Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

NHẬN THỨC về VIỆC LÀM THÊM đến KHÓ KHĂN tâm LÝ của SINH VIÊN TRƯỜNG đại học sư PHẠM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 50 trang )

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
NHẬN THỨC VỀ VIỆC LÀM THÊM ĐẾN KHÓ KHĂN TÂM LÝ CỦA
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................1
1. Đặt vấn đề...................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu....................................................................1
3. Đối tượng nghiên cứu..................................................................1
4. Khách thể nghiên cứu..................................................................1
5. Nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................1
6. Cấu trúc đề tài nghiên cứu..........................................................2
7. Giả thuyết nghiên cứu.................................................................2
Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LÀM
THÊM ĐẾN KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN.......................3
1.1 Tổng quan nghiên cứu................................................3
1.2 Lý luận việc làm thêm...........................................................5
1.3 Lý luận nhận thức..................................................................7
1.4 Đặc điểm tâm lý sinh viên...........................................9
1.5 Nhận thức về việc làm thêm của sinh viên...................9
Chương 2 TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............12
2.1 Tổ chức nghiên cứu...................................................12
2.2. Phương pháp nghiên cứu..........................................12
2.2.1 Phương pháp nghiên cứu định tính.......................................12
2.2.2 Nghiên cứu định lượng..........................................................12
2.2.3 Phương pháp thu thập số liệu...............................................12
2.2.4 Phương pháp phân tích.........................................................13
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1
Thực
trạng
của


……………………………………………………..

việc

làm

thêm

3.2 Thực trạng nhận thức về việc làm thêm của sinh viên
………………………….
Chương 4: KẾT LUẬN
4.1
Đánh
giá
…………………………………………………………………..
4.2
Đề
xuất
kiến
………………………………………………………………...

chung
nghị


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Đặt vấn đề
Các trường áp dụng chương trình học theo qui chế tín chỉ thì sinh
viên có ít thời gian lên lớp hơn, có nhiều thời gian dành cho sinh viên
tự trang bị kiến thức hơn. Đồng thời, sinh viên chủ động hơn trong

việc lựa chọn cũng như đăng ký chương trình học riêng cho mình.
Đơng đảo sinh viên nhận ra khi đi làm thêm chịu những tác động xa
hội làm thay đổi trong cách suy nghĩ như là đi làm thêm thì Bố Mẹ đơ
cực, đi làm sẽ giúp tự tin hơn, biết xử lý các tình huống phù hợp hơn,
đi làm tiêu tốn quá nhiều thời gian trong khi đó lương khơng đủ ăn,
khơng đủ chi tiêu “ đi làm là việc của cả đời sau này, có mấy năm
học Đại học lĩnh hội kiến thức thì phải lo tận dụng thời gian để học”,
Sinh viên khi đi làm thêm cảm thấy lo lắng về việc khơng có thời
gian tự học, cảm thấy sợ những bài thi, sợ bị đánh giá thấp trong kết
quả học tập, cảm thấy mệt mỏi không đủ sức khoẻ cho việc tập
trung học tập, cảm thấy nặng nề, sao nhang trong học tập… Tuy
nhiên họ có đủ tiền để trang trải cho việc tiếp tục học, bố mẹ đơ phải
lo lắng, họ học được những thái độ cần ứng xử trong xa hội, hiểu hơn
về áp lực của công việc đòi hỏi gì cho một cơng việc mà bạn sẽ làm
sau khi ra trường. Sinh viên đi làm thêm, đồng nghĩa chạy đua với
thời gian, chịu ảnh hưởng từ việc cắt giảm các hoạt động cá nhân,
hoạt động chơi, hoạt động rèn luyện sức khoẻ cho họ biết cách sắp
xếp quản lý quỹ thời gian của mình, việc làm khơng ảnh hưởng nhiều
đến suy nghĩ và kết quả học tập, hình thành những thói quen tốt tích
cực phục vụ cho cơng tác học tập. Mở rộng các mối quan hệ, có cơ
hội tìm kiếm việc làm cao, có cơ hội hiểu biết nhiều và rộng hơn. Tuy
nhiên sẽ hạn chế lại các mối quan hệ thân thiết, cũng như kéo hẹp
các mối quan hệ ở lớp, ở trường. Thay đổi nhiều công việc làm thêm,
cũng tạo ra nhiều cơ hội học tập hơn, mang đến những khó khăn mới
thúc đẩy sinh viên trang bị cho mình một tư duy suy nghĩ đa chiều.
Tạo cho họ có một cam kết kỷ luật với bản thân bởi nhiều tác động
xa hội, cho họ biết cách chi tiêu và thoả man những chi tiêu cần
1



thiết, cho họ cơ hội nhìn nghe, sờ những tiến bộ của khoa học, cũng
như tiếp cận những tư duy mới .Công việc làm thêm, là một trong
những phương thức hỗ trợ cho sinh viên đi từ cánh cưả

doanh

nghiệp thay vì ham vui và hao phí thời gian sinh viên đi làm thêm trở
thành một xu thế gắn chặt với học tập. Sinh viên Trường Đại học Sư
phạm Đà Nẵng hiện nay khá năng động, các bạn sinh viên làm thêm
lựa chọn nhiều loại cơng việc, các loại hình kinh doanh khác nhau
tăng thêm khả năng quan sát và thực tế hơn, các bạn cảm thấy tự
tin biết cách tính toán, biết chi tiêu hơn. Bên cạnh những tác động và
yêu cầu của các doanh nghiệp đòi hỏi sinh viên cần phải đạt được
nhiều kỹ năng hơn khi xin việc sau khi ra trường và cũng vì còn nhiều
sinh viên khó khăn, gia đình phụ cấp khơng đủ để chi trả cho các
khoản chi phí trong học tập bắt buộc sinh viên phải đi làm thêm. Việc
sinh viên đi làm thêm sẽ làm tiêu tốn thời gian, tác động nhận thức
dẫn đến kết quả học tập của các bạn cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Vì
vậy, nghiên cứu “Nhận thức về việc làm thêm đến khó khăn tâm lý
của sinh viên Trường Đại học Sư phạm- Đại học đà Nẵng” là rất cần
thiết, kết quả nghiên cứu sẽ làm tăng nhận thức đúng phù hợp đối
với sinh viên về tác động việc làm thêm đến khó khăn tâm lý mà
sinh viên gặp phải, là cơ sở thực tế giúp cho trường có thêm căn cứ
để hỡ trợ cho sinh viên có hồn cảnh khó khăn vừa học vừa làm
thêm đồng thời giúp cho các cơ sở ban nghành, đoàn thể các doanh
nghiệp có căn cứ để tuyển dụng và bố trí việc làm thêm cho sinh
viên khơng ảnh hưởng nhiều đến học tập.
2.Mục đích nghiên cứu
Phân tích tác động tích cực và tác động tiêu cực của việc làm
thêm giúp sinh viên có cái nhìn tởng thể, mục đích giúp cho sinh viên

định hình được những điều mình có thể có được khi đi làm thêm;
giúp những sinh viên chưa từng làm thêm có thể biết được những
cơng việc nào là phù hợp với bản thân trong giai đoạn này, trong
ngành mà mình đang học này; Cũng giúp sinh viên có thể tự trả lời
một số câu hỏi như là: làm thêm có ảnh hưởng đến cơng việc học
2


hiện tại hay không, không biết làm công việc này có giúp mình có
kinh nghiệm cho ngành đang học hay không , biết cách điều chỉnh
sao cho cân đối giữa học tập và việc làm thêm. Qua đó kiến nghị với
nhà trường hỡ trợ tìm kiếm việc làm sinh viên.
3.Đối tượng nghiên cứu
Khó khăn nhận thức của sinh viên, khó khăn cảm xúc của sinh
viên, cách sinh viên thực hiện các hoạt động học, hoạt động sống
(thời gian), hoạt động chi tiêu.
4.Khách thể nghiên cứu
Sinh viên đại học chưa từng đi làm thêm và đa/đang đi làm thêm
Sinh viên nam , sinh viên nữ
Sinh viên khối khoa học tự nhiên và khối khoa học xa hội
5.Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu nhận thức của sinh viên về việc làm thêm
Nghiên cứu khó khăn tâm lý mà sinh viên gặp phải khi nhận
thức về việc làm thêm
5.1

Nghiên cứu lý luận
- Tổng quan các tài liệu, cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề

tài, từ đó xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài.

