sống của
nhân dân cịn nhiều khó khăn đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng dạy học và giáo
dục của Trung tâm, đôi khi sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường chưa được
quan tâm đúng mức, nhận thức của người dân về việc học tập còn chưa được
đầy đủ, sâu sắc. Trải qua bao khó khăn, vất vả và thiếu thốn, nhưng nhờ phát
huy truyền thống quê hương cách mạng, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của cấp
trên và nhất là tạo dựng được niềm tin của nhân dân trong huyện, cho đến nay,
qua hơn 20 năm hình thành và phát triển, Trung tâm GDNN - GDTX Yên Lạc đã
trở thành cơ sở giáo dục tin cậy của nhân dân không chỉ trên địa bàn huyện Yên
Lạc mà còn ở cả các huyện khác trong tỉnh. Hai mươi năm qua, Trung tâm
GDNN - GDTX Yên Lạc đã có những đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp trồng
người của tỉnh nhà nói riêng và sự nghiệp giáo dục của cả nước nói chung. Từ
mái trường này, hàng vạn học sinh đã được dạy dỗ, để trở thành những công dân
tốt của đất nước, nhiều người đã có những đóng góp xứng đáng trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trở thành những tấm gương cho các em học sinh
hôm nay noi theo. Năm học 2018-2019, trung tâm GDNN - GDTX Yên Lạc đã
thu hút được một số lượng học sinh tương đối lớn với 4 lớp khối 10, 4 lớp khối
11 và 4 lớp khối 12, đội ngũ giáo viên của trung tâm tương đối ổn định.
Với tinh thần “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và

luôn ghi nhớ lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dù khó khăn đến đâu, cũng
phải thi đua dạy tốt, học tốt”, trong những năm vừa qua, Trung tâm luôn triển
khai đồng bộ nhiều giải pháp như tăng cường cơ sở vật chất; đổi mới phương
pháp dạy học; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học; xây dựng,
10


bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên; đẩy mạnh công tác dạy nghề gắn
với việc làm... và đã đạt được nhiều thành tích đáng tự hào. Song song với
nhiệm vụ dạy học văn hóa, Trung tâm cịn có thêm một nhiệm vụ nữa cũng hết
sức quan trọng là hướng nghiệp và dạy nghề.
Sau nhiều năm phấn đấu, những nỗ lực vượt khó vươn lên của tập thể cán
bộ, giáo viên và học sinh Trung tâm GDNN - GDTX Yên Lạc đã được ghi nhận.
Trung tâm đã được Sở Giáo dục - Đào tạo tặng danh hiệu đơn vị tiên tiến xuất
sắc nhiều năm liền, được UBND tỉnh tặng Bằng khen, Bộ Giáo dục tặng danh
hiệu Đơn vị Lá cờ đầu khối GDTX, Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen và
mới đây nhất, trong năm học 2013-2014, đơn vị vinh dự được Chủ tịch nước
tặng danh hiệu Huân chương Lao động hạng Ba. Những thành tích mà Trung
tâm GDNN - GDTX Yên Lạc đã đạt được không chỉ là niềm tự hào mà đó cịn
là nguồn động lực to lớn để thầy và trò của trung tâm cố gắng, nỗ lực, phấn đấu
nhiều hơn nữa, xứng đáng là địa chỉ giáo dục tin cậy của tỉnh nhà.
2. Thực trạng sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn nói chung
Lâu nay, trong q trình dạy học, chúng ta vẫn thường sử dụng các mơ
hình, sơ đồ, biểu đồ... để cô đọng, khái quát kiến thức cho học sinh, nhất là ở
những bài tổng kết các chương, các phần của môn học hay các bài ôn tập. Cách
làm này có thể nói đã đem lại những hiệu quả thiết thực nhất định trong việc ôn
tập, củng cố, hệ thống kiến thức cho học sinh bởi cách trình bày gọn, rõ, lô-gic.
Thế nhưng, bên cạnh những ưu điểm ấy, cách làm này vẫn còn những hạn chế
nhất định, bởi trước hết là cả lớp cùng có chung cách trình bày giống như cách
của giáo viên hoặc của tài liệu, chứ không phải do học sinh tự xây dựng theo

cách hiểu của mình. Các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và
đường nét. Cách làm này chưa thật sự phát huy được tư duy sáng tạo, chưa thật
sự kích thích, lơi cuốn được các em trong việc tích cực, chủ động tìm tịi, phát
hiện và chiếm lĩnh kiến thức của bài học. Hơn nữa, phạm vi sử dụng hẹp vì
chúng ta chỉ sử dụng chúng trong một số tiết dạy có tính chất tổng kết các
chương, các phần, các mảng kiến thức của môn học hay các bài ôn tập mà thôi

