Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn từ tiếng phổ thông cho trẻ dân tộc thiểu số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.95 KB, 14 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NHƯ XUÂN
TRƯỜNG: MẦM NON THANH XUÂN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT VÀI KINH NGHIỆM CUNG CẤP VỐN TIẾNG
PHỔ THÔNG CHO TRẺ DÂN TỘC THIỂU SỐ
Người thực hiện: Trần Thị Oanh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường Mầm non Thanh Xuân
SKKN thuộc lĩnh vực ( Phát triển ngôn ngữ phổ thông )
NHƯ XUÂN NĂM 2014
- 1 -
- 2 -
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Giáo dục Mầm non là điểm xuất phát để các em làm quen với môi trường
hoạt động có tổ chức. Nhưng trên cơ sở chơi mà học, học mà chơi để các em
làm quen với môi trường học tập. Biết cách xử lý những tình huống đơn giản
nhưng cần thiết, là nền móng của việc học tập tốt hơn trong những năm tiếp
theo. Nhất là trong quá trình thực hiện giáo dục theo chương trình mới đối với
trẻ mầm non càng khó khăn hơn.
Đối với trẻ vùng cao cần được sự quan tâm chăm sóc và điều chỉnh ngay từ
khi trẻ bắt đầu vào làm quen với môi trường học tập, vận động vui chơi theo
nhóm, tạo động lực cho trẻ phát huy khả năng của trể ở các hoạt động theo khả
năng, năng khiếu của trẻ.
Tôi công tác tại xã vùng cao của huyện Như Xuân trẻ ở đây chủ yếu là dân
tộc ( Dân tộc Thái là đa số) việc giao tiếp giữa cô và trẻ, trẻ và trẻ cũng bất
cập. Trẻ ở đây chủ yếu dùng ngôn ngữ địa phương ( Tiếng Thái) là chủ yếu. Từ
khi sinh ra đến khi đến trường trẻ thường xuyên sử dụng ngôn ngữ địa phương
nên việc giao tiếp gặp không ít khó khăn.
Như chúng ta đã biết, nhiệm vụ giáo dục Mầm non là khâu đầu tiên của hệ
thống giáo dục Quốc dân. Giáo viên Mầm non được xem là người thầy đầu
tiên đặt nền móng cho việc đào tạo nhân cách con người mới cho xã hội chủ


nghĩa, tuỳ theo mỗi độ tuổi mà giáo dục khác nhau. Tuổi Mẫu giáo trẻ mới bắt
đầu trong quá trình học nói, chính vì vậy mà cung cấp vốn Tiếng phổ thông
cho trẻ, đặc biệt là Dân tộc thiểu số là vô cùng quan trọng. Bởi vì các cháu dân
tộc thiểu số thường hay dùng tiếng mẹ đẻ của trẻ, nên khó khăn trong việc tiếp
nhận Tiếng phổ thông, dẫn đến cháu khó tiếp thu lời giảng của cô bằng ngôn
ngữ Tiếng việt. Chính vì vậy việc cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ Dân tộc
thiểu số là vấn đề cần được quan tâm, nhằm hình thành và phát triển những kỷ
năng cần thiết cho việc học Tiếng việt ở lớp một phổ thông. Thông qua các tiết
dạy và học tôi nhận thấy cần phải xây dựng một phương pháp để làm sao cho
trẻ vùng cao ( trẻ dân tộc thiểu số) có kĩ năng sử dụng ngôn ngữ tiếng phổ
thông tốt nhất để việc học tập của các em cũng dễ dàng hơn. Để các em học tốt
các môn học và tiếp nhận thông tin, xử lí thông tin một cách chính xác, đúng
đối tượng, đúng theo yêu cầu.
1. Cơ sở lý luận
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta sử dụng lời nói để trò chuyện, đàm
thoại, thảo luận, trình bày những hiểu biết, suy nghĩ, giải thích một vấn đề nào
đó trong cuộc sống như: Kể lại được sự việc, câu chuyện cho người khác nghe
cần thông qua đối thoại bằng ngôn ngữ phổ thông để diễn đạt thông tin nhằm
mục đích để người nghe hiểu được nội dung cần truyền tải. Trẻ Mầm non cũng
cần thiết phải có vốn kỹ năng nói một cách thuần thục về Tiếng Việt ( tiếng
phổ thông ) để giao tiếp thường ngày. Vì vậy trẻ cần tập nghe, hiểu lời nói của
cô và nêu được các vấn đề cần thiết có liên quan đến bản thân, hiểu được nội
dung thông tin của những người xung quanh cần trao đổi. Sau đó tập trình bày
- 3 -
suy nghĩ và sự hiểu biết của mình theo ngôn ngữ Tiếng việt. Muốn phát triển ở
trẻ kỷ năng, hiểu và nói được ngôn ngữ Tiếng việt theo cô, theo tôi trước hết
phải cuốn hút trẻ tham gia vào hoạt động phát triển ngôn ngữ qua trò chuyện,
đàm thoại, kể chuyện, đọc cho trẻ nghe, cho trẻ làm quen với chữ cái và thông
qua các môn học khác, hoặc ở mọi lúc mọi nơi Là vô cùng quan trọng nhưng
hình thành như thế nào đây mới thật là điều không phải dễ. Vì đối tượng trẻ ở