- Làm rõ một số vấn đề lý luận : công việc làm thêm, nhận thức,
nhận thức về việc làm thêm của sinh viên.
- Xác định các quan điểm lý luận và phương pháp luận định
hướng cho nghiên cứu thực tế.
5.2

Nghiên cứu thực tiễn
Phân tích yếu tố có trong nhận thức đến khó khăn tâm lý của

sinh viên
5.3 Đề xuất kiến nghị
Đề xuất giải pháp và kiến nghị tới nhà trường căn cứ để hỡ trợ
cho sinh viên có hồn cảnh khó khăn vừa học vừa làm thêm đồng
thời giúp cho các cơ sở ban nghành, đoàn thể các doanh nghiệp có
căn cứ để tuyển dụng và bố trí việc làm thêm cho sinh viên.
6.Cấu trúc đề tài nghiên cứu
3


Gồm các phần
- Mở đầu
- Chương 1: Cơ sở lý luận
- Chương 2: Tổ chức thực hiện và phương pháp nghiên cứu
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu
- Kết luận – Kiến nghị
- Tài liệu kham khảo
- Phụ lục
7.Giả thuyết nghiên cứu
Sinh viên có nhận thức tích cực về việc làm thêm, sinh viên biết cách
chi phối cảm xúc không dễ dàng bị áp lực bởi những ảnh hưởng của

công việc làm thêm mang lại, hoạt động học và hoạt động sống của
sinh viên được cân bằng.
Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN NHẬN THỨC VỀ VIỆC LÀM THÊM
ĐẾN KHÓ KHĂN TÂM LÝ CỦA SINH VIÊN
1.1 Tổng quan nghiên cứu
1.1.1
Nghiên cứu nước ngoài
Các thuyết liên quan
Thuyết nhu cầu của Maslow.
Theo Maslow, về căn bản, nhu cầu của con người được chia làm hai
nhóm chính: nhu cầu cơ bản (basic needs) và nhu cầu bậc cao (meta
needs)
Nhu cầu cơ bản liên quan đến các yếu tố thể lý của con người như
mong muốn có đủ thức ăn, nước uống, được ngủ nghỉ... Những nhu
cầu cơ bản này đều là các nhu cầu khơng thể thiếu hụt vì nếu con
người khơng được đáp ứng đủ những nhu cầu này, họ sẽ không tồn
tại được nên họ sẽ đấu tranh để có được và tồn tại trong cuộc sống
hàng ngày.Các nhu cầu cao hơn nhu cầu cơ bản trên được gọi là nhu
cầu bậc cao.
Những nhu cầu này bao gồm nhiều nhân tố tinh thần như sự đòi hỏi
cơng bằng, an tâm, an tồn, vui vẻ, địa vị xa hội, sự tôn trọng, vinh
danh với một cá nhân. Các nhu cầu cơ bản thường được ưu tiên chú
ý trước so với những nhu cầu bậc cao này. Với một người bất kỳ, nếu
thiếu ăn, thiếu uống... họ sẽ không quan tâm đến các nhu cầu về vẻ
4


đẹp, sự tôn trọng...Tuy nhiên, tuỳ theo nhận thức, kiến thức, hồn
cảnh, thứ bậc các nhu cầu cơ bản có thể đảo lộn. Ví dụ như: người ta
có thể hạn chế ăn, uống, ngủ nghỉ để phục vụ cho các sự nghiệp cao

cả hơn. Ngược lại, theo chủ thuyết cách mạng vô sản, của cải, sở
hữu tài sản là nhu cầu số một bỏ qua các nhu cầu bậc cao khác. [1]
Thuyết nhận thức-hành vi:
Sơ lược về Thuyết hành vi: S -> R -> B (S là tác nhân kích thích, R là
phản ứng, B là hành vi). Thuyết cho rằng con người có phản ứng do
có sự thay đởi của mơi trường để thích nghi. Như vậy, khi có 1 S sẽ
xuất hiện nhiều R của con người, nhưng dần dần sẽ có 1 R có xu
hướng lặp đi lặp lại do chúng ta được học hay được củng cố khi kết
quả của phản ứng đó mang lại điều gì chúng ta mong đợi. Như vậy
theo thuyết này thì hành vi con người là do chúng ta tự học mà có và
mơi trường là yếu tố quyết định hành vi. (Do trời mưa, do tắc đường
nên nghỉ học…). Các mơ hình trị liệu hành vi vì thế mà nhiều khi
được sử dụng một cách sai lầm như phương pháp thưởng phạt.
Phương pháp này gây cho đối tượng cảm giác bị áp đặt.
Thuyết nhận thức-hành vi:
- Thuyết trị liệu nhận thức – hành vi hay còn gọi là thuyết trị liệu
nhận thức (behavioral cognitive therapy) bởi nền tảng của nó là các
ý tưởng hành vi hoặc là trị liệu nhận thức xa hội do sự liên kết của nó
với lý thuyết học hỏi xa hội
- Nội dung của thuyết: thuyết này cho rằng: chính tư duy quyết định
phản ứng chứ khơng phải do tác nhân kích thích quyết định. Sở dĩ
chúng ta có những hành vi hay tình cảm lệch ch̉n vì chúng ta có
những suy nghĩ khơng phù hợp.
Do đó để làm thay đởi những hành vi lệch ch̉n chúng ta cần phải
thay đởi chính những suy nghĩ khơng thích nghi.
- Mơ hình: S -> C -> R -> B
Trong đó: S là tác nhân kích thích, C là nhận thức, R là phản ứng, B là
kết quả hành vi.
Giải thích mơ hình: Theo sơ đồ thì S khơng phải là nguyên nhân trực
tiếp của hành vi mà thay vào đó chính nhận thức C về tác nhân kích

thích và về kết quả hành vi mới dẫn đến phản ứng R.
- Quan điểm về nhận thức và hành vi: 2 quan điểm
5


+ Theo các nhà lý thuyết gia nhận thức- hành vi thì các vấn đề nhân
cách hành vi của con người được tạo tác bởi những suy nghĩ sai lệch
trong mối quan hệ tương tác với mơi trường bên ngồi. (Aron T. Beck
và David Burns có lý thuyết về tư duy méo mó). Con người nhận thức
lầm và gán nhan nhầm cả từ tâm trạng ở trong ra đến hành vi bên
ngồi, do đó gây nên những niềm tin, hình tượng, đối thoại nội tâm
tiêu cực. Suy nghĩ khơng thích nghi tốt đưa đến các hành vi của một
cái tôi thất bại
+ Hầu hết hành vi là do con người học tập (trừ những hành vi bẩm
sinh), đều => Như vậy, lý thuyết này cho ta thấy rằng cảm xúc,
hành vi của con người không phải được tạo ra bởi mơi trường, hồn
cảnh mà bởi cách nhìn nhận vấn đề. Con người học tập bằng cách
quan sát, ghi nhớ và được thực hiện bằng suy nghĩ và quan niệm của
mỗi người về những gì họ đa trải nghiệm. Như vậy, thuyết này mang
tính nhân văn cao cả và đúng đắn khi đa đặt đúng trọng tâm vai trò
của chủ thể con người trong hành vi của họ (khác với thuyết hành vi
coi trọng yếu tố tác nhân kích thích; thuyết học tập xa hội coi trọng
yếu tố thói quen hay học tập). [2]
Nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu này, trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu đi trước với
mục đích phân tích khách quan nhận thức về việc làm thêm đến khó
khăn tâm lý của sinh viên.
“Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đi làm thêm của
sinh viên Đại học Cần Thơ”, phân tích và đưa ra những kết quả như
sau: Những sinh viên học năm 3, năm 4 thì đi làm thêm nhiều hơn do

