Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận TTHCM : Vai trò của tinh hoa văn hóa nhân loại trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.57 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Tổng quan đề tài
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
6. Đóng góp của đề tài
7. Bố cục đề tài
B. NỘI DUNG
Chương 1: Phân tích giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại ảnh hưởng đến sự
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
I . Tinh hoa văn hóa phương Tây đối với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1 Ảnh hưởng của Mỹ đến tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2 Ảnh hưởng của văn hóa Pháp. Anh đến tư tưởng Hồ Chí Minh
1.4 Tôn giáo có ảnh hưởng lớn ở phương Tây
II . Phân tích giá trị của tinh hoa văn hóa phương Đông đến sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh
III Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin lên tư tưởng Hồ Chí Minh
Chương II: Ý nghĩa của tinh hoa văn hóa nhân loại đối với sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam
I Ý nghĩa của tinh hoa văn hóa nhân loại đối với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh
II
C. KẾT LUẬN
I Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại mới
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản quý báu, vẫn luôn là kim chỉ nam
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của Đảng ta trong trong
thời đại mới
1



2. TIẾP TỤC LÀM CHO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LAN TỎA, THẤM SÂU
TRONG ĐẢNG VÀ TRONG XÃ HỘI

II Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu

2


A. Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Văn hoá là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng. Hồ
Chí Minh đã đặt văn hoá ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn
vấn đề chủ yếu của xã hội và các vấn đề này có quan hệ với nhau rất mật coi
trong như nhau.
Văn hoá không thể đứng ngoài mà phải đứng trong kinh tế và chính trị, phải
phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Văn hoá giữ một vai trò quan trọng trong việc phát triển đất nước. Văn hoá là
đời sống tinh thần của xã hội, văn hoá có phát triển thì xã hội đó mới phát triển
và vững mạnh. Vì vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá là
một điều rất cần thiết và rất cần được quan tâm và chú trọng.
2.Tổng quan đề tài (lịch sử nghiên cứu)
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại…. Trong tiểu luận này nhóm chúng em sẽ tập trung tìm hiểu ảnh hưởng của
tinh hoa văn hóa phương Tân đối với sự hình thành tư tưởng của Bác. Từ đó rút
ra Các giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc giải phóng, phát triển dân tộc và
phát triển thế giới.

3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Trang bị cho sinh viên một cách đầy đủ, toàn diện về nhận thức. Qua đó giúp
sinh viên có cái nhìn khái quát, biết vận dụng kiến thức đó với tình hình thực
tiễn của đất nước, liên hệ với bản thân qua tu dưỡng rèn luyện theo phong cách
Hồ Chí Minh.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tiểu luận được nghiên cứu trong 2 tuần, đề tài “Vai trò của tinh hoa văn hóa
nhân loại trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh” là đề tài rộng lớn với
nhiều nội dung cơ bản, tiếp nhận của nhiều nên văn hóa lớn trên thế giới. Do
vậy, nhóm chỉ tập trung nghiên cứu về Tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh hoa văn
hóa phương Tây và chủ nghĩa Mác – Lenin.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
3


Trong quá trình nghiên cứu, nhóm sử dụng phương pháp thống kê để đưa ra
dẫn chứng về hiện thực để lý luận cho những mặt tích cực và tiêu cực của xã hội
đối với văn hóa. Kết hợp phương pháp logic với so sánh, tổng hợp, phân tích,
chứng minh.
6. Đóng góp của đề tài
Những tài liệu lịch sử cụ thể cùng hệ thống tư liệu về tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Bố cục của đề tài
Gồm có 2 chương:
Chương 1: Phân tích giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại ảnh hưởng đến sự
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Chương II: Ý nghĩa của tinh hoa văn hóa nhân loại đối với sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam

B. Phân tích
Chương 1: Đặc điểm và nội dung của các giá trị tinh hoa văn hóa

nhân loại có ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
I. Phân tích vai trò của tinh hoa phương Tây đối với việc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh
Trong buổi đầu đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã đi qua,
dừng lại ở nhiều trung tâm của các quốc gia thuộc châu Á, châu Phi, châu Âu và
Bắc Mỹ. Nhưng có lẽ thời gian Người lưu lại, sống và làm việc ở Châu Âu là
nhiều hơn cả, đặc biệt là ở nước Pháp, Anh, Mỹ. Do vậy, tư tưởng và văn hóa
phương Tây - một bộ phận quan trọng của văn hóa nhân loại là một trong các
yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ
Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu nặng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng
phương Tây

1.1 Ảnh hưởng của Mỹ đến tư tưởng Hồ Chí Minh
Mùa hè 1911, Nguyễn Tất Thành vượt biển qua nước Pháp với niềm khao
khát tìm đến đất nước của lý tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. Nhưng Người
4