11


chứ chúng không được sử dụng đại trà cho tất cả các bài học, các giờ lên lớp
cũng như các khâu của tiến trình bài dạy.
Trong thời gian gần đây, chúng ta đã bước đầu được tiếp cận với những
phương pháp, kĩ thuật dạy học mới. Trong đó có việc sử dụng SĐTD. Có thể
nói, đây là một bước tiến đáng kể trong việc đổi mới PPDH hiện nay khi mà
khoa học công nghệ phát triển như huyền thoại, nhất là sự bùng nổ của ngành
Công nghệ thông tin. Việc sử dụng SĐTD thay thế cho những mơ hình, sơ đồ,
biểu đồ... đã lạc hậu, lỗi thời để khái quát, cô đọng kiến thức cho học sinh là
một sự tất yếu, bởi SĐTD có rất nhiều điểm ưu việt hơn. Do đó, việc ứng dụng
SĐTD vào trong q trình dạy học môn Ngữ văn không chỉ lôi cuốn sự hứng
thú, làm “sống lại” niềm đam mê, u thích mơn học ở các em học sinh mà còn
làm dấy lên một “phong trào” đưa SĐTD vào bài giảng ở giáo viên.
Tuy nhiên, hiện nay, việc đưa Sơ đồ tư duy vào ứng dụng trong q trình
dạy học đối với mơn học Ngữ văn cịn là vấn đề gặp khơng ít khó khăn, trở ngại
đối với giáo viên, cụ thể như trong việc tổ chức, thiết kế các hoạt động dạy học
với việc sử dụng SĐTD. Qua dự giờ, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn đối với
các đồng nghiệp trong tổ, trong trường, tôi nhận thấy, hầu hết giáo viên mới chỉ
dừng lại ở việc sử dụng SĐTD để hệ thống hóa kiến thức sau mỗi bài học, hay
mỗi bài ôn tập, tổng kết một phân môn, một mảng kiến thức nào đó mà thơi. Họ
chưa mạnh dạn đưa SĐTD vào tất cả các khâu trong quá trình dạy học. Họ chưa

phát huy được tính phổ biến và đa năng của SĐTD. Do đó, chưa phát huy một
cách đầy đủ cơng dụng của SĐTD trong q trình dạy học mơn Ngữ văn.
3. Thực trạng dạy học các tác phẩm văn xuôi trong chương trình Ngữ
Văn lớp 12 tại Trung tâm GDNN – GDTX n Lạc
Các tác phẩm văn xi trong chương trình Ngữ Văn lớp 12 hầu hết đều là
những tác phẩm hay, khá dài và khó tiếp cận. Hơn nữa, đây lại là các tác phẩm
nằm trong cấu trúc đề thi THPTQG cho nên càng có vai trị quan trọng trong
chương trình. Chính việc này gây ra tâm lý “tham kiến thức” cho giáo viên.
Giáo viên thường cố gắng nhồi nhét cho học sinh càng nhiều kiến thức càng tốt
nên bài giảng thường rất dài. Đồng thời, vì đây là các tác phẩm thi nên giáo viên
12


thường truyền thụ một chiều, học sinh chỉ lắng nghe mà ít được giao nhiệm vụ
học tập.
Tuy nhiên, chính cách làm này của giáo viên, vơ tình đã gây ra ở học sinh
tâm lý sợ sệt và chán học đối với các tác phẩm văn xuôi.
Riêng đối với học sinh Trung tâm GDNN - GDTX Yên Lạc, các tác phẩm
văn xuôi luôn là điểm yếu của các em. học sinh tại Trung tâm GDNN - GDTX
Yên Lạc đa số có chất lượng đầu vào thấp nên năng lực cảm thụ văn học cịn
nhiều hạn chế. Tâm lí chung của các em là lười suy nghĩ, ít hiểu biết các tác
phẩm văn học, khơng thích đọc các tác phẩm văn học, thích đọc trụn tranh
hoặc những trụn có nội dung dễ hiểu. Các em thường rất khó nhớ được cốt
truyện cũng như hệ thống các kiến thức cơ bản của bài học, đặc biệt với những
văn bản có dung lượng dài và các văn bản tùy bút, bút ký. Chính vì vậy các em
rất thiếu hiểu biết về các tác phẩm văn học. Muốn học sinh học tốt các tác phẩm
văn xi địi hỏi học sinh phải có kiến thức văn học.