đa quen thuộc với môi trường sống, môi trường học tập và môi
trường làm việc nơi đây để vận dụng lý thuyết đa được học vào thực
tế, rèn luyện tính tự lập, học hỏi kinh nghiệm và kỹ năng sống để
chuẩn bị hành trang cho công việc tương lai sau khi tốt nghiệp,
những sinh viên có thu nhập từ gia đình chu cấp cao có xu hướng ít
đi làm thêm so với sinh viên có mức chu cấp gia đình thấp. Ngun
nhân là do đa số sinh viên đều có hồn cảnh gia đình khá giả nên
6


mục đích chính của việc đi làm thêm khơng phải là vì thu nhập mà là
vì những nguyên nhân khác, những sinh viên đủ nhu cầu chi tiêu lại
đi làm thêm ít hơn. Nguyên nhân là do với mức thu nhập mà gia đình
chu cấp thì đa số sinh viên đều đủ chi tiêu nên số lượng sinh viên
không đủ chi tiêu rất ít mà số lượng sinh viên đi làm thêm thì lại rất
nhiều điều này cho thấy việc chi tiêu cũng khơng là yếu tố chính
quyết định đi làm thêm của sinh viên. Thời gian ranh, với chương
trình học theo thể chế tín chỉ, thời gian lên lớp của sinh viên được rút
ngắn. Do đó, sinh viên sẽ có nhiều thời gian ranh để nghiên cứu và
tự học. Vì vậy, những sinh viên có nhiều thời gian ranh sẽ đi làm
thêm nhiều hơn vì biết cách quản lý tốt quỹ thời gian của mình, kinh
nghiệm - kỹ năng sống có tác động quyết định đi làm thêm của sinh
viên. Bài nghiên cứu của Trường Đại học Cần Thơ đa chỉ ra rằng
những sinh viên cần học hỏi kinh nghiệm - kỹ năng sống thì đi làm
thêm nhiều hơn vì những nhà tuyển dụng hiện nay khơng chỉ u
cầu sinh viên phải có năng lực học tập tốt mà còn đòi hỏi sinh viên
phải năng động, sáng tạo và có nhiều kinh nghiệm sống để làm việc
tốt. Kết quả học tập là yếu tố quan trọng hàng đầu làm cho sinh viên
phải cân nhắc thật kỹ trước khi quyết định đi làm thêm. Kết quả
nghiên cứu, những sinh viên có kết quả học tập cao thì đi làm thêm

nhiều hơn, những sinh viên có kết quả học tập thấp sợ khơng có
nhiều thời gian để học tập nên đa số quyết định không làm thêm để
tập trung cho việc học. [3]
Trong bài báo cáo khoa học “ nhu cầu làm thêm của sinh viên Trường
Đại học Ngoại Ngữ – Đại học Quốc gia Hà Nội” việc làm của sinh viên
hiện nay phần nhiều mang tính chất tự phát, khơng có tở chức quản
lý chặt chẽ. Sinh viên làm thêm chủ yếu vì mong muốn tăng thu
nhập , ln mong muốn áp dụng những kiến thức hạn chế đa học
trong trường vào cuộc sống, hiểu biết thêm kiến thức xa hội. Điều
này ảnh hưởng đến việc học tập của các bạn sinh viên. Nghiên cứu ,
chỉ ra rằng thực sự cần thiết và rất cần thiết việc phải đi làm thêm.
Điều này càng được nhà trường , đoàn thành niên, bộ phận tuyển
7


dụng việc làm quan tâm, tạo điều kiện giúp đơ hổ trợ sinh viên đi
làm thêm vừa học vừa làm . Kết quả điều tra cho thấy lý do đầu tiên
sinh viên đi làm thêm nâng cao nghiệp vụ ,bổ sung kiến thức, lý do
thứ hai có tầm ảnh hưởng là tăng thêm thu nhập. Ngoài ra còn lý do
mang tính đặc trưng của lứa t̉i sinh viên , làm thêm vì sự tò mò
,mong muốn khám phá, muốn tìm hiểu về bản thân và khẳng định
chính mình , mở rộng giao tiếp và cơ hội việc làm sau khi ra trường .
Trong giai đoạn nghiên cứu phỏng vấn, sinh viên cho biết lý do chi
phối việc làm thêm là bù thời gian rỗi ở trường học, không sa vào
những cuộc rủ rê của bạn bè. Làm thêm bao gồm những công việc
như : gia sư, grap, shipper,thiết kế quảng cáo, tạp vụ , viết báo , bán
hàng, phục vụ… đa số sinh viên làm việc theo chuyên môn, kiến thức
của mình bên cạnh những sinh viên làm việc khơng liên quan đến
kiến thức được học ở trường. Sinh viên lựa chọn thời gian đi làm
ngoài giờ học hay các ngày nghỉ.[ 4]

“Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng có việc của
sinh viên ĐH Ngoại thương sau khi tốt nghiệp”, nghiên cứu ảnh
hưởng của kết quả học tập như điểm tốt nghiệp, điểm tiếng anh, xếp
loại học lực khi tốt nghiệp, đến khả năng có việc làm của sinh viên
sau tốt nghiệp. Nghiên cứu khi tham gia làm thêm trong thời gian
sinh viên và sự cập nhật thông tin thị trường lao động ảnh hưởng đến
khả năng của sinh viên sau khi tốt nghiệp. Kết quả nghiên cứu điểm
tốt nghiệp và điểm tiếng anh, xếp loại bằng tốt nghiệp có tác động
tích cực tới xác xuất có việc làm của sinh viên sau khi ra trường. Các
điểm này càng cao thì xác suất có việc sau khi ra trường của sinh
viên càng cao. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế tuyển dụng
hiện nay khi cơ sở đầu tiên để các nhà tuyển dụng chấp nhận là sinh
viên cần có một kết quả học tập tốt. . Ngồi ra, những sinh viên
trong q trình đi học có tham gia đi làm thêm giúp sinh viên hồn
thiện các kỹ năng, phát triển sức sáng tạo, mở rộng mối quan hệ
v.v... trước khi tốt nghiệp, thì xác suất mà sinh viên đó có việc làm sẽ
cao hơn sinh viên không tham gia hoạt động trên.[5]
8


Đề tài nghiên cứu : “ Khảo sát mức tiền lương trong việc làm thêm
của sinh viên của sinh viên Đại học Ngân Hàng” phân tích những yếu
tố chi phối đến việc làm thêm của sinh viên như: sinh viên năm một,
năm hai vẫn còn bơ ngở với trường , cách học , cách dạy , chưa quen
tiếp xúc với môi trường mới. Còn khi trở thành sinh viên năm ba,
năm tư thì việc học lại chiếm khá nhiều thời gian sinh viên sẽ rất khó
khăn trong việc điều phối, giảm thiểu cắt bớt thời gian sinh hoạt phù
hợp vừa học, vừa làm thêm. Chỗ ở cách xa chỗ làm thêm, tiêu tốn
thêm một khoản thời gian di chuyển , phương tiện làm thêm , thông
tin việc làm thêm còn rời rạc ,tính chất chun mơn cơng việc, việc