còn nhiều các yếu tố khác như nói ngọng, chưa hiểu được các thông tin, những
yêu cầu của cô trẻ chưa nghe, chưa thấy bao giờ hay ngôn ngữ địa phượng của
trẻ gọi nó là một đối tượng khác, cái tên khác,…
Trong quá trình hoạt động vui chơi trẻ thiếu tự tin hoặc thực hiện các vấn đề
một cách thụ động không tự giác do trẻ hiểu vấn đề không rõ ràng sát thực,
không hiểu được nội dung, vấn đề được thực hiện hoặc yêu cầu được thực hiện
từ cô.
- 4 -
II. THỰC TRẠNG.
1. Thực trạng của lớp.
Năm nay tôi được trường phân công dạy lớp 5 tuổi tại khu trung tâm, tổng
số cháu là 33 cháu. Trong đó độ tuổi trẻ là trẻ 5 tuổi chuẩn bị vào lớp 1. Hầu
hết các cháu là trẻ dân tộc, có 7 trẻ dân tộc kinh và 26 trẻ dân tộc thiểu số. Trẻ
chưa có ý vốn ngôn ngữ phổ thông nhiều vì ở nhà hay tại thôn bản trẻ giao tiếp
với người lớn, bạn bè đều bằng tiếng dân tộc (tiếng thái ) nên việc làm quen
với các môn học và các pháp âm, diễn đạt của trẻ hạn chế.
Trẻ ở chủ yếu là thôn bản dân tộc thiểu số 100% đường xá đi lại khó khăn.
2. Khó khăn.
Như tôi nêu ở trên trẻ lớp tôi vừa đông vừa nghèo về ngôn ngữ giao tiếp. Trẻ
chủ yếu sống ở thôn bản dân tộc thiểu số 100%. Nên việc dạy trẻ rất khó khăn,
hơn nữa trẻ lớp tôi là trẻ tiền đề cho cấp Tiểu học liên quan đến chất lượng,
nhận thức, tiếp thu, và cũng là bước đệm cho trẻ bước vào lớp 1 học tập tốt
hơn.
Đường xá đi lại của trẻ rất khó khăn, kinh tế dân cư nghèo chiếm tới 50% vì
vậy việc quan tâm học của phụ huynh cũng ít đi. Phụ huynh gửi trẻ ở bán trú
như giao nhiệm vụ cho nhà trường nhất là cô giáo chủ nhiệm. những lúc yêu
cầu trẻ thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu rất khó vì trẻ hiểu không rõ vấn đề
được yêu cầu thực hiện.
Một số đồ dùng học tập đối với trẻ cũng thật là xa lạ, nên việc học đến với
trẻ cũng thật là ngỡ ngàng. Bởi vì trẻ không hiểu hết ngôn ngữ Tiếng việt của