đã không lưu lại Pháp mà tiếp tục cuộc hành trình tới nhiều quốc gia trên thế
giới vừa kiếm sống bằng nghề thuỷ thủ, vừa khảo sát thực tiễn trong thiên hạ,
hy vọng tìm ra phương cách để trở về cứu nước. Trong quá trình bôn ba hải
ngoại,tìm đường cứu nước, Mỹ là chặng dừng chân tương đối lâu của Nguyễn
Tất Thành. Vào khoảng 1912 Nguyễn Tất Thành đến Mỹ.
Trong thời gian ở Mỹ,Người đã sống, làm việc và tiếp tục học tập tại
New York rồi Brooklin. Người cũng đã qua nhiều thành phố như Boston, New
York, tạm trú một thời gian ngắn ở khu Harlem, nơi sinh sống của người da đen
Mỹ. Người đã đến Mỹ năm 1912 và làm việc trong khách sạn Omni Parker cho
đến năm 1913. Đây là khoảng thời gian vô cùng quan trọng trong cuộc đời ra đi
tìm đường cứu nước của Người,Thời gian sống và làm việc trên đất Mỹ, nhất là
khu vực Harlem, đã để lại cho Người nhiều ấn tượng rất sâu sắc về sự thống khổ

của người da đen Mỹ, đặc biệt là “hành hình kiểu Lynch” và những hoạt động
đầy tội ác của đảng 3K,những cuộc bãi công của công nhân Mỹ chống chiến
tranh, đòi tăng lương.
Sau này (năm 1924) các ấn tượng đó đã được thể hiện lại trong những bài
báo của Người như: “Hành hình kiểu Lynch, một phương diện ít người biết đến
của nền văn minh Mỹ” và “Đảng Ku-Klux-Klan”. Những bài báo đó có giá trị
đặc biệt tố cáo mạnh mẽ tệ phân biệt chủng tộc dã man, đồng thời cũng biểu lộ
sự cảm thông với người da đen, “là giống người bị áp bức và bóc lột nặng nề
nhất trong giống người”. Từ sự cảm thông đó, Người đã tỏ thái độ căm giận bọn
người áp bức thống trị, và rồi sự căm giận đã được thể hiện bằng hành động cụ
thể. Theo báo “Caribbe” (tập IX, số 1) của Mỹ, Nguyễn Tất Thành đã dự đều
đặn các cuộc họp của tổ chức UNIT (Universal Negro Improvement Trust - Hội
tin tưởng cải thiện người da đen của thế giới) và đã hào hiệp góp tiền hưởng
ứng lời kêu gọi về tài chính của Hội”. Trong một cuộc mít tinh do những người
da đen tổ chức,“Hồ Chí Minh đã dốc tất cả tiền trong túi để ủng hộ cuộc đấu
tranh chính nghĩa của họ”. Người luôn tỏ thái độ ủng hộ nhiệt tình và chân
thành cuộc đấu tranh chính nghĩa của những người Mỹ da đen và luôn quan tâm
đến phong trào đấu tranh của nhiều dân tộc khác, từ đó đã góp phần vào “cuộc
chiến đấu cho người Mỹ, đặc biệt là người Mỹ da đen”.
Cũng trong thời gian này, Người có điều kiện tìm hiểu về lịch sử - xã hội
Mỹ, tìm hiểu cuộc Cách mạng Mỹ thế kỷ XVIII (1775 - 1783), nghiên cứu
truyền thống văn hoá Mỹ, đặc biệt là tìm hiểu “Tuyên ngôn độc lập” năm 1776
của nước Mỹ do Th. Jefferson khởi thảo. Những tư tưởng lớn của bản Tuyên
ngôn đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nhận và trích dẫn nhiều lần sau này, và
tên tuổi G. Washington, Th. Jefferson đã thu hút sự chú ý của Người.
+ Người tiếp thu những giá trị về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu
cầu hạnh phúc của “Tuyên ngôn độc lập” năm 1776, quyền của nhân dân kiểm
soát Chính Phủ. Người tiếp thu giá trị tư tưởng nhân quyền với nhân dân là
quyền tự do cá nhân thiêng liêng trong bản Tuyên ngôn độc lập này. Đó là: "Tất
5



cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc"
+ Sau này, Người đã phát triển nó thành quyền sống, quyền tự do, quyền
mưu cầu hạnh phúc cho tất cả các dân tộc. Nội dung nhân quyền được Người
nâng lên một tầm cỡ trong bản “Tuyên ngôn độc lập Việt Nam” năm 1945.
“Hỡi đồng bào cả nước,
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ.
Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.”
Qua nghiên cứu lý luận cũng như theo dõi tình hình thực tế, Nguyễn Ái
Quốc đã nhận ra thực chất của “chủ nghĩa Wilson” chỉ là một “chiếc bánh vẽ”,
là một “trò bịp bợm lớn”. Người đã nhận thức rõ bản chất của “chủ nghĩa
Wilson” được che đậy bằng những lời lẽ mị dân về “dân chủ” và “quyền dân tộc
tự quyết”, “dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc khác đã bị mê hoặc theo
những lời tuyên bố rộng rãi của Wilson”
1.2 Ảnh hưởng của Anh và Pháp đến tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1 Ảnh hưởng của nước Anh
Hiện có nhiều thông tin khác nhau về các mốc thời gian Bác làm việc
ở Anh. Tuy nhiên, giới nghiên cứu lịch sử cả Việt Nam và quốc tế có
lẽ đồng quan điểm rằng thời gian Bác Hồ ở Luân Đôn là từ năm 1913
tới 1917. Những mốc thời gian cụ thể trong những tháng ngày Bác ở
Luân Đôn có thể còn chưa thực sự rõ nhưng một điều rõ ràng không
thể phủ nhận là thời gian Bác ở Thủ đô xứ sương mù đã được lịch sử

thế giới ghi nhận với sự khâm phục về nghị lực và ý chí của một con
người Việt Nam vĩ đại. Tại đây, Bác đã làm rất nhiều việc, từ cào tuyết
cho tới rửa bát, phụ bếp để tồn tại. Mặt khác, Bác rèn luyện trong
phong trào công nhân, tiếp xúc với nhiều với tác phẩm tiến bộ và tìm
hiểu về bản chất của chủ nghĩa tư bản để từ đó tìm ra con đường giải
phóng dân tộc Việt Nam.
1.2.2Ảnh hưởng của nước Pháp
Trên hành trình đến với văn hoá nhân loại, Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng
6


của văn hoá Pháp trước tiên và có lẽ nó cũng để lại những dấu ấn sâu đậm trong
tư tưởng và phong cách văn hoá của Người.Hồ Chí Minh đã sớm bị hấp dẫn bởi
lý tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái trong “Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền” của Đại cách mạng Pháp 1791 và muốn đi sang Pháp để tìm hiểu xem
những gì ẩn đằng sau ba từ ấy. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, Hồ
Chí Minh chính thức lên đường sang Pháp trên chiếc tàu buôn Đô đốc
Latouche-Tréville với hai bàn tay trắng đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi và
khát vọng cháy bỏng tìm "tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi”. Đến
ngày 15 tháng 7 năm 1911, tàu này đến Le Havre, cảng chính ở miền Bắc nước
Pháp và lần đầu tiên Bác đặt chân lên nước Pháp. Lần đầu sang Pháp, Hồ Chí
Minh đã thể hiện bản lĩnh, nhân cách phẩm
chất cao thượng, tư duy độc lập tự chủ.
Từ 1917-1920, Hồ Chí Minh trở lại nước Pháp và sinh sống, hoạt động ở
đây. Tại đây Người tham gia các tổ chức yêu nước, chính trị văn hóa.
- Hồ Chí Minh đã tiếp thu văn hóa, tư tưởng của Pháp
* Tại Pháp, Người đã tiếp xúc trực tiếp với các tác phẩm của các nhà tư tư
tưởng khai sáng như: những lý luận gia của đại cách mạng Pháp 1789, như Tinh
thần pháp luật của Mông-tét-xki-ơ, Khế ước xã hội của Rút-xô, Vonte v.v…tư
tưởng dân chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng tới tư tưởng của Người.

Người đã tiếp thu lý tưởng “nhân quyền, dân quyền và pháp quyền” của
các nhà Khai sáng Pháp và vận dụng nó vào cuộc đấu tranh, phê phán chế độ
thực dân, đòi các quyền ấy cho các dân tộc thuộc địa. Có thể tìm thấy dấu ấn
ảnh hưởng các giá trị của nền Cộng hoà Pháp trong bản Yêu sách của nhân dân
An Nam, lời mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập 1945, trong Hiến pháp đầu tiên
1946
Trong bản Yêu sách tám điểm của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những
người An Nam yêu nước gửi đến hội nghị Vecxay vào ngày 18/06/1919 có ghi
các yêu sách đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu của nhân dân An Nam:
“Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị.
Cải cách nền pháp lí Đông Dương bằng cách để người bản xứ cũng được
quyền hưởng những bảo đảm pháp lí như người châu Âu. Xóa bỏ hoàn toàn
những tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung
thực nhất trong nhân dân An Nam.
Tự do báo chí và tự do ngôn luận.
Tự do lập hội và hội họp.
Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương.
Tự do họp tập, thành lập các trường kĩ thuật tại tất cả các tỉnh cho người
bản xứ.
Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.
Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại
7


Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được nguyện vọng của người bản
xứ.”
Trong bản “Tuyên ngôn độc lập” của Việt Nam năm 1945, Người có nói
“Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791
cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi.” “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi

được.”
Điều 10 bản “Hiến pháp đầu tiên” của Việt Nam năm 1946 quy định rõ
ràng các quyền tự do cá nhân: "Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận,
tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại
trong nước và ra nước ngoài”…
* Ngoài ra, Người còn tiếp thu được tư tưởng dân chủ và hình thành được
phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiễn. Rõ ràng là, ở Pháp,
Người đã có thể hoạt động và đấu tranh cách mạng một cách tương đối tự do,
thuận lợi hơn ở trên đất nước mình, dưới chế độ thuộc địa.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc học được cách thực hiện dân chủ ngay trong
cách sinh hoạt khoa học ở câu lạc bộ Phôbua trong quá trình hoạt động chính trị
ở Đảng Xã hội Pháp (Người tham gia vào đầu năm 1919), tiêu biểu nhất là các
bài tranh luận tại Đại hội Tua (tháng 12-1920).
- Giữa năm 1919, thay mặt hội những người VN ở Pháp, Hồ Chí Minh gửi đến
hội nghị Véc-xây Yêu sách tám điểm đòi các quyền tự do, dân chủ tối thiểu
cho nhân dân An Nam. Từ đây, Người rút ra bài học quý báu: muốn được
giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình.
- Người tham dự Đại hội Tua (12/1920), đồng thời cũng tham gia sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp.
* Người hoạt động, rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp, được sự cổ vũ,
dìu dắt của trực tiếp của nhiều nhà cách mạng, trí thức tiến bộ Pháp như M.
Casanh, P.V. Cu-tuya-ri-ê, G. Mông-mút-xô…mà Hồ Chí Minh đã từng bước
trưởng thành.
- Hồ Chí Minh tiếp thu nhưng có chọn lọc, phù hợp từng điều kiện của đất nước
Người luôn trân trọng các giá trị văn hóa phương Tây và đề cao những
con người chân chính luôn đấu tranh cho hòa bình, tự do của nhân loại. Do vậy,
Người không đồng nhất Chủ nghĩa đế quốc với nhân dân Pháp yêu chuộng hòa
bình. Đó là cơ sở quan trọng của đoàn kết quốc tế.
Người đã nhận ra rằng nền Cộng hoà Pháp chủ yếu được xây dựng trên
quan điểm giá trị về con người cá nhân, nhất là về quyền tự do, bình đẳng của

cá nhân theo tinh thần cách mạng tư sản Pháp. Còn Hồ Chí Minh xuất phát từ vị
trí người dân thuộc địa phương Đông, vốn đề cao tinh thần cộng đồng, luôn đặt
quốc gia, dân tộc lên trên cá nhân. Với Hồ Chí Minh, Tự do trước hết vẫn là tự
do của toàn dân tộc chứ chưa phải là tự do cá nhân. Bình đẳng cũng được Hồ
Chí Minh nâng lên thành quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Còn Bác ái– một
khái niệm quá rộng, như lòng bác ái của Chúa đòi hỏi phải “yêu cả kẻ thù của
8


mình”, là điều khó chấp nhận đối với các dân tộc bị áp bức! Hồ Chí Minh hiểu
khái niệm này theo đúng nghĩa của nó là tình hữu ái, như tinh thần “tứ hải giai
huynh đệ”, nên Người thường quen gọi những người lao động, các dân tộc bị áp
bức là anh em (hỡi anh em ở các thuộc địa!, các dân tộc anh em, các nước anh
em,…).
Tóm lại, Hồ Chí Minh nhận thức Tự do, Bình đẳng, Bác ái qua lăng kính
của người dân bị áp bức châu Á chứ không theo tinh thần cách mạng tư sản
Pháp, nên chỉ coi đó là những yếu tố cần chứ chưa đủ. Cái giá trị lớn nhất mà
Hồ Chí Minh theo đuổi suốt đời là: “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng
bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu”. Điều
quan trọng ấy lại không có trong bảng giá trị của nền Cộng hoà Pháp, vì vậy,
trong thư kêu gọi những người Pháp hãy cộng tác bình đẳng, thân thiện với Việt
Nam để gây dựng hạnh phúc chung cho cả hai dân tộc, Người đã chủ động bổ
sung vào khẩu hiệu ấy một từ nữa: “Người Việt và người Pháp cùng tin tưởng
vào đạo đức: Tự do, Bình Đẳng, Bác ái, Độc lập”. Thêm Độc lập để ràng buộc
họ: “Nước Pháp muốn độc lập, không có lý gì lại muốn nước Việt Nam không
độc lập?”
1.3 Tôn giáo có ảnh hưởng lớn ở phương Tây
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền, chủ nghĩa yêu nước cách mạng
mang biểu tượng của 10 điều răn của Giêhôva: “Người ta sinh ra tự do và bình
đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi”