chưa từng làm , tất cả các yếu tố chi phối trên ảnh hưởng mạnh tiêu
cực tới kết quả học tập của sinh viên . Bài nghiên cứu đưa ra các giải
pháp sinh viên cần cân nhắc kỹ giữa kết quả học tập và mục đích
làm thêm, các bạn nên lựa chọn công việc bán thời gian hoặc tạm
thời liên quan đến chuyên nghành đang học là bước thực hành đầu
chuẩn bị cho nghề nghiệp sau khi ra trường. [6]
Trong nghiên cứu “Khảo sát thực trạng làm thêm của sinh viên
Đại học Tây Nguyên” kết quả điều tra của đề tài cho thấy, sinh viên
nhận được hơn 700 ngàn / tháng từ gia đình chiếm 32,5% , như vậy
trường sẽ có khoảng 67,5% sinh viên không thể trang trải hết các
khoản chi phí học tập bằng việc nhờ vào sự phụ cấp của gia đình.
Các khoản chi phí mà sinh viên cần có để chi trả như là: viên phải tự
túc kinh phí học tập, học tập trên địa bàn các thành phố lớn do đó
nhu cầu sinh hoạt cho cuộc sống của mỡi cá nhân ngày một cao (chi
phí tiền th nhà trọ, chi phí ăn uống, đi lại…).Trong khi đó, đại bộ
phận sinh viên là con em của các gia đình ở nơng thơn vùng sâu
vùng xa, đời sống kinh tế gia đình còn gặp nhiều khó khăn nên viêc
chu cấp cho con em còn hạn chế. Do đó, buộc sinh viên phải đi làm.
Tuy nhiên khơng ít sinh viên có gia đình khá giả đi làm thêm , 80%
trong số họ là tích lũy kinh nghiệm cá nhân, trau dồi các kỹ năng.
Hiện tượng làm thêm đa trở nên phở biến và sinh viên gặp khơng ít
khó khăn mang lại những tác động tích cực lẫn tiêu cực đến kết quả
9


học tập. Vì vậy cần có sự quan tâm từ phía gia đình, nhà trường tạo
điều kiện cho sinh viên trau dồi kỹ năng tránh các ảnh hưởng tiêu
cực của xa hội, khi sinh viên chưa đủ khả năng ứng xử với các nạn
tiêu cực xa hội. [7]
Tham khảo đề tài nghiên cứu “Tác động của việc đi làm thêm đến

kết quả học tập của sinh viên trường Đại học Cần Thơ “ , Kết quả
nghiên cứu cho thấy có sự khác nhau về kết quả học tập được đánh
giá qua điểm trung bình học kỳ của 2 đối tượng sinh viên là có đi làm
thêm và khơng có đi làm thêm là khác nhau. Mặt khác, kết quả cũng
cho thấy kết quả học tập được đánh giá thông qua điểm trung bình
học kỳ của nhóm đối tượng sinh viên có đi làm thêm ở 2 thời điểm
trước khi đi làm thêm và sau khi đi làm thêm là khác nhau. Từ những
kết quả này cho phép nghiên cứu có thể kết luận có sự tác động từ
việc làm thêm đến kết quả học tập của sinh viên. Qua đó nghiên cứu
đa tìm ra một số ảnh hưởng cụ thể từ việc làm thêm mà chính những
yếu tố này làm cho kết quả học tập của sinh viên bị giảm sút. Với
mong muốn đề xuất những giải pháp và kiến nghị thảo luận trao đổi
về những tác động tiêu cực mà sinh viên có thể vấp phải. Đối với các
đơn vị tuyển dụng lao động cần công khai thông tin tuyển dụng và
u cầu cơng việc một cách chính xác để sinh viên có thơng tin rõ
ràng và tìm cơng việc phù hợp với chuyên nghành nhằm giúp cho
sinh viên có đi làm thêm ở Trường cải thiện kết quả học tập của
mình.[8]
Với đề tài nghiên cứu “ Sự lựa chọn việc làm thêm của sinh viên
năm 3 Trường Đại học Kinh Tế T.p Hồ Chí Minh” kết quả nghiên cứu
cho thấy có sự khác biệt,
có 40% sinh viên nữ và 60% sinh viên nam tham gia trả lời bảng
khảo sát, trong đó có 36% sinh viên thuộc khối ngành Quản trị kinh
doanh, 16% sinh viên thuộc khối ngành Kế toán – Kiểm toán, sinh
viên thuộc khối ngành Thương mại – Du lịch – Marketing chiếm 13%,
khối ngành Tài chính – Ngân hàng chiếm 8% và còn lại 27% sinh viên
thuộc các khối ngành khác của trường. Kết quả khảo sát cho thấy
10



phần lớn những công việc mà các sinh viên năm ba đa từng làm
nhiều nhất là nhân viên bán hàng, nhân viên nghiên cứu thị trường
và phát tờ rơi, ít tham gia nhất là công việc tự kinh doanh đồng thời
lí do chủ yếu mà các sinh viên năm 3 đi làm thêm là để có thêm kinh
nghiệm học hỏi và thời gian làm việc phù hợp với thời gian học,
chính hai lí do quan trọng này mà các bạn sinh viên mới chọn những
công việc dễ làm không cần có nhiều kinh nghiệm làm thêm trước
đó, cũng như những công việc này chủ yếu không tốn nhiều thời gian
để làm ảnh hưởng đến công việc học của sinh viên. Kết quả khảo sát
cũng cho thấy phần lớn các sinh viên cho rằng sinh viên năm ba cần
đi làm thêm, cũng như đây là thời điểm thích hợp nhất trong bốn
năm học đại học để đi làm thêm. Về mức lương các sinh viên chủ yếu
nhận được là trong khoảng từ 800.000- 2000.000đ, những công việc
các sinh viên làm chủ yếu là để có thêm kinh nghiệm, để có kiến
thức bên ngoài để học tốt hơn, nên các sinh viên chủ yếu làm những
cơng việc đơn giản, vì vậy mà mức lương của các sinh viên chỉ ở mức
trung bình thấp, chứ chưa cao. Về phương tiện tìm việc, đa số các
bạn thông qua người thân hoặc bạn bè giới thiệu, một số ít tận dụng
đến internet và rất ít tìm việc qua tờ rơi. Kết quả nghiên cứu đa giúp
các bạn sinh viên có thể thấy rõ hơn thực trạng đó, để từ đó có
những quyết định đúng đắn cho sự lựa chọn việc làm thêm của bản
thân, thêm thu nhập cho sinh viên, giúp sinh viên có thêm nguồn tài
chính phụ giúp việc học và các sinh hoạt khác. Đi làm giúp sinh viên
tiếp xúc với môi trường mới, từ đó tăng thêm sự tự tin, trưởng thành
ở sinh viên. Bên cạnh đó, làm thêm giúp các bạn sinh viên có thể
vận dụng kiến thức học ở trường vào cơng việc đồng thời học hỏi,
tích lũy thêm những kỹ năng, kinh nghiệm và kiến thức mà nhà
trường chưa trang bị. Đặc biệt nếu kiếm được một công việc tốt, phù
hợp với chun ngành đang học thì cơng việc đó là mơi trường để
các bạn sinh viên thử sức và tự trang bị thêm, hoàn thiện hơn những

kiến thức còn thiếu. Tuy nhiên bên cạnh những lợi ích thiết thực của
đi làm thêm đối với sinh viên thì cũng còn nhiều khó khăn liên quan
11