cô hoặc trẻ hiểu một cách không rõ ràng không xá định được thông tin nhận
được là gì dẫn đến việc học của trẻ và việc dạy của cô vô cùng khó khăn.
Việc giao tiếp bằng tiếng phổ thông đối với trẻ là việc khó khăn, các cháu
nghèo về vốn từ
Việc phát âm của trẻ cũng thường xuyên nhầm lẫm như l-n; b-v; đ-l,
DV: làm trẻ thường phát âm ra đàm hay về trẻ nói thành bề, ….
Trẻ thường hay thụ động các hoạt động trong ngày, định hướng hoạt động
chưa tốt lắm.
2 Thuận lợi.
Bên cạnh những khó khăn trên tôi cũng có một số thuận lợi như:
- Được sự quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện của BGH cũng như đồng nghiệp
dạy cùng nhóm trẻ, nhất là giáo viên đứng cùng lớp với tôi. Đã giúp tôi nhiều
trong công tác nghiên cứu thực hiện, việc hỗ trợ tôi hướng dẫn trẻ thực hiện và
rèn kĩ năng nghe, nói, giao tiếp thông dụng thường ngày.
- Trẻ được ở bán trú tôi có điều kiện quan satstrong quá trình học ăn, chơi ngủ
của trẻ để thường xuyên giao tiếp nhiều tạo điều kiện cho trẻ được giao tiếp
- 5 -
nhiều từ đó uốn nắn trẻ theo các mức độ.
- Lớp có bộ đồ dùng dạy học do cấp trên cấp và các dụng cụ vui chơi trong giờ
hoạt động góc, nhóm, hoạt động vui chơi ngoài trời cũng là cuung cụ giúp tôi
thực hiện từ hành vi đến ngôn ngữ cho trẻ.
- Tôi dạy lớp trẻ lớn nên việc uốn nắn cho trẻ cũng có phần dễ hơn ý thức của
trẻ đã có ít nhiều.
- Tôi thường xuyên có các buổi trao đổi với phụ huynh trong giờ đón trẻ và trả
trả về vấn đề rèn kĩ năng sử dụng tiếng phổ thông cho trẻ ở nhà để trẻ tiếp xúc
nhiều với việc nghe, nói một cách thuần thục.
- Trẻ vùng dân tộc được bổ trợ thêm một phần tiếng việt trong ngày theo
chương trình mới hiện hành.
Vì vậy tôi đã thực hiện điều tra, khảo sát trẻ để có biện pháp đổi mới điều
chỉnh việc dạy và học cho trẻ có chất lượng hơn. Ngôn ngữ phổ thông là

phương tiện giao tiếp thông tin hai chiều. đồ dùng, đồ chơi là là cộng cụ để cụ
thể hóa ngôn ngữ mà trẻ còn mắc phải trong khi phát âm, trong khi hoạt động
chưa nhận thức hay nhận diện rõ vấn đề cần hoạt động hay thực hiện của trẻ
trong một thời gian có kết quả như sau:
a) Kết quả điều tra tháng 8-9-10
Bảng thống kê số liệu trẻ mắc lỗi có trẻ mắc nhiều lỗi cùng trên một trẻ
Tổng số trẻ Ngôn ngữ Phát âm
Nhận và xử
lí thông tin
Nhận diện
đồ dùng
33 15 17 9 10
Với tình hình thực tế của lớp tôi như vậy, bản thân tôi luôn trăn trở, suy
nghĩ nhiều lúc thấy vô cùng lo lắng, không biết làm gì và làm như thế nào,
bằng phương pháp gì để giúp trẻ hiểu và nói được Tiếng việt ( Tiếng phổ thông
) một cách trôi chảy, chính vì điều băn khoăn trăn trở ấy bản thân tôi đã tìm tòi
nghiên cứu một số biện pháp nhằm giúp trẻ ham thích được đến lớp, ham thích
học tập, và nhất là ham học hỏi Tiếng phổ thông để trẻ học tốt tất cả các môn
học.
- 6 -
III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Việc cho trẻ Dân tộc thiểu số làm quen với Tiếng phổ thông là một việc làm
hết sức cần thiết, tưởng chừng như rất dễ nhưng thực tế lại rất khó, dạy trẻ làm
quen với Tiếng phổ thông là dạy cái gì, dạy như thế nào? Trẻ làm quen với
tiếng việt với tư cách là bộ môn khoa học hay với tư cách là một công cụ, một
phương tiện giao tiếp. Cách trả lời những câu hỏi trên sẽ liên quan tới việc lựa
chọn nội dung, phương pháp cho trẻ dân tộc tiếp cận, làm quen dần với Tiếng
phổ thông. Từ đó tôi quyết định nghiên cứu những nội dung phù hợp để áp
dụng vào dạy trẻ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác giảng dạy
cho trẻ vùng cao của xã Thanh Xuân trên các môn học và hoạt động như sau:

1. Dạy trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái Tiếng việt:
Nội dung chủ yếu của việc dạy này là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng
chữ cái. Chúng ta có thể coi việc giúp trẻ làm quen với chữ cái là cốt lõi của
việc làm quen với Tiếng phổ thông có nghĩa là việc cho trẻ làm quen với chữ
cái chưa phải là tất cả những nội dung công việc giúp trẻ làm quen với Tiếng
phổ thông .Cách gọi làm quen với Tiếng việt thường gợi ra một phạm vi nội
dung rộng rãi hơn so với cách gọi làm quen với chữ cái .Do đó có thể thấy nội
dung dạy trẻ làm quen với Tiếng phổ thông không chỉ là dạy trẻ phát âm ,dạy
trẻ tập tô 29 chữ cái mà còn dạy trẻ đọc đúng các từ, hiểu được nội dung của
từ và biết dùng từ để diễn đạt thành câu, muốn được như vậy trước hết ta phải
giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chư cái trong Tiếng phổ thông. Dựa trên
các lỗi phát âm thường thấy như ở trên tôi đã đưa ra.
Có một số ít trẻ nói được Tiếng phổ thông nhưng chưa biết các chữ cái hay từ
ngữ của Tiếng việt .Vì vậy ,việc dạy trẻ làm quen với chữ cái giúp trẻ nhận biết
chính xác cấu tạo của chữ cái, cách phát âm để từ đó trẻ nghe cô phát âm để
tìm được chữ cái tương ứng, nhìn chữ cái phát âm được chữ cái tương ứng.
đây là vấn đề cốt lõi để trẻ đọc đúng hiểu đúng thông tin.
Ví dụ : Hôm nay cô cho trẻ nhận biết chữ b chẳng hạn :
Cô cho trẻ phát âm nhiều lần và đọc chậm, rất chậm cho trẻ đọc theo
và kết hợp cho trẻ nhận diện hình ảnh ( Cái bàn ).
Trẻ nhận biết trong từ Cái bàn có bao nhiêu tiếng ? Có mấy con chữ
cái ?
Rồi cô ghép thẻ từ rời cho cháu nhận biết dấu thanh tìm chữ đã học rồi
phát âm lại những chữ đó .Còn lại cô giới thiệu cho trẻ làm quen b, tôi phân
tích các nét cơ bản cấu tạo nên chữ cái b, cho trẻ phát âm chữ b nhiều lần giúp
trẻ khắc sâu cấu tạo của chữ cái và trẻ nhận biết một cách chính xác từng chữ
cái. Nhất là trẻ phát âm sai khó uốn năn sửa chữa.

- 7 -
2. Cung cấp vốn Tiếng phổ thông cho trẻ thông qua các trò chơi chữ cái :

Sau khi giúp trẻ làm quen và nắm được 29 chữ cái trong Tiếng phổ thông
tôi tiến hành cho trẻ tham gia các trò chơi với chữ cái, cho trẻ tập tô chữ cái
giúp trẻ dần dần nắm được toàn bộ hệ thống chữ cái qui định trong chương
trình, đồng thời chính xác hoá cách phát âm. Do đặc điểm của lứa tuổi nên việc
giáo dục trẻ mẫu giáo được tiến hành theo phương châm học bằng chơi, chơi
mà học.Từ đó tôi luôn nghĩ cần phải phát huy hết tác dụng của các trò chơi để
dạy trẻ. Ở đây nhằm nhận biết chữ cái cũng là yếu tố quan trọng nhưng bên
cạnh đó cần chú ý sửa sai cho trẻ một cách cụ thể dất khoát để trẻ đọc đúng,
nhận diện đúng.
Điều đáng chú ý là trẻ Mẫu giáo rất ham thích được học qua hình ảnh trực
quan, tổ chức hoạt động học thông qua các trò chơi .Mỗi khi được nhìn thấy đồ
dùng, đồ chơi trẻ rất vui, thích tìm hiểu sờ mó và cùng nhau khám phá, nắm
bắt được đặc điểm này tôi đã không ngừng học sưu tầm những trò chơi hay,
mới lạ trên báo chí, thông tin đại chúng để đưa vào dạy trẻ phù hợp theo nội
dung từng chủ đề, chủ điểm.
Ví dụ: Trò chơi tìm chữ cái B trong lời bài hát " Bà còng"
Tôi viết lời bài hát lên giấy rô ki ( mỗi tờ một bài), tôi mời lớp tôi chia làm
3 đội lên dùng bút tìm và gạch chân chữ B có trong từ có trong mỗi câu, đội
nào tìm gạch chân được nhiều chữ B thì chiến thắng và được tuyên dương.
Tôi còn cho trẻ nhận biết và phát âm chữ cái qua nhiều trò chơi khác như
" Nối chữ cái với từ có chứa chữ cái đó". " Đưa chữ cái theo yêu cầu của cô"
gắn trên đồ dùng, đồ chơi, " Xếp chữ cái bằng hột hạt". " Xếp các nét cơ bản
tạo thành chữ cái"
Bên cạnh đó tôi luôn tranh thủ thời gian tự làm thêm một số đồ dùng đồ
chơi để cho trẻ được thực hành trãi nghiệm. Tôi thiết nghĩ trẻ được thực hành
trãi nghiệm nhiều với đồ dùng đồ chơi sẽ giúp trẻ ghi nhớ chữ cái một cách sâu
sắc hơn .Từ đó cũng góp phần không nhỏ vào việc cung cấp vốn Tiếng phổ
thông cho trẻ. Qua một thời gian thực hiện lớp tôi tiến bộ rõ rệt, cháu hứng thứ
trong học tập, nhiều cháu thuộc chữ cái và phát âm đúng chữ cái do tôi cung
cấp.Tôi tiến hành áp dụng, và cũng là hướng để tôi tiếp tục cho trẻ học.