13



CHƯƠNG 3: MỘT VÀI KINH NGHIỆM NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM VĂN
XUÔI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 12 CHO HỌC SINH
TRUNG TÂM GDNN – GDTX YÊN LẠC
1. Sử dụng SĐTD trong các hình thức kiểm tra
Có thể nói, đây là việc làm rất đơn giản nhưng lại còn rất xa lạ, mới mẻ đối
với rất nhiều giáo viên. Qua dự giờ, góp ý, trao đổi kinh nghiệm cùng các đồng
nghiệp trong tổ, nhóm chun mơn, tơi nhận thấy, hầu hết giáo viên rất băn
khoăn khi nghe đề nghị dùng SĐTD để kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút hay
kiểm tra một tiết. Sau đây là một vài kinh nghiệm xin chia sẻ cùng đồng nghiệp:
1.1. Sử dụng SĐTD trong việc kiểm tra bài cũ
Giáo viên đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện chủ đề
của kiến thức cũ mà các em đã học, cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ SĐTD
thông qua câu hỏi gợi ý. Trên cơ sở từ khóa (hoặc hình ảnh trung tâm) ấy kết
hợp với câu hỏi định hướng của giáo viên, học sinh sẽ nhớ lại kiến thức và định
hình được cách vẽ SĐTD theo yêu cầu.
- Mục đích: Giúp học sinh khái quát lại hệ thống kiến thức cũ và gợi ra hệ
thống kiến thức của bài mới trong tương quan so sánh và đối chiếu.
- Các bước thực hiện:
Bước 1: Giáo viên treo sơ đồ khuyết thiếu lên bảng
Bước 2: Giáo viên gọi học sinh lên bảng làm
Bước 3: Học sinh nhận xét, giáo viên chốt ý
* Ví dụ 1:
Trước khi vào học tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dịng sơng” giáo viên yêu
cầu học sinh hoàn thiện một sơ đồ tư duy cịn khuyết thiếu về tác phẩm “Người
lái đị sơng Đà”. Ở đây, mục đích chính của giáo viên là kiểm tra kiến thức cũ
của học sinh và gợi ra sự so sánh giữa con sông Đà và sông Hương.

14



VẼ SƠ ĐỜ MẪU

* Ví dụ 2:
Trước khi vào tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, giáo viên yêu cầu học
sinh vẽ sơ đồ tư duy về nhân vật bà cụ Tứ để gợi ra sự so sánh với nhân vật
người đàn bà hàng chài.
SĐTD minh họa:
Những gợi ý sau nhắc em nhớ tới nhân vật nào?

15


Lưu ý:
Giáo viên có thể cho cả lớp cùng lập SĐTD trên giấy theo cách hoạt động
cá nhân trong một thời gian nhất định để lôi cuốn tất cả học sinh vào việc ôn
kiến thức đồng thời rèn luyện kĩ năng tạo lập SĐTD và thói quen tư duy cho các
em. Hết thời gian quy định, giáo viên chọn sơ đồ của một vài em (có thể vẽ xong
trước, có thể cần lấy điểm,...), chấm, nhận xét và ghi điểm cho các em; biểu
dương, khen ngợi những em vẽ tốt để khích lệ các em nhằm tạo khơng khí học
tập sôi nổi. Đây là việc làm rất cần thiết của chúng ta.
Giáo viên chỉ cần dựa vào SĐTD chấm và ghi nhận điểm cho học sinh mà
không cần phải yêu cầu gì thêm ở các em, vì ta đã chọn dạng đề khá đơn giản,
nên những gì cần trả lời, các em đã thể hiện trong SĐTD, hơn nữa thời gian
kiểm tra bài cũ có hạn.
1.2. Sử dụng SĐTD trong kiểm tra 15 phút
Chúng ta cũng có thể dùng SĐTD trong các hình thức kiểm tra trên giấy
(15 phút) một cách dễ dàng để tăng cường việc rèn luyện thói quen tư duy lôgic, tư duy hệ thống cho học sinh thông qua các bài kiểm tra viết, nhằm phát
triển năng lực tư duy sáng tạo cho các em. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần lưu ý