đến vấn đề làm thêm. Một trong những khó khăn đó là lựa chọn cơng
việc làm thêm bán thời gian phù hợp với thời gian học tập, đảm bảo
sức khoẻ học tập và môi trường học tập phù hợp. Kết quả nghiên cứu
một phần giúp cho sinh viên định hình được những điều mình có thể
có được khi đi làm thêm; giúp những sinh viên chưa từng làm thêm
có thể biết được những công việc nào là phù hợp với bản thân trong
giai đoạn này, trong ngành mà mình đang học này; Cũng giúp sinh
viên có thể tự trả lời một số câu hỏi như là: làm thêm có ảnh hưởng
đến công việc học hiện tại hay không, không biết làm cơng việc này
có giúp mình có kinh nghiệm cho ngành đang học hay không, và
nhiều câu hỏi nữa… Đồng thời bảng báo cáo còn có thể giúp cho
những người có nhu cầu tuyển nhân viên làm thêm có sự lựa chọn
đúng đắn khi biết được ngành học, những mong muốn của sinh viên
khi đi làm thêm để có thể tuyển chọn đúng người nhằm mang lại lợi
ích cao nhất cho cả hai bên tuyển dụng và sinh viên. [9]
Với đề tài “Khảo sát nhu cầu làm thêm của sinh viên”, nghiên cứu
của Trường Đại học công nghiệp Dệt may Tp Hồ Chí Minh. Xét về mặt
tích cực, khi đi làm thêm, sinh viên sẽ có được một khoản thu nhập,
sinh viên sẽ được tiêu chính những đồng tiền do mồ hơi cơng- sức lao
động do chính họ bỏ ra, lúc đó họ sẽ biết trân trọng giá trị của đồng
tiền hơn, biết cách chi tiêu một cách hợp lý hơn. Thứ hai, nếu sinh
viên đi làm thêm có liên quan đến chun ngành mình đang học thì
đó là một cơ hội để sinh viên áp dụng lý thuyết vào thực tế và đúc
rút những bài học kinh nghiệm cho mình. Thứ ba, việc đi làm thêm
sẽ giúp cho sinh viên gia tăng các mối quan hệ xa hội, cải thiện kỹ

năng giao tiếp, các kỹ năng mềm mà trên giảng đường sinh viên sẽ ít
có cơ hội được rèn luyện. Thứ tư, việc sinh viên tự đi làm thêm sẽ
giúp cho cá nhân đó rèn luyện tính tự lập, trưởng thành hơn,… Với
những ích lợi đó, sau này khi bước vào môi trường làm việc chuyên
nghiệp, sinh viên sẽ không bị bơ ngơ và cảm thấy tự tin hơn. Bên
cạnh đó những tác động tiêu cực từ xa hội sẽ làm cho sinh viên lúng
túng không biết cách xử lý sẽ dẫn đến gặp các vấn đề về tâm lý
12


cũng như càng gây khó khăn về tài chính. Vì vậy sinh viên cần xác
định cân nhắc giữa kết quả học tập và nhu cầu làm thêm.[10]
Nghiên cứu “ Nhận thức về việc làm thêm đến khó khăn tâm lý
của sinh viên Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng” thì chưa
có nghiên cứu nào.
1.2 Lý ḷn về việc làm thêm
1.2.1 Khái niệm việc làm thêm
Công việc làm thêm hay công việc bán thời gian (part - time
work) được định nghĩa là việc làm mà trong đó số giờ làm việc ít hơn
bình thường (Thurman & Trah, 1990). Theo Arne (2000), tởng thời
gian làm việc trung bình mỡi tuần được quy định làm căn cứ phân
loại công việc bán thời gian và toàn thời gian ở các quốc gia khác
nhau. Ở Hoa Kỳ và Pháp, công việc bán thời gian được quy định là
dưới 35 giờ một tuần, Canada và Anh là dưới 30 giờ một tuần, Đức là
dưới 36 giờ, trong khi đó ở Nhật Bản, việc quyết định một nhân viên
làm bán thời gian hay không do chủ doanh nghiệp phân loại mà
không căn cứ vào thời lượng làm việc. Theo đó, người lao động bán
thời gian sẽ làm việc theo ca, mỗi ca được sắp xếp xoay vòng luân
phiên giữa các nhân viên.
Nghiên cứu của Hielke năm 2004 về các yếu tố ảnh hưởng đến

quyết định làm việc bán thời gian ở các nước thuộc Liên minh châu
Âu (EU) cho thấy có 3 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu làm thêm
của người lao động gồm: Chu kỳ kinh doanh, Tổ chức thị trường lao
động, thể chế luật pháp và Yếu tố cấu trúc
Chu kỳ kinh doanh:
Kết quả nghiên cứu của Hielke cho thấy chu kỳ kinh doanh có
tác động đến sự biến động tỉ lệ việc làm bán thời gian của cơ cấu lao
động trong ngắn hạn và trung hạn, trở thành phương tiện điều
chuyển lực lượng lao động một cách linh hoạt sao cho phù hợp với
từng giai đoạn trong chu kỳ kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong
thời kỳ suy thoái, những người làm việc theo ca tăng lên do các nhà
tuyển dụng cung cấp việc làm bán thời gian như một cách để điều
13


chỉnh số giờ làm việc, tránh cho nhân viên bị sa thải hoặc rơi vào
tình trạng thất nghiệp dài hạn. Theo đó, chủ doanh nghiệp có thể
giảm số giờ làm việc của lực lượng lao động hiện tại hoặc thuê thêm
lao động mới làm việc bán thời gian nhằm tiết kiệm chi phí vượt qua
giai đoạn khó khăn của chu kỳ kinh doanh.
Sự tác động của chu kỳ kinh doanh đến tỉ lệ việc làm bán thời
gian ở chỗ người tuyển dụng có thể sử dụng cơng việc bán thời gian
để sàng lọc nhân viên tốt cho vị trí tồn thời gian, hoặc ngược lại
cung cấp các hợp đồng toàn thời gian cho nhân viên bán thời gian
nhằm giảm thiểu rủi ro khơng đáng có trong thời kỳ suy thối của
chu kỳ kinh doanh.
Về phía người được tuyển dụng, trong hoàn cảnh nền kinh tế
giảm sút hoặc tỉ lệ thất nghiệp gia tăng, người lao động sẵn sàng coi
công việc bán thời gian thay thế cho lựa chọn công việc toàn thời
gian, đồng thời khả năng tham gia thị trường lao động bán thời gian

của người có tay nghề thấp hoặc phụ nữ có xu hướng giảm.
Tở chức thị trường lao động và thể chế luật pháp
Các yếu tố thị trường lao động và thể chế luật pháp có khả năng
ảnh hưởng dài hạn đến tỉ lệ lao động bán thời gian. Các quy định luật
pháp hoặc thỏa ước lao động tập thể có thể ảnh hưởng đến sự phát
triển việc làm bán thời gian thông qua 3 cơ chế: Thứ nhất, một số
quy định về thời gian làm việc làm hạn chế nhà tuyển dụng sử dụng
công việc bán thời gian. Thứ hai, quy định về tiền lương, hệ thống
bảo trợ xa hội hoặc hệ thống pháp luật thuế trong tương quan so
sánh giữa việc làm bán
Việc làm bán thời gian là cách thức phụ nữ tham gia vào thị
trường lao động, biến động tăng giảm tỉ lệ phụ nữ trong cơ cấu dân
số tỉ lệ thuận với sự gia tăng tỉ lệ việc làm bán thời gian ở nhiều quốc
gia. Theo Fagan & ctg (1998), các gia đình có nam giới là trụ cột thì
phụ nữ được khuyến khích làm việc bán thời gian nhiều hơn so với
nam giới.