3. Cung cấp Tiếng phổ thông qua tập tô :
Nhằm cung cấp cho trẻ những kiến thức và kĩ năng sơ giản ban đầu về cách
tô nét cơ bản và tô đúng quy trình chữ cái đối với trẻ miền núi lại càng khó
khăn. Vì trẻ chưa biết cầm bút ra làm sao? Nhất là ý thức học tập của trẻ chưa
có, bên cạnh đó tính cách của trẻ rất hiếu động, trẻ thực hiện thụ động ít chịu
ngồi im và lắng nghe cô dạy. Vì trẻ từ nhỏ đã quá tự do, ít được sự quan tâm
dạy dỗ của cha mẹ. Vì vậy trẻ rất cần sự uốn nắn dìu dắt của cô giáo ngay từ
những buổi học đầu tiên. Bản thân tôi luôn trăn trở, suy nghĩ để tìm ra những
- 8 -
biện pháp phù hợp áp dụng vào dạy trẻ, giúp các cháu tô đúng quy trình, các
nét tô mạch lạc, cầm bút đúng cách và ham thích học. Tất cả các thao tác tôi
luôn hướng dẫn và làm mẫu cho trẻ quan sát từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ
đến khó, tập dần dần cho trẻ. Như tập tô các nét cơ bản của chữ cái ( ở một số
tuần đầu ) các nét thẳng, nét cong, nét móc trên , nét sổ dưới, nét khuyết trên ,
nét khuyết dưới sau tập tô dần các chữ cái viết thường, in thường. Cô luyện
cho trẻ tập tô chữ theo từng bước như sau: Nhận dạng mẫu chữ, tìm hiểu cấu
tạo chữ gồm những nét cơ bản nào. Gồm bao nhiêu nét những nét đó được bắt
đầu từ đâu, kết thúc ở đâu
Ví dụ : Chữ h in thường gồm có nét thẳng đứng kết hợp nét móc trên.
Chữ h viết thường gồm có nét khuyết trên kết hợp nét móc hai đầu
Tôi hướng dấn cách tô như sau: Điểm đặt bút trên khuôn chữ tập tô trong vở
tập tô được phóng to trên giấy A4. cô dùng bút dạ bắt đầu thực hiện vừa thực
hiện vừa hướng dẫn cho trẻ kết hợp nghe và quan sát.
Cô thực hiện nhiều lần sau đó cho vài trẻ thực hiện trên giấy A4 cho cả lớp
xem. Giáo viên nhận xét sửa chữa cho trẻ thấy.
Cô cho trẻ tô trên vở trước khi tô cô hỏi trẻ bắt đầu từ đâu kết thức ở đâu để
trẻ hình dung ra quy trình cần thực hiện.
Ngoài việc học ở lớp sau những giờ trả trẻ tôi nhắc nhở phụ huynh về hướng
dẫn cho trẻ tô trên vở tập tô của trẻ ở nhà và nêu rõ những trẻ thường mắc lỗi ở
điểm nào để phụ huynh biết cách cùng điều chỉnh cho trẻ.