Tôn giáo Thiên chúa giáo có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả: “Hãy yêu kẻ
thù mình, làm ơn cho kẻ ghét mình, chúc phước cho kẻ rủa mình, và cầu nguyện
cho kẻ sỉ nhục mình...Hễ ai xin, hãy cho...”. Người lên án gay gắt những kẻ
“giả danh Chúa” để thực hiện những “hành vi ác quỷ”: dẫn đường cho đội quân
viễn chinh; cướp của cải, đánh đập, bắt giết người (đặc biệt là trẻ em), chiếm
ruộng đất canh tác, v.v…. Người viết: “Nếu Chúa bất hạnh đã chịu đóng đanh
trên cây thánh giá trở về cõi thế này, thì chắc Ngài sẽ vô cùng ngao ngán khi
thấy “các môn đồ trung thành” của mình thực hiện đức khổ hạnh như thế nào”.
Người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột, đã là hiện thân của lòng nhân ái và
đức hy sinh cao cả. Sau này, Người luôn luôn giáo dục cán bộ, đảng viên về
lòng thương người, thương dân, thương các chiến sỹ ngoài mặt trận – đó là
những tư tưởng thấm đậm những giá trị cao cả mang tính nhân loại mà Thiên
chúa giáo đã khởi xướng và răn dạy.
Như vậy, con đường Hồ Chí Minh tiếp biến các giá trị văn hoá nhân loại
là lựa chọn, tích hợp những nhân tố tiến bộ, hợp lý, cải biến nó cho phù hợp với
truyền thống văn hoá dân tộc và nhu cầu đất nước để tạo ra cách làm riêng đúng
đắn, hiệu quả.
9


II Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin lên tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa Mác – Lênin là đỉnh cao trí tuệ nhân loại bao gồm ba bộ phận
cấu thành: Triết học giúp Hồ Chí Minh hình thành thế giới quan, phương pháp
biện chứng, nhân sinh quan, khoa học, Cách mạng, thấy được những quy luật
vận động phát triển của thế giới và xã hội loài người.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa và Người
nhận thấy: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng
tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong

buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng
bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải
phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”
Người nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, thấm nhuần những chỉ dẫn của
V.I.Lênin: “Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả
năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”[3] để nỗ lực hoạt động, chuẩn bị về
chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam sau đó
và khẳng định: Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt; "Đảng mà
không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ
nam”, "bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Sau đó, Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời đã lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động và điều này được khẳng định trong Luận cương chính trị
năm 1930 Đảng: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản lấy chủ nghĩa Các
Mác và Lênin làm gốc”
Trung thành với những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng Hồ
Chí Minh không giáo điều mà nắm lấy tinh thần, bản chất khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin để vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam trong quá trình:
1) Thành lập Đảng và xây dựng Đảng cầm quyền;
2) Tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong tiến
trình cách mạng;
3) Xây dựng nhà nước kiểu mới;
4) Xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
bỏ qua chế độ chế độ tư bản chủ nghĩa… Lý luận Mác - Lênin là thế giới quan,
nhân sinh quan, là lý luận tiên phong của thời đại được Đảng Cộng sản Việt
Nam vận dụng sáng tạo trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

10



Kinh tế chính trị học vạch rõ các quan hệ xã hội được hình thành phát triển
gắn với quá trình sản xuất, thấy được bản chất bóc lột của chủ nghĩa Tư bản đối
với công nhân, xóa bỏ bóc lột gắn liền với xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa và sự chuyển biến tất yếu của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa xã hội KH vạch ra quy luật phát sinh, hình
thành, phát triển của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, những điều
kiện, tiền đề, nguyên tắc, con đường, học thức, phương pháp của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động để thực hiện sự chuyển biến xã hội từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội, cộng sản.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin với bản chất Cách mạng và khoa học của nó
giúp Người chuyển biến từ Chủ nghĩa yêu nước không có khuynh hướng rõ rệt
thành người cộng sản, chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế, độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thấy vai trò của quần chúng nhân dân,
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, liên minh công nông trí thức và vai trò
lãnh đạo của đảng cộng sản trong cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, bảo đảm thắng lợi cho chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh đã vận động sáng tạo Chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, giải đáp được những vấn đề thực tiễn
đặt ra, đưa cách mạng nước ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Có thể nói, Hồ Chí Minh được hấp thụ một thế giới quan, nhân sinh quan triệt
để cách mạng và khoa học, một vũ khí sắc bén để cải tạo xã hội và con người.
Nhưng từ giác độ văn hoá phương Đông, Hồ Chí Minh nhận thấy chủ nghĩa
Mác-Lênin chủ yếu vẫn được hình thành trên nền tảng triết lý phương Tây,
mang dấu ấn đấu tranh giai cấp ở phương Tây. Để được hoàn thiện, Người kiến
nghị cần bổ sung cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương
Đông, bởi phương Tây chưa phải là toàn thế giới!
Xuất phát từ đặc điểm của văn hoá phương Đông và Việt Nam, Hồ Chí Minh
rất coi trọng sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ dân tộc, đã ra sức củng cố và
mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao Luận