14


Kết quả lược khảo các nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy
có nhiều nghiên cứu liên quan đến nhu cầu việc làm bán thời gian
của người lao động. Valletta (2013) khi nghiên cứu những ẩn số đằng
sau sự gia tăng của lao động bán thời gian trong các thời kỳ suy
thoái của nền kinh tế giai đoạn từ năm 1976 đến 2013 cho thấy: sự
tác động của chu kỳ kinh doanh đến tỉ lệ lao động bán thời gian khi
nền kinh tế đi xuống, nhu cầu lao động giảm xuống kéo theo số giờ
lao động giảm, đồng nghĩa với tỉ lệ thất nghiệp tăng lên. Nghiên cứu
của Arne (1995) lại nghiên cứu về việc làm bán thời gian của người
lao động Hoa Kỳ ở khía cạnh chính sách. Các phân tích của ơng nhấn

mạnh những lợi ích của việc làm bán thời gian đối với cả người sử
dụng lao động và nhân viên nhưng các chính sách thu nhập, lợi ích,
thăng tiến, phúc lợi xa hội như bảo hiểm hưu trí… dường như chỉ
dành sự ưu ái cho lao động tồn thời gian, chính điều này đa làm
giảm hiệu quả công việc và sự trung thành ở người làm việc bán thời
gian đối với chủ sở hữu. Susan trong một nghiên cứu về sự tác động
của chính sách đối với lao động bán thời gian năm 2015 cho thấy tỉ
lệ lao động bán thời gian tại Nhật Bản tăng lên 80% từ năm 1982
đến năm 1992 và chiếm hơn 16% việc làm được trả lương năm 1992
nhờ các ưu đai về thuế và phúc lợi của chính phủ đối với lao động
bán thời gian và người phối ngẫu của họ.
Với quan niệm "Việc làm thêm", qua thu thập những thông tin
thứ cấp, xin nêu ra một vài quan niệm như sau:
Theo ông Đinh Văn Hường, chủ nhiệm Khoa Báo chí ở một
trường

tại



Nội:

“Việc làm thêm đối với sinh viên theo quan niệm của tơi có nghĩa là
sự

tham

gia

làm


việc ngay khi vẫn đang học ở trường tại các công ty, các tổ chức, các
đơn

vị,

các

hộ

gia

đình với mục đích có thêm thu nhập hoặc với mục tiêu học hỏi, tích
luỹ kinh nghiệm, cọ sát hơn với thực tế cuộc sống…” [11]

15


Anh Quách Minh Cường, quản lý nhân sự công ty TV Plus lại cho
rằng:

“Việc

làm thêm theo quan điểm của tôi chỉ đơn giản chính là các bạn sinh
viên chủ động tham gia các hoạt động xa hội ở các tổ chức trong và
ngồi trường để tích luỹ kinh nghiệm cho bản thân” [12]
Và theo bạn Linh Hương, cộng tác viên Ban Tuyên huấn – Văn
phòng

Đoàn


tại

một trường Đại học ở Hà Nội: “…với riêng tôi, được làm cộng tác viên
Ban tuyên huấn, được viết các bài báo cho Bản tin cũng là một cách
làm thêm, vừa có dịp nâng cao các kỹ năng viết lách, vừa biết cách
tổ chức và hoạt động của một tờ báo, lại có một khoản tiền nho nhỏ
để tiêu pha” [13]
Trên đây là một vài quan niệm về việc làm thêm đối với sinh viên
hiện

nay,

từ

đó, có thể rút ra quan niệm chung về việc làm thêm như sau: Việc
làm

thêm

đối

với

sinh viên là sự tham gia hoạt động lao động ngay khi vẫn đang học ở
Trường tại các công ty, các tổ chức, các đơn vị, các hộ gia đình với
sự thoả thuận của đơn vị tở chức lao động và cá nhân sinh viên với
mục đích có thêm thu nhập hoặc với mục tiêu học hỏi, tích luỹ kinh
nghiệm, cọ sát hơn với thực tế cuộc sống.
1.2.2 Đặc điểm việc làm thêm

Thứ nhât là hoạt động lao động xuất phát từ nhu cầu cá nhân
tạo ra giá trị thực
Thứ hai, việc làm là vấn đề của cộng đồng vì con người khơng
sống đơn lẻ và hoạt động lao động của mỗi cá nhân cũng không đơn
lẻ mà nằm trong tổng thể các hoạt động sản xuất của xa hội.
Thứ ba, việc làm còn được đánh giá trên các mặt như tính chất
cá nhân hay tập thể, tính chất kĩ thuật, tính chất kinh tế. Dựa trên
các tiêu chí này mà người ta chia việc làm thành các phạm trù nghề
nghiệp – xa hội khác nhau. [14]
1.3 Lý luận nhận thức
16


1.3.1 Khái niệm về nhận thức:
Theo Cuốn “Giải thích thuật ngữ Tâm lý – Giáo dục học”: “Nhận thức
là toàn bộ những quy trình mà nhờ đó những đầu vào cảm xúc được
chuyển hoá, được ma hoá, được lưu giữ và sử dụng. Hiểu Nhận thức
là một quy trình, nghĩa là nhờ có quy trình đó mà cảm xúc của con
người khơng mất đi, nó được chuyển hố vào đầu óc con người, được
con người lưu giữ và ma hoá,…
Theo Từ điển Giáo dục học: “Nhận thức là quá trình hay là kết quả
phản ánh và tái tạo hiện thực vào trong tư duy của con người”. được
hiểu là một quá trình, là kết quả phản ánh. Nhận thức là quá trình
con người nhận biết về thế giới, hay là kết quả của q trình nhận
thức đó (Nhận biết là mức độ thấp, hiểu biết là mức độ cao hơn, hiểu
được các thuộc tính bản chất).
Các quan niệm khác về nhận thức: “Nhận thức là hành động bằng trí
tuệ, để hiểu biết các sự vật hiện tượng”. Như vậy, Nhận thức và trí
tuệ được đồng nhất như nhau. Nhờ hoạt động trí tuệ này mà con
người mới hiểu biết được sự vật hiện tượng.

Nhà Tâm lý học người Đức cho rằng: “Nhận thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan trong ý thức của con người, nhận thức bao gồm;
Nhận thức cảm tính và Nhận thức lý tính, chúng có mối quan hệ biện
chứng với nhau và cơ sở, mục đích và tiêu chuẩn của Nhận thức là
thực tiễn xa hội”.
Do yêu cầu của lao động, của cuộc sống, con người thường xuyên
tiếp xúc với các sự vật hiện tượng xung quanh, qua đó con người
nhận thức được các nét cơ bản của sự vật hiện tượng .Cứ như vậy,
nhận thức của con người ngày càng được mở rộng. Với bài nghiên
cứu này tôi rất tâm đắc với khái niệm nhận thức: “Nhận thức là sự
phản ánh hiện thực khách quan trong ý thức của con người, nhận
thức bao gồm; Nhận thức cảm tính và Nhận thức lý tính, chúng có
mối quan hệ biện chứng với nhau và cơ sở, mục đích và tiêu chuẩn
của Nhận thức là thực tiễn xa hội”, khái niệm của nhà Tâm lý học
người Đức đa phản ánh tương đối đầy đủ nội hàm của Nhận thức [15]
1.3.2 Vai trò của Nhận thức

17


Con người trước khi làm việc đa có nhận thức, đa xác định được mục
đích hoạt động. Như vậy, Nhận thức có vai trò rất quan trọng đối với
cuộc sống và hoạt động của con người, Nhận thức là thành phần
không thể thiếu trong sự phát triển của con người. Nhận thức là cơ
sở để con người nhận biết thế giới và hiểu biết thế giới, từ đó con
người có thể tác động cải tạo được thế giới xung quanh và cao hơn
nữa là con người có thể cải tại được chính bản thân mình, phục vụ
được nhu cầu của chính mình.
1.3.3 Các mức đợ của nhận thức
Hoạt động nhận thức là một hoạt động quan trọng của đời sống con

người, nó là khởi nguồn của mọi sự hiểu biết, nhận thức là khởi
nguồn của mọi hoạt động trong đời sống con người. Nhận thức đúng
dẫn tới hành động đúng và ngược lại. Nhận thức chỉ đạo
hành động.
- Nhận thức cảm tính:
+Định nghĩa: Nhận thức cảm tính là q trình nhận thức phản ánh
các
thuộc tính bề ngồi của sự vật hiện tượng, khi chúng đang trực tiếp
tác động vào
các giác quan của chúng ta.
+Các quá trình của nhận thức cảm tính: Nhận thức cảm tính bao
gồm
hai q trình là cảm giác và tri giác.
Cảm giác là quá trình nhận thức phản ánh một cách riêng lẻ từng
thuộc
tính bề ngồi của sự vật hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác
động vào các giác
quan của chúng ta.
Sản phẩm của cảm giác là những cảm giác riêng lẻ.
Tri giác là quá trình nhận thức phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc
tính
bề ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động
vào các giác
quan của chúng ta.
Sản phẩm của tri giác là các hình tượng.
+ Đặc điểm chung của nhận thức cảm tính:
Nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính bề ngồi của sự vật
hiện
tượng với các mức độ khác nhau từ thấp đến cao.
18