Sau một thời gian tôi nhận thấy trẻ có tiến bộ rõ rệt thực hành một cách thành
thạo trong vở tập tô của trẻ

4. Cung cấp vốn Tiếng phổ thông cho trẻ thông qua môn văn học:
Để giúp trẻ học ngôn ngữ và nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ Tiếng
phổ thông trong học tập cũng như trong cuộc sống. Tôi nghĩ trước hết cần dạy
trẻ những kỹ năng chú ý nghe và phát âm thông qua môn văn học là vô cùng
cần thiết.
Trước khi vào dạy học thơ hay kể một câu chuyện nào đó, điều đầu tiên tôi
chú ý là lựa chọn bài thơ, câu chuyện không quá dài, có nội dung hấp dẫn trẻ
để cung cấp, vì trẻ dân tộc thiểu số rất hiếu động thời gian tập trung chú ý nghe
cô giảng rất ngắn, nắm được điểm yếu này của lớp tôi luôn tạo ra tình huống
vui nhộn để lôi cuốn trẻ vào giờ học bằng một giọng nói lúc trầm lúc bổng để
gây sự chú ý, khơi gợi tính tò mò của trẻ, đã tạo được tâm thế cho trẻ trước khi
vào học tôi tiến hành đi vào giờ học chính bằng ngôn ngữ giới thiệu hấp dẫn từ
ngữ thật gần, thật dễ hiểu đối với trẻ, tôi đọc thơ hay kể chuyện với giọng thật
truyền cảm, phối hợp các động tác minh học phù hợp, rõ ràng rành mạch,
chuẩn về âm để lôi cuốn trẻ chăm chú lắng nghe, để lĩnh hội từng câu, từng lời
của cô, tiếp đến tôi giảng nội dung câu chuyện, bài thơ một cách ngắn gọn để
- 9 -
giúp trẻ dễ hiểu, tôi tiến hành cho trẻ đọc thơ theo tôi từng câu, tôi luôn đổi
cách cho trẻ đọc thơ theo tổ, nhóm, lớp , cá nhân, hay bạn nam và bạn nữ thi
đua nhằm tạo khí thế cho trẻ trong học thơ, trong khi đọc tôi chú ý để trẻ phát
âm đúng chuẩn sai chỗ nào sửa ngay chỗ đó cho trẻ lđọc lại ngay. Còn đối với
chuyện thì tôi kể nhiều lần và đàm thoại theo trình tự nội dung câu chuyện, và
thể hiện giọng điệu, tính cách của từng nhân vật trong chuyện một cách phù
hợp nhằm giúp trẻ khắc sâu hơn nội dung cũng như tính cách của các nhân vật
trong chuyện, sau đó tôi tiến hành mời cháu khá lên kể lại chuyện cho cả lớp
nghe, tôi không quên khuyến khích trẻ bằng một món quà hay thưởng bằng
một phiếu bé ngoan, song bên cạnh sự đàm thoại giữa cô và trẻ tôi cũng chú

trọng đến thông tin ngược từ trẻ trả lời chưa đúng, chưa đủ diễn đạt không
đúng tôi điều chỉnh ngay và yêu cầu trẻ đó và một số trẻ khác nhắc lại. Chính
nhờ như vậy lớp tôi ngày càng ham thích học thơ, kể chuyện, nhiều cháu thuộc
thơ, kể lại câu chuyện một cách hoàn chỉnh, như vậy việc cung cấp vốn Tiếng
phổ thông cho trẻ dân tộc thiểu số của tôi gặt hái được nhiều thành công hơn
so với trước, tôi vô cùng phấn khởi và tiếp tục áp dụng một số biện pháp khác
để ngày nâng cao hiệu quả hơn.
5. Cung cấp vốn Tiếng phổ thông cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi :
Thực tế cho ta thấy rằng bất đồng ngôn ngữ là rất khó khăn trong giao tiếp,
vì vậy ngoài những biện pháp nêu trên áp dụng có hiệu quả tôi tiến hành cung
cấp vốn tiếng phổ cho trẻ thông qua mọi lúc mọi nơi, mọi hoạt động, giao tiếp.
Như chúng ta đã biết khả năng tiếp thu của trẻ dân tộc thiểu số rất chậm,
mau quên nhưng khi đã nhớ được thì lại nhớ rất lâu nên tôi tiến hành cho trẻ
tiếp xúc với vốn tiếng phổ thông bằng phương châm " Mưa dầm thấm lâu" cho
nên việc cung cấp ngôn ngữ Tiếng phổ thông ở mọi lúc, mọi nơi vô cùng hiệu
quả.
Giờ đón trẻ tôi luôn vui vẻ, thương yêu trẻ, sửa sang quần áo, chãi tóc cho
trẻ và không quên kèm theo một số câu hỏi giao lưu như: Con mặc quần áo đẹp
quá. Con ăn cơm chưa? Ăn bao nhiêu bát? Ăn với thức ăn gì? Con ăn có ngon
không? Hay tôi hỏi về gia đình trẻ: Nhà con có bao nhiêu người? Con có em bé
không? Mẹ con làm gì? Qua trò chuyện với trẻ như vậy tôi nắm được khả
năng phát âm của mỗi trẻ để có biện pháp và giành nhiều thời giờ hơn giúp trẻ
phát âm đúng, phát âm chuẩn.
Giờ chơi tự do tôi hay dẫn trẻ đến các góc trò chuyện và phát âm các từ có
trong tranh, từ ở mỗi góc, tôi dạy trẻ phát âm nhiều lần và cho trẻ chỉ, phát âm
chữ cái đã học qua nhiều lần như vậy trẻ lớp tôi phát âm chuẩn hơn và mạnh
dạn hơn trong giao tiếp với cô, với bạn, bạn biết chỉ cho bạn chưa biết, hoặc
mạnh dạn đến hỏi cô, trẻ lớp tôi không còn rụt rè như trước nữa. Ngoài ra
trong giờ hoạt động ngoài trời tôi cho trẻ ôn kiến thức đã học qua trò chuyện,
đọc thơ, kể chuyện, chơi các trò chơi dân gian, cho trẻ đọc đồng dao, ca dao