rằng kiểm tra kiến thức cũ bằng phương pháp vẽ SĐTD chỉ là một hình thức
kiểm tra nhằm việc giúp học sinh củng cố, hệ thống kiến thức có tính chất lý
thuyết. Do đó, giáo viên nên chọn kiểm tra những kiến thức có tính hệ thống,
xâu chuỗi, các em có thể dễ dàng hệ thống hóa bằng SĐTD. Mặt khác, về yêu
cầu của đề kiểm tra, giáo viên cần đưa ra từ hay cụm từ khóa ngắn gọn, rõ ràng,
cụ thể, khái quát được chủ đề của phần kiến thức cần kiểm tra trong câu hỏi để
định hướng, giúp học sinh dễ dàng nắm bắt chính xác u cầu đề và có thể vẽ
đúng SĐTD theo yêu cầu.
- Mục đích: kiểm tra được mức độ nắm bài học của toàn bộ học sinh trong
lớp để có hướng điều chỉnh cách dạy phù hợp hơn với đối tượng.
- Các bước thực hiện:
Bước 1: Giáo viên ra đề
Bước 2: Học sinh làm bài
Bước 3: Giáo viên chấm bài, trả bài và nhận xét
* Ví dụ 1
Cho từ khóa “Nhân vật Mị”. Em hãy vẽ sơ đồ tư duy về nhân vật.
16


SƠ ĐỜ MINH HỌA

Lưu ý:
- Giáo viên có thể linh hoạt sử dụng các câu hỏi yêu cầu học sinh lập
SĐTD ở khâu kiểm tra bài cũ và kiểm tra viết (15 phút) hoán đổi cho nhau đều
được.
- Đối với kiểm tra miệng, 15 phút ta lấy thang điểm 10; cịn đối với kiểm
tra 1 tiết thì tùy theo mức độ của từng câu hỏi, ta có thể cho từ 2 – 3 điểm. (xem
như câu hỏi yêu cầu lập SĐTD là một phần trong đề kiểm tra).
2. Sử dụng SĐTD trong dạy học bài mới
Lâu nay, việc sử dụng SĐTD như một công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc dạy

học bài mới thì ít nhiều giáo viên chúng ta đã và đang ứng dụng. Tuy nhiên, việc
sử dụng SĐTD vừa để tổ chức, dẫn dắt cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá,
chiếm lĩnh kiến thức bài học lại vừa thay thế cho việc ghi bảng cô đọng kiến
thức tiết dạy, bài dạy của giáo viên thì quả là việc làm còn hết sức mới mẻ. Qua
trao đổi với anh chị em giáo viên trong tổ chuyên môn, trong trường, trong cụm
trường ở những buổi sinh hoạt chuyên mơn, hầu hết anh chị em đều có chung
17


quan niệm xem SĐTD là công cụ, phương tiện, là một thứ “bảng phụ” hỗ trợ,
minh họa cho tiết dạy mà thôi. Ai cũng cho rằng không thể dùng SĐTD thay cho
phần ghi bảng của giáo viên được. Thực ra thì ta vẫn có thể thực hiện kết hợp
chúng trong quá trình dạy học bài mới. Qua một quá trình thử nghiệm chúng
trong một số tiết dạy, tôi nhận thấy rõ ràng cách làm này ta hồn tồn có thể làm
được. Không những thế, việc kết hợp sử dụng SĐTD trong việc tổ chức dạy học
bài mới với việc sử dụng nó để cơ đọng kiến thức thay cho việc ghi bảng lại tiết
kiệm được rất nhiều thời gian trên lớp, lại vừa có tác dụng hình thành cho học
sinh có thói quen ghi chép bằng SĐTD. Đây cũng là việc làm rất cần thiết góp
phần rèn luyện kĩ năng vẽ SĐTD cho các em, nhất là những bài học nhằm giới
thiệu, cung cấp kiến thức.
2.1. Sử dụng sơ đồ tư duy trong hoạt động tìm hiểu Tiểu dẫn
Đây là hoạt động thứ hai trong tiến trình tìm hiểu bài mới. Hoạt động này
sẽ cung cấp cho học sinh những tri thức chung nhất về tác giả, tác phẩm. Rất
nhiều giáo viên xem nhẹ vai trò của hoạt động này và thưởng bỏ qua khi dạy
bài. Tuy nhiên, bản thân tơi cho rằng đây là hoạt động có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng trong q trình tiếp cận văn bản. Đây là bước đầu tiên giúp học sinh mở
cánh cửa bước chân vào khám phá thế giới nội dung, tư tưởng của tác phẩm.
Hơn nữa, đối tượng học sinh yếu kém chiếm tỉ lệ khá nhiều ở học sinh khối 12
Trung tâm GDNN – GDTX Yên Lạc. Đối với những đối tượng này, việc giáo
viên khái quát tốt kiến thức phần tiểu dẫn sẽ là cơ sở giúp các em viết phần mở