Nhận thức cảm tính phản ánh trực tiếp các sự vật hiện tượng khi
chúng
trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta.
Sản phẩm của nhận thức cảm tính là các cảm giác riêng lẻ, là các
hình
tượng.
- Nhận thức lý tính:
+ Định nghĩa: Nhận thức lý tính là quá trình nhận thức phản ánh các
thuộc tính bản chất bên trong của sự vật hiện tượng, khi chúng đang
trực tiếp tác
động vào các giác quan của chúng ta.
+ Các quá trình của nhận thức lý tính: bao gồm có tư duy và tưởng
tượng.
Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất,
những liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật hiện
tượng trong
hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.
Sản phẩm của tư duy là các tri thức mới như các khái niệm, công
thức, định
luật,…
Tưởng tượng là một q trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng

trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh
mới trên cơ
sở những biểu tượng đa có.
Sản phẩm của tưởng tượng là những hình ảnh, biểu tượng mới trên
cơ sở
của những biểu tượng đa có trước đó.

+ Mối quan hệ giữa tư duy và tưởng tượng
Cùng nằm trong nấc thang nhận thức lý tính, tư duy và tưởng tượng

mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, bở sung cho nhau khi giải quyết một
tình huống có
vấn đề.
Tưởng tượng tìm ra lối thốt trong hồn cảnh có vấn đề khi tư duy bế
tắc,
tưởng tượng cho phép ta “nhảy cóc” qua một vài giai đoạn nào đó
của tư duy mà
vẫn cứ hình dung được kết quả cuối cùng.
Nhờ có tư duy mà tưởng tượng của con người mang tính khách
quan, hiện
19


thực hơn, giảm bớt sự bất hợp lý, thiếu chính xác, thiếu chặt chẽ vốn
là điểm yếu
của quá trình tưởng tượng.
-Trí nhớ
+ Định nghĩa: Trí nhớ là một q trình tâm lý phản ánh những kinh
nghiệm đa có của cá nhân dưới hình thức biểu tượng, bao gồm sự ghi
nhớ, giữ gìn và tái tạo lại ở trong
óc cái mà con người đa cảm giác, tri giác, xúc cảm, hành động hay
suy nghĩ trước
đây.Sản phẩm của trí nhớ là những hình ảnh, biểu tượng.
Trí nhớ là giai đoạn trung gian của nhận thức cảm tính và nhận thức
lý tính.
- Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đều là các mức độ nhận

thức
khác nhau của con người, chúng có quan hệ biện chứng với nhau để
nhận thức của
con người trở nên hoàn chỉnh, điều này được thể hiện như sau:
+ Nhận thức cảm tính là cơ sở, là nguồn nhiên liệu cho nhận thức lý
tính
Vd: Khi quan sát trời sắp đở mưa
+ Nhận thức lý tính tác động trở lại nhận thức cảm tính làm cho nhận
thức
cảm tính đầy đủ hơn, chính xác hơn, tinh vi hơn.
Vd: Có sự hướng dẫn của ngơn ngữ hay tư duy thì cảm giác, tri giác
trở nên
chính xác hơn, tinh vi hơn.
- Mối quan hệ ấy được kiểm nghiệm trong thực tiễn, thực tiễn là cơ
sở, là
động lực của nhận thức.
Vd: Hoạt động học tập phải thường xuyên gắn liền với thực hành.
1.3.4 Cấu trúc nhận thức
Thang đo nhận thức của Bloom (1956), gồm:
Nhớ/Biết (Remembering)
Nhớ là khả năng ghi nhớ và nhận diện thông tin. Nhớ là cần thiết cho
tất các mức độ tư duy. Nhớ ở đây được hiểu là nhớ lại những kiến
thức đa học một cách máy móc và nhắc lại.
Hiểu (Understanding)
Hiểu là khả năng hiểu, diễn dịch, diễn giải, giải thích hoặc suy
diễn (dự đốn được kết quả hoặc hậu quả). Hiểu không đơn thuần là
20


nhắc lại cái gì đó. Sinh viên phải có khả năng diễn đạt khái niệm

theo ý hiểu của họ.
Vận dụng (Applying)
Vận dụng là khả năng sử dụng thông tin và chuyển đổi kiến thức từ
dạng này sang dạng khác (sử dụng những kiến thức đa học trong
hoàn cảnh mới). Vận dụng là bắt đầu của mức tư duy sáng tạo. Tức
là vận dụng những gì đa học vào đời sống hoặc một tình huống mới.
Phân tích (Analyzing)
Là khả năng nhận biết chi tiết, phát hiện và phân biệt các bộ phận
cấu thành của thơng tin hay tình huống. Ở mức độ này đòi hỏi khả
năng phân nhỏ đối tượng thành các hợp phần cấu thành để hiểu rõ
hơn cấu trúc của nó.
Đánh giá (Evaluating)
Đánh giá là khả năng phán xét giá trị hoặc sử dụng thơng tin theo
các tiêu chí thích hợp. (Hỡ trợ đánh giá bằng lý do/lập luận). Để sử
dụng đúng mức độ này, sinh viên phải có khả năng giải thích tại sao
sử dụng những lập luận giá trị để bảo vệ quan điểm.
Là khả năng phán xét giá trị hoặc sử dụng thông tin theo các tiêu chí
thích hợp (hỡ trợ đánh giá bằng lý do/lập luận).
Sáng tạo (Creating)
Đạt được cấp độ nhận thức cao nhất này người học có khả năng tạo
ra cái mới, xác lập thông tin, sự vật mới trên cơ sở những thơng tin,
sự vật đa có.
1.4 Đặc điểm tâm lý sinh viên
+ Những điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của sinh viên
Hệ vận động
Sự phát triển thể chất lứa t̉i sinh viên đa đạt được sự hồn chỉnh
về cấu trúc và sự phối hợp giữa các chức năng của cơ thể, các tố
chất về thể lực như sức nhanh, sức bền bỉ, độ dẻo dai, linh hoạt đều
phát triển mạnh nhờ sự phát triển của các tuyến nội tiết cũng như sự
tăng trưởng của các hoocmôn nam và nữ

Hệ thần kinh
Hoạt động thần kinh cấp cao đa đạt đến mức trưởng thành.
Số lượng xi náp của các tế bào thần kinh đảm bảo cho một sự liên
lạc rộng khắp, chi tiết, tinh tế và linh hoạt giữa vô số các kênh làm
cho hoạt động của nao bộ trở nên nhanh, nhạy, chính xác đặc biệt so
với các lứa tuổi khác.
21