cương của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, coi Luận cương đã đem lại
một thứ ánh sáng như là thiên khải, giúp Người bừng sáng về con đường cứu
nước, giải phóng dân tộc của Việt Nam.
Qua một vài dẫn chứng như trên để thấy rõ: Hồ Chí Minh là người cộng sản
có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, với chủ nghĩa Mác-Lênin, Người cũng
không tiếp thu một cách giáo điều, mà lựa chọn những “cái cần thiết”, phù hợp
11


với truyền thống văn hoá dân tộc và nhu cầu thực tiễn của đất nước. Đó là sự
tiếp thu có cải biến, đổi mới, làm phong phú chủ nghĩa Mác-Lênin trên một loạt
luận điểm quan trọng.
Tóm lại, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã từ người yêu
nước trở thành người cộng sản, và chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc chủ yếu
nhất, nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh.

II Phân tích vai trò của tinh hoa phương Đông đối với việc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của
văn hoá phương Đông. Người cũng đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng
dân chủ, nhân văn của văn hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư
sản phương Tây và cách mạng Trung Quốc.
Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh được theo học chữ Nho với các thầy
vốn là những nhà Nho yêu nước. Đạo đức Nho giáo thấm vào tư tưởng tình cảm
của Người không phải là những giáo điều “tam cương”, “ngũ thường” nhằm bảo
vệ tôn ti trật tự phong kiến, mà tinh thần “nhân nghĩa”, đạo “tu thân”, sự ham
học hỏi, đức “khiêm tốn”, tính “hoà nhã”, cách đối nhân xử thế “có lý, có tình”.
Những mệnh đề “trung hiếu”, “nhân nghĩa”, “tứ hải giai huynh đệ”, “dân vi quý,
xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, phương châm “khắc kỷ phục lễ”,... của các nhà
hiền triết phương Đông được Hồ Chí Minh hết sức trân trọng. Trong khi tiếp

thu, vận dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo, Người cũng đồng thời phê
phán loại bỏ những yếu tố thủ cựu, tiêu cực của nó.
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên
cứu, tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do,
Bình đẳng, Bác ái, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc)...
Người đã vận dụng và phát triển các trào lưu tư tưởng học thuyết ấy lên một
trình độ mới phù hợp với dân tộc và thời đại mới.
Như vậy, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh
đã kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hoá phương Đông phương Tây, nâng lên
một trình độ mới trên cơ sở phương pháp luận mácxít - lêninnít.

Chương II : Ý nghĩa của tinh hoa văn hóa nhân loại đối với sự
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam
I / Ý nghĩa của tinh hoa văn hóa nhân loại đối với sự hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa,
chọn lọc những tư tưởng, giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, phù hợp
12


với thực tiễn hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam. Cùng với đó là sự tiếp thu, tiếp
biến và vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hóa nhân loại: văn hóa phương Đông và
phương Tây mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin;. Tư tưởng Hồ Chí Minh
được hình thành bởi tư duy, trí tuệ, phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động
thực tiễn của Người. Đó cũng là quá trình tiếp thu, làm giàu, rèn luyện từ học
tập, nghiên cứu, trải nghiệm thực tiễn, khám phá các quy luật vận động, đời
sống văn hóa, xã hội và cuộc đấu tranh của các dân tộc vì độc lập, tự do và tiến
bộ xã hội để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn,
kiểm nghiệm trong thực tiễn nên mang giá trị khách quan, cách mạng và khoa
học.Không chỉ giải quyết vấn đề thuộc về tư duy lý luận mà cao hơn, đó là tư

duy hành động. Trong khi tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
phù hợp với xu thế khách quan của thời đại, đặc biệt là lý luận về cách mạng
giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc.
Qua những điều tai nghe mắt thấy ở các nước thuộc địa và các nước công
nghiệp hàng đầu của phương Tây, Người đã hiểu được điều bí ẩn sau những chữ
“Tự do - Bình đẳng - Bác ái” và rút ra những nhận xét khái quát ban đầu về mối
quan hệ giữa con người, giữa các quốc gia dân tộc, từ đó cũng hình thành quan
điểm cơ bản đầu tiên về nhân sinh quan, thế giới quan cách mạng, trong đó nổi
bật hơn cả là quan điểm phân chia nhân loại thành hai hạng người “giống người
bóc lột và giống người bị bóc lột”. Để từ đó, Hồ Chí Minh đã tiếp thu một cách
có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại rồi vận dụng tinh hoa đó một cách sát
thực, phù hợp với từng điều kiện cụ thể của đất nước, góp phần giải phóng đất
nước và các dân tộc khác trên thế giới.
Đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn, đạo đức và phong cách; là quan điểm và tấm gương mẫu mực của người
chiến sĩ cộng sản trung thành và kiên định lý tưởng cách mạng, luôn đặt lợi ích
của Đảng, dân tộc và nhân dân lên trên hết, luôn tận trung với nước, tận hiếu với
dân; luôn cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư; là phong cách tư duy độc lập,
tự chủ, sáng tạo, phong cách làm việc dân chủ, khoa học; phong cách ứng xử
văn hóa, nhân văn, trọng nghĩa tình, nói đi đôi với làm, sống giản dị, hòa đồng
với thiên nhiên,v.v.. tự mình nêu gương về đạo đức cách mạng, thể hiện sinh
động, tự nhiên, đầy cảm hóa trong công tác và ứng xử hằng ngày.
Nhận thức đầy đủ, sâu sắc giá trị to lớn, toàn diện cống hiến vô giá về lý
luận, tư tưởng Hồ Chí Minh được thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới
trong thế kỷ XX chứng thực, Đại hội IX (4/2001) của Đảng và khẳng định: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
13



vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Tư
tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng
lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta” Tư tưởng Hồ Chí Minh
được xác định gồm 9 nội dung cơ bản:
1) Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại.
2) Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
3) Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của
dân, do dân, vì dân.
4) Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
5) Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
6) Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
7) Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
8) Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân.
9) Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Như vậy , tinh hóa văn hóa nhân loại đóng vai trò vô cùng lớn trong việc hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đa dạng , chuẩn mực đến như vậy .
2 Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ sự tiếp thu sáng tạo từ
tinh hoa văn hóa nhân loại trở thành kim chỉ nam cho con đường
cách mạng Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa,
chọn lọc những tư tưởng, giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, phù hợp
với thực tiễn hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam. Cùng với đó là sự tiếp thu, tiếp
biến và vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hóa nhân loại: văn hóa phương Đông và
phương Tây mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin;. Tư tưởng Hồ Chí Minh

được hình thành bởi tư duy, trí tuệ, phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động
thực tiễn của Người. Đó cũng là quá trình tiếp thu, làm giàu, rèn luyện từ học
14


tập, nghiên cứu, trải nghiệm thực tiễn, khám phá các quy luật vận động, đời
sống văn hóa, xã hội và cuộc đấu tranh của các dân tộc vì độc lập, tự do và tiến
bộ xã hội để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn,
kiểm nghiệm trong thực tiễn nên mang giá trị khách quan, cách mạng và khoa
học.Không chỉ giải quyết vấn đề thuộc về tư duy lý luận mà cao hơn, đó là tư
duy hành động. Trong khi tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
phù hợp với xu thế khách quan của thời đại, đặc biệt là lý luận về cách mạng
giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc.
Đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn,
đạo đức và phong cách; là quan điểm và tấm gương mẫu mực của người chiến sĩ
cộng sản trung thành và kiên định lý tưởng cách mạng, luôn đặt lợi ích của
Đảng, dân tộc và nhân dân lên trên hết, luôn tận trung với nước, tận hiếu với
dân; luôn cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư; là phong cách tư duy độc lập,
tự chủ, sáng tạo, phong cách làm việc dân chủ, khoa học; phong cách ứng xử
văn hóa, nhân văn, trọng nghĩa tình, nói đi đôi với làm, sống giản dị, hòa đồng
với thiên nhiên,v.v.. tự mình nêu gương về đạo đức cách mạng, thể hiện sinh
động, tự nhiên, đầy cảm hóa trong công tác và ứng xử hằng ngày.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận và định hướng để Đảng Cộng
sản Việt Nam xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn, tổ chức lực lượng và
lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, sáng lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong các cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong các cuộc chiến tranh
bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và những thành tựu

quan trọng về mọi mặt trong hơn 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế. Tư tưởng
Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn, quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi
soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trên hành trình kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Không thể phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, song các thế lực thù
địch không ngừng thực hiện âm mưu và hoạt động "diễn biến hòa bình”; những
kẻ tự xưng là “người yêu nước”, người “bất đồng chính kiến” ở trong và ngoài
nước đã lợi dụng internet, mạng xã hội để xuyên tạc, bóp méo và bôi nhọ thân
thế, sự nghiệp, xuyên tạc và phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh khi nói và viết:
“Hồ Chí Minh du nhập những tư tưởng ngoại lai vào Việt Nam”; “Hồ Chí Minh
đi trên cỗ xe Nho giáo đến với chủ nghĩa Mác - Lênin”; “Tư tưởng Hồ Chí
Minh là tư biện, lý thuyết, giáo điều”; tư tưởng Hồ Chí Minh là sự sao chép,
máy móc chủ nghĩa Mác - Lênin, không phù hợp với thực tiễn hiện nay, bởi thế,
15