bài trong bài nghị luận văn học. Như vậy, bắt buộc học sinh phải nhớ được kiến
thức cơ bản ở phần này. Tuy nhiên, để tránh tâm lý hoảng sợ vì kiến thức q
nhiều, trong phần này, tơi sẽ xây dựng cho các em một sơ đồ tư duy chung.
Nhiệm vụ của các em là chỉ cần lắp ghép thêm một số từ, cụm từ, câu khuyết
thiếu.
- Mục đích: giúp học sinh nắm được những đơn vị kiến thức cơ bản về tác
giả, tác phẩm. Đối tượng học sinh yếu kém sẽ có cơ sở để viết phần mở bài.
- Các bước thực hiện:

18


Bước 1: Giáo viên xây dựng sơ đồ tư duy chung cho hoạt động tìm hiểu
chung
Bước 2: Học sinh hồn thiện sơ đồ
Bước 3: Giáo viên nhận xét, bổ sung, chốt ý
Lưu ý:
- Giáo viên xây dựng mơ hình chung nhưng mỗi học sinh sẽ thể hiện
được sự sáng tạo riêng của bản thân qua các hình vẽ minh họa theo trí tưởng
tượng của các em. Giáo viên sẽ để những khoảng trống để học sinh sáng tạo.
SƠ ĐỒ MINH HỌA VỀ TÁC GIẢ

SƠ ĐỒ MINH HỌA VỀ TÁC PHẨM

19


2.2. Sử dụng sơ đồ tư duy trong hoạt động Đọc- hiểu văn bản
Hoạt động đọc hiểu văn bản là hoạt động trọng tâm của mỗi tiết dạy. Hầu
hết các tác phẩm văn xi trong chương trình ngữ văn lớp 12 đều kéo dài trong

ít nhất 2 tiết. Vì vậy, hệ thống kiến thức sẽ bị tách giữa các tiết. Việc nắm được
sơ đồ tư duy của cả phần sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức một cách liền
mạch, khơng đứt đoạn, dễ dàng cho q trình tư duy và học bài. Hơn nữa, mỗi
tác phẩm văn xuôi trong chương trình Ngữ văn lớp 12 đều có các “nhân vật”
trung tâm. Việc đi tìm hiểu nội dung, tư tưởng của tác phẩm thường xoay quanh
việc tìm hiểu các nhân vật. Bởi thế, trong hoạt động đọc hiểu văn bản, việc sử
dụng sơ đồ tư duy sẽ theo hai hướng: một là, xây dựng sơ đồ tư duy hệ thống
kiến thức toàn bài, hai là xây dựng sơ đồ tư duy về nhân vật.
2.2.1. Xây dựng sơ đồ tư duy hệ thống kiến thức tồn bài
- Mục đích: giúp học sinh nắm được một cách khái quát nhất các hệ thống
ý cơ bản của toàn bài dạy, học sinh nắm được liền mạch hệ thống kiến thức.
- Các bước thực hiện:
Bước 1: Giáo viên phát sơ đồ tư duy còn khuyết thiếu
Bước 2: Học đến phần nào học sinh sẽ tự hồn thiện sơ đồ đến đó.
Bước 3: Kết thức bài học, học sinh sẽ hoàn thiện được sơ đồ. Nhìn vào sơ
đồ, học sinh sẽ nắm được tồn bộ kiến thức.
SƠ ĐỒ MINH HỌA