trong hoạt động này giúp trẻ phát âm thành thạo hơn, lưu loát hơn, chuẩn hơn
- 10 -
trong tiếng phổ thông.
Giờ vui chơi tôi cho trẻ đóng các vai khác nhau, trẻ được giao lưu trao đổi
mua bán và thể hiện hết vai chơi của mình, bên cạnh đó tôi luôn theo sát trẻ để
kịp thời sửa sai uốn nắn mỗi khi trẻ hỏi hoặc trả lời không trọng tâm hay trẻ
dùng tiếng mẹ đẻ hay nói sai mục đích cần yêu cầu. Chính nhờ vậy mà lớp tôi
đa số trẻ biết dùng từ để diễn đạt thành câu có nghĩa trong giao tiếp với bạn và
với cô.
6. Kết hợp với phụ huynh:
Trong một buổi học trẻ được tiếp xúc với cô rất nhiều nhưng chúng ta biết
phối hợp với gia đình trong việc cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ lại càng tốt
hơn vì vậy tôi tiến hành cho mời phụ huynh đến họp, thông báo kết quả học
của mỗi cháu cho phụ huynh nắm và không quên cho phụ huynh biết khả năng
tiếp thu kiến thức bài học bằng ngôn ngữ Tiếng phổ thông của mỗi cháu ra sao
và rất mong phụ huynh hợp tác trong việc cung cấp Tiếng phổ thông cho trẻ ở
nhà như: Phụ huynh dùng Tiếng phổ thông để trao đổi với con em nhiều hơn,
kèm cặp con em nhiều hơn trong môn học chữ cái, trẻ nắm được chữ cái, thuộc
chữ cái, viết được chữ cái, phát âm đúng chữ cái và nhất là nói thạo Tiếng phổ
thông nhất định con của phụ huynh tiếp thu bài một cách dễ dàng, học giỏi hơn
trong cấp học mầm non và nhất là trong các cấp học sau này. Từ những lời nói
ấy đã thúc đẩy phụ huynh quan tâm đến con em hơn, chăm lo cung cấp vốn
tiếng phổ thông ở nhà cho trẻ nhiều hơn. Cho nên trẻ lớp tôi hiện nay nói thạo,
nói lưu loát ngôn ngữ Tiếng phổ thông, biết dùng từ, câu để diễn đạt điều trẻ
muốn nói, không còn trẻ nói câu không rõ nghĩa, câu thiếu nghĩa,câu thiếu chủ
ngữ, vị ngữ, trẻ mạnh dạn giao lưu cùng cô, cùng bạn. Tôi vô cùng mỹ mãn.
- 11 -
IV. KẾT LUẬN :
. Kết quả đạt được.
Qua một vài kinh nghiệm tôi tự nghiên cứu và áp dụng cung cấp Tiếng

phổ thông vào lớp mình đạt được kết quả sau ba tháng thực nghiệm đạt được
như sau:
Khảo sát đầu năm
Bảng thống kê số liệu trẻ mắc lỗi có trẻ mắc
nhiều lỗi cùng trên một trẻ
Sau thực nghiệm
Bảng thống kê số liệu trẻ mắc lỗi có trẻ mắc
nhiều lỗi cùng trên một trẻ
Tổng số
trẻ
Ngôn
ngữ
Phát âm
Nhận
và xử
lí thông
tin
Nhận
diện
đồ dùng
Tổng số
trẻ
Ngôn
ngữ
Phát âm
Nhận
và xử
lí thông
tin
Nhận