cần từ bỏ nó để “kịp đi với con đường chung mà thế giới hiện nay đang đi” con đường tư bản chủ nghĩa. Có những người tìm mọi cách đả kích, xuyên tạc
tư tưởng Hồ Chí Minh, tấm gương đạo đức cách mạng của Người để “hạ bệ
thần tượng” và lung lạc những người nhẹ dạ, cả tin để phủ nhận những giá trị cơ
bản, đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Thậm chí, có người lại “cực đoan” đề
cao tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng ở Việt Nam chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh
là đủ và coi tư tưởng Hồ Chí Minh chính là chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam
nên Việt Nam chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh để xuyên tạc và hạ thấp sự cống
hiến của Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam và thế giới, hạ thấp tư tưởng
của Người mà không hiểu và cố tình không hiểu rằng: Cùng với chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho hành
động của Đảng, tiếp tục dẫn dắt, soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam
trên con đường xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Những giọng điệu "lạc dòng", phủ nhận của một bộ phận
những người không hiểu, thậm chí cố tình không hiểu đúng bản chất tư tưởng

Hồ Chí Minh đó không hề làm giảm đi giá trị tư tưởng của Người, vì “trong khi
giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc
biệt là lý luận vế cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
các nước thuộc địa và phụ thuộc..." như Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày
18/2/1995 của Bộ Chính trị khóa VII đã khẳng định.

C Kết luận
Có thể thấy rằng, tinh hoa văn hóa Phương Tây và tinh hoa văn hóa nhân loại
nói chung có vai trò quan trọng trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, là
cơ sở ban đầu cho sự lựa chọn con đường cứu nước của Hồ Chí Minh từ đó mà
Người tiếp cận được chủ nghĩa Mác – Lênin. Việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của
tinh hoa văn hóa nhân loại đến việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ đối với Đảng mà còn đối với mỗi cá nhân
trong thời đại mới.
+ Học tập Hồ Chí Minh, trong giai đoạn mới cần tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại trên cơ sở giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc.
• Đối với mỗi cá nhân: học tập tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại là cần thiết
để làm giàu thêm đời sống tinh thần và tri thức của mình
• Đối với Đảng ta: để có đường lối cách mạng khoa học cần dựa vào nhiều yếu
tố, trong đó có tinh hoa văn hoá mà nhân loại đã đạt được
+ Hiểu rõ hơn về con người, tư tưởng và sự nghiệp vĩ đại của Hồ Chí Minh.
16


+ Tìm ra phương pháp tiếp cận tinh hoa văn hóa phương Tây trong tư tưởng Hồ
Chí Minh và làm nổi bật sự trân trọng các giá trị tinh hoa văn hóa phương Tây
của Người.
+ Cũng hiểu rõ quá trình Hồ Chí Minh tiếp thu ý chí và tinh thần đấu tranh vì
độc lập của nhân dân Mỹ. Từ đó xây dựng hệ tư tưởng hoàn chỉnh.

+ Việc nghiên cứu còn giúp chúng ta hiểu rõ phương pháp rèn luyện của Hồ Chí
Minh trong phong trào công nhân ở Anh, Pháp. Và soi vào quá trình hình thành,
phát triển của phong trào công nhân ở nước ta: trong thời kỳ đầu- tự phát, sang
tự giác, và sau cùng trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng.
+ Đồng thời, việc nghiên cứu sẽ chỉ ra cho chúng ta tư tưởng dân chủ của các
nhà khai sáng để áp dụng vào từng hoàn cảnh cụ thể của nước nhà.
+ Trong chừng mực nhất định, việc nghiên cứu cũng thu hút và thúc đẩy những
ngời làm cách mạng chân chính của nước nhà đấu tranh cho hòa bình.
+ Việc nghiên cứu cũng giúp chúng ta thấy rõ: Hồ Chí Minh không đồng nhất
Chủ nghĩa Đế quốc Pháp với nhân dân Pháp yêu chuộng hòa bình nói riêng, và
đề cao những con người chân chính luôn đấu tranh cho hòa bình nhân loại nói
chung. Đây là cơ sở hết sức quan trọng của đoàn kết quốc tế và diễn trình hòa
bình của nhân loại về sau.
+ Và cuối cùng là giúp chúng ta nâng cao năng lực tư duy lý luận, giáo dục đạo
đức, tư cách, phẩm chất cách mạng; nâng cao tinh thần độc lập, tự chủ và học
tập, noi theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB CTQG
2. Nguyễn Mạnh Cường, Tư tưởng Hồ Chí Minh – Một số nhận thức cơ bản,
NXB CTQG
3. Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Tài liệu ban huấn luyện Trung ương
4. Hồ Chí Minh – Về công tác văn hóa văn nghệ, Nxb Sự thật, Hà Nội
5. Giáo trình hướng dẫn học phần tư tưởng Hồ Chí Minh của trường ĐH Công
Nghiệp tp.HCM
6. Tài liệu hướng dẫn nghiên cứu và học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh của Ban Tư
tưởng Văn hóa Trung ương, Nxb CTQG, Hà Nội

7. Tạp chí ban tuyên giáo trung ương
7. Một số tài liệu khác

18



×