20


2.2.2. Xây dựng sơ đồ tư duy về nhân vật
- Mục đích: giúp học sinh nắm được cách tìm hiểu chung về một nhân vật
và các kiến thức cơ bản về nhân vật ấy.
- Các bước thực hiện:
Bước 1: Giáo viên xây dựng sơ đồ tư duy về nhân vật
Bước 2: Học sinh hoàn thiện sơ đồ
Bước 3: Giáo viên nhận xét và chốt ý.
Lưu ý:
+ Giáo viên có thể cho học sinh hoàn thiện sơ đồ trước khi bắt đầu bài

giảng với câu lệnh “Bằng những kiến thức đã tìm hiểu trước ở nhà, em hãy
hoàn thiện sơ đồ tư duy sau”, hồn thiện từng phần trong q trình bài giảng,
hoàn thiện sau bài giảng với câu lệnh “Bằng những kiến thức vừa học, em hãy
hoàn thiện sơ đồ tư duy sau”.
+ Giáo viên có thể yêu cầu học sinh làm việc cá nhân hoặc làm việc nhóm
để hồn thiện sơ đồ tư duy.

SƠ ĐỒ MINH HỌA

21


3. Sử dụng SĐTD trong việc hệ thống, củng cố kiến thức sau mỗi bài
học, mỗi phần của bài học
Sau khi dạy xong mỗi phần (một đơn vị kiến thức) của bài học, hay mỗi
bài học, giáo viên cho học sinh hình dung, nhớ lại và vẽ SĐTD để củng cố, hệ
thống phần kiến thức đó, hoặc tồn bộ kiến thức của bài học.
Theo chúng tôi, việc sử dụng sơ đồ tư duy trong hoạt động củng cố bài học
mang lại khá nhiều ưu điểm. Việc sử dụng sơ đồ tư duy sẽ khái quát toàn bộ nội
dung mà học sinh được học trong tiết học, giúp các em nắm chắc các đơn vị kiến
thức và hệ thống hóa, liên kết chúng lại với nhau thành một chỉnh thể sinh động.
Việc sử dụng sơ đồ tư duy sẽ kết hợp tối ưu với phương pháp xây dựng bài học
1 trang để giúp học sinh giảm bớt thời gian học tập, tăng tính chủ động, linh
hoạt trong hoạt động tự học, và từ đó, kích thích khả năng tự học của học sinh.
- Mục đích: củng cố lại kiến thức của mỗi bài học.
- Các bước thực hiện:
Bước 1: Giáo viên đưa ra từ chìa khóa
Bước 2: Học sinh vẽ sơ đồ tư duy
Bước 3: Nhận xét, chỉnh sửa
SƠ ĐỒ MINH HỌA


Tóm lại, với những ưu điểm của mình, sơ đồ tư duy trở thành một cơng
cụ gợi mở, kích thích q trình tìm tịi kiến thức của học sinh. Việc sử dụng
SĐTD trong quá trình dạy học giúp các em học tập một cách chủ động, tích cực
và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng.
22


Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng em khơng chỉ về trí
ṭ (vẽ, viết gì trên SĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã
học trước đó vào việc chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình
bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua
sách vở vào cuộc sống.
Sơ đồ tư duy cịn là một cơng cụ tư duy thực sự hiệu quả trong hoạt động
nhóm bởi nó tối đa hoá được nguồn lực của cá nhân và tập thể. Mỗi thành viên
đều rèn luyện được khả năng tư duy, kỹ năng thuyết trình và làm việc khoa học.
Sử dụng SĐTD giúp cho các thành viên hiểu được nội dung bài học một cách rõ
ràng và hệ thống. Việc ghi nhớ cũng như vận dụng cũng sẽ tốt hơn. Chỉ cần nhìn
vào Sơ đồ tư duy, bất kỳ thành viên nào của nhóm cũng có thể thuyết trình được
nội dung bài học.
Việc vận dụng SĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch
lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống,
khoa học. Sử dụng SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác
như vấn đáp gợi mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp phần đổi mới
PPDH, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp THPT.
4. Giáo án minh họa sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy tác phẩm
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
Tiết 49: AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DỊNG SƠNG?
Hồng Phủ Ngọc Tường
I. Mục tiêu bài học

Giúp học sinh hiểu được:
- Kiến thức: Vẻ đẹp của dòng sơng Hương, phong cách nghệ thuật của
Hồng Phủ Ngọc Tường.
- Kỹ năng: Cảm thụ tác phẩm kí.
- Thái đợ: Tình yêu, niềm tự hào tha thiết, sâu lắng của tác giả dành cho
dịng sơng q hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước.
II. Phương pháp dạy học
- Gợi mở, phát vấn, thảo luận nhóm, thuyết giảng.
23


×