diện
đồ dùng
33 15 17 9 10 33 2 3 0 1

- Đến nay đã có trên 95% cháu nhận biết nhanh và phát âm đúng 29 chữ
cái Tiếng việt.
- 93% cháu biết cách tô các nét cơ bản và tô đúng quy trình .
- 97% cháu hiểu được ngôn ngữ Tiếng phổ thông, biết dùng ngôn ngữ
Tiếng phổ thông để diễn đạt thành câu có nghĩa.
97% trẻ nói lưu loát bằng ngôn ngữ Tiếng phổ thông.
Ngoài trẻ rất mạnh dạn tự tin khi giao tiếp với cô, với bạn lúc ở nhà cũng
như lúc ở trường. trẻ còn tự tin hơn trong học tập và các hoạt động khác, do trẻ
hiểu được nội dung, cấu trúc và cách xử lý một số tình huống trẻ gặp phải.
Kinh nghiệm cung cấp vốn Tiếng phổ thông cho trẻ dân tộc thiểu số là một
vấn đề rất khó khăn và na giải. Đòi hỏi ở cô giáo phải thật sự yêu thương gần
gũi, nhiệt tình, tâm huyết vì trẻ. Luôn tạo tình cảm cho trẻ giao lưu trò chuyện
với cô, nghe hiểu lời nói của cô. Cuốn hút trẻ tham gia vào các hoạt động phát
triển ngôn ngữ thực sự hứng thú. Được thực hiện thông qua các hoạt động giáo
dục ở lớp và được tích hợp vào một số hoạt động khác trong chương trình
chăm sóc giáo dục trẻ.
Từ những vốn kinh nghiệm tích luỹ ấy tôi đã áp dụng và có hiệu quả cao
ở lớp mình một cách có hiệu quả tốt trên lĩnh vực phương diện nhỏ về dạy học
uốn nắn, cung cấp vốn tiếng phổ thông chotrer vùng cao, vùng sâu, vùng dân
tộc thiểu số trên chính lớp của mình tại lớp 5 tuổi khu trung tâm Trường Mầm
non Thanh Xuân xã Thanh Xuân.
Qua việc áp dụng kinh nghiệm vào lớp tôi đang dạy là dân tộc thiểu số.
Tôi nhận thấy việc áp dụng có những thuận lợi và cũng không ít những khó
khăn
- 12 -
- Một số phụ huynh rất thích con mình hiểu biết nhiều về ngôn ngữ Tiếng

phổ thông để thuận tiện trong giao tiếp cũng như trong các hoạt động một cách
chắc chắn, cụ thể hơn.
Bên cạnh đó gặp không ít khó khăn :
- Cháu thường dùng tiếng dân, ít hiểu Tiếng phổ thông nên dẫn đến cháu
khó tiếp thu lời giảng của cô bằng Tiếng phổ thông
- Cha mẹ các cháu hầu hết đều không biết chữ hoặc ít nên dẫn đến sự
quan tâm đến việc học hành của con cái cũng không thực sự tốt.
Trên đây là một vài kinh nghiệm áp dụng trong lớp tôi là dân tộc thiểu
số được thực hiện và đạt hiệu quả cao, những biện pháp trên tuy không có gì
mới lạ đối với các bạn nhưng đối với trẻ dân tộc thiểu số thì vô cùng mới mẽ
và có tác dụng. Tuy nhiên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được
sự góp ý bổ sung của đồng nghiệp, Hội đồng khoa học các cấp.
V. ĐỀ NGHỊ :
Đễ cho các cháu dân tộc thiểu số tiếp cận nhanh chóng với thực trạng
giáo dục hiện nay. Theo tôi đề nghị các cấp lãnh đạo quan tâm nhiểu hơn nữa
về cơ sở trường lớp, trang thiết bị dạy học phù hợp với lứa tuổi, nhất là đồ
dùng đồ chơi cho trẻ. Đó chính là công cụ cũng là phương tiện dẫn đến kết quả
học tập của trẻ
Thanh Xuân, ngày 29 tháng 2 năm 2014
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG Tôi xin cam đoan SKKN trên là do tôi
thực nghiệm tại lớp tôi và do tôi
viết từ sự thực nghiệm đó.
Không sao chép của người khác
Người viết

Trần Thị Oanh
- 13 -
- 14 -

×