Với sự phát triển hoàn hảo của hệ thần kinh ở sinh viên như trên thì
theo GS. Lê Quang Long, ước tính có tời 2/3 kiến thích của cuộc đời
được tích luỹ trong thời gian 6-7 năm học đại học.
Như vậy, sự phát triển hoàn thiện về mặt thể chất và về mặt trí tuệ
của lứa t̉i sinh viên tạo điều kiện cho học tập và lao động
Vai trò xa hội của sinh viên : vị trí chuyển tiếp, chuẩn bị cho một đội
ngũ tri thức có trình độ và nghề nghiệp tương đối cao trong xa hội.
Họ sẽ là nguồn dự trữ chủ yếu cho đội ngũ những chuyên gia theo
các nghề nghiệp khác nhau trong cấu trúc tầng lớp tri thức xa hội.
Các tở chức chính trị, xa hội, gia đình đều đặt nhiều kỳ vọng vào sinh
viên. Điều này làm cho thanh niên sinh viên có vai trò xa hội rõ rệt.
+Xét hai hoạt động của sinh viên
- Hoạt động học tập : Hoạt động học tập ở trường đại học mang tính
chất chuyên ngành, phạm vi hẹp hơn, sâu sắc hơn và gắn liền với
một nghề nhất định có kế hoạch, có mục đích, nội dung, chương
trình, phương thức, phương pháp đào tạo theo thời gian một cách
chặt chẽ. Sự thích nghi của sinh viên với cuộc sống và hoạt động mới
bước chân vào trường đại học, một cuộc sống học tập và xa hội mới
ngày càng mở rộng ra trước mắt sinh viên. Trong môi trường mới
này, để hoạt động học tập có kết quả đòi hỏi các em phải có sự thích
nghi với các hoạt động diễn ra trong trường đại học. Quá trình thích

nghi này chủ yếu tập trung ở các mặt:
Nội dung học tập mang tính chuyên ngành.
Phương pháp học tập mới mang tính nghiên cứu khoa học. - Mơi
trường sinh hoạt mở rộng.
Nội dung và cách thức giao tiếp phong phú và đa dạng.
Các cơng trình nghiên cứu đa chỉ ra rằng, sinh viên cần có thời gian
nhất định để thích ứng với tất cả những vấn đề trên. Sự thích ứng
này ở mỡi sinh viên khơng hồn tồn như nhau, tuỳ thuộc vào đặc
điểm tâm lý cá nhân và môi trường sống cụ thể của các em quy định.
Có những sinh viên dễ dàng và nhanh chóng hồ nhập với mơi
trường xa hội mới, nhưng lại gặp khó khăn trong việc thích ứng với
phương pháp và cách thức học mới. Có người cảm thấy ít khó khăn
trong việc tiếp thu tri thức, dễ vượt qua cách học chuyên sâu ở đại
học nhưng lại lúng túng, thiếu tự tin trong việc hoà nhập với bạn bè
22


và các nhóm hoạt động trong lớp, trong trường. Một số sinh viên hoà
đồng, cỏi mở còn một số khác lại thận trọng, khép kín. Kết quả
nghiên cứu khoa học cũng cho thấy, sau một thời gian học tập ở
trường đại học đa số sinh viên thích ứng khá nhanh chóng với mơi
trường xa hội mới. Khó khăn có tính chất bao trùm hơn cả là việc
thích nghi được với nội dung, phương pháp học tập mới có tính chất
nghiên cứu khoa học và học nghề đối với những chuyên gia tương lai.
Mức độ thích nghi này có ảnh hưởng trực tiếp tới thành công trong
học tập của sinh viên.
- Hoạt động lao động: là loại hoạt động trí tuệ đích thực, cường độ
cao và có tính lựa chọn rõ rệt, sự kiện của q trình nhận thức cảm
tính làm cơ sở, song các thao tác trí tuệ đa phát triển ở trình độ cao
và đặc biệt có sự phối hợp nhịp nhàng, tinh tế, uyển chuyển và linh

hoạt theo từng tình huống có vấn đề. Họ thường ít thoả man với
những gì đa biết, ln mong muốn đào sâu suy nghĩ để nắm vững
vấn đề hơn. Nhờ có trí nhớ, sinh viên tích luỹ được tri thức, kinh
nghiệm, kỹ năng kỹ xảo nghề nghiệp tương lai. Quá trình tư duy diễn
ra rất căng thẳng trong suốt quá trình học tập của sinh viên. Tư duy
ở sinh viên gắn liền với các phẩm chất nhân cách độc lập, tự đặt ra
vấn đề, tự tìm cách giải quyết vấn đề theo nhiều phương hướng khác
nhau, có ý chí theo đ̉i mục đích đến cùng và có khả năng tự đánh
giá kết quả tìm được.
Ngồi ra còn có những động cơ mang tính chất đồng nhất xa hội do
ảnh hưởng trực tiếp của bố mẹ hay bạn bè. Cụ thể là:
Động cơ xa hội thể hiện ở ý thức về nhu cầu, các lợi ích xa hội, các
chuẩn mực và mục đích xa hội. Ví dụ, sinh viên tin vào sự cần thiết
có học vấn cao để tham gia vào đời sống xa hội của đất nước, mong
muốn tham gia tích cực và có kết q tở vào sự phát triển của khoa
học kỹ thuật …
Động cơ nhận thức khoa học biểu hiện ở thái độ đối với chính q
trình nhận thức, với nội dung các vấn đề được nghiên cứu. Ví dụ, sinh
viên hứng thú với các vấn đề lý luận khoa học, hứng thú với quá trình
nhận thức, khao khát tiếp nhận tri thức mới …
23


Động cơ nghề nghiệp thể hiện ở trình độ học vấn cao là cơ sở chuẩn
bị cho nghề nghiệp. Ví dụ, sinh viên muốn nắm vững nghề đa chọn,
hứng thú với nghề nghiệp và có khả năng sáng tạo nghề nghiệp …
Động cơ tự khẳng định mình là ý thức về những năng lực và mong
muốn được thể hiện các năng lực đó.
Động cơ vụ lợi hay những động cơ trội về cái lợi cho cá nhân.
Đặc điểm nhân cách của sinh viên, muốn được người lớn coi trọng,

muốn được khẳng định trong xa hội.
Tự ý thức : tự đánh giá về bản thân, định hình xu hướng phát triển
bản thân, đi tìm vị trí riêng cho cuộc sống.
Sự trưởng thành trong quan hệ giao tiếp : nhu cầu giao tiếp với cha
mẹ giảm, tăng cường giao tiếp với bạn bè cùng lứa. [16]
1.5 Nhận thức về việc làm thêm của sinh viên
1.5.1 Khái niệm về việc làm thêm của sinh viên
là công việc mà pháp luật cho phép, hầu như sinh viên làm những
công việc bán thời gian, sinh viên sắp xếp khoảng thời gian trống
ngoài giờ học để đi làm thêm và hưởng thù lao lao động theo giờ
hoặc theo sản phẩm cơng việc, mục đích làm thêm có một khoản thu
nhập phục vụ cho chi phí học tập, tích lũy kinh nghiệm có thể vì đam
mê sở thích.
1.5.2 Nhận thức về việc làm thêm của sinh viên
Báo cáo mới nhất của Tập đoàn HSBC về đề tài giáo dục nhan đề “Giá trị của Giáo
dục – Cái giá của thành công” cho thấy hơn 80% sinh viên đi làm thêm, sinh viên đại
học trên khắp thế giới đang chăm chỉ làm thêm bên cạnh việc học để bù đắp cho khoản
chênh lệnh đáng kể giữa chi phí thực tế với số tiền được hỗ trợ từ cha mẹ. Cuộc nghiên
cứu của HSBC có sự tham gia của hơn 10.000 bậc cha mẹ và 1.500 sinh viên ở 15
quốc gia/ lãnh thổ.Theo kết quả nghiên cứu, sinh viên trên thế giới, họ đối mặt với sự
thiếu hụt tài chính đáng kể cho học phí, ăn ở, chi trả các hóa đơn và các tiêu dùng cá
nhân trong suốt thời gian học đại học và phải tìm cách bù đắp từ các nguồn khác.
Thống kê tỷ lệ sinh viên vừa học vừa làm thêm thế giới, Các Tiểu Vương Quốc A Rập
Thống Nhất 98%, Trung Quốc 94%, Hồng Kông 92%, Malaysia 89%, Usc 89%,My
85%, Thổ Nhĩ Kỳ 81%, Inđonêxia 80%, Vương Quốc Anh 79%, Đài Loan 79%, Ân
Độ 74%, Singapore 74%, Canada 72% . Ngoài các khoản hỗ trợ từ gia đình, nhiều sinh
viên đã tìm đến các cơng việc bán thời gian. Tỷ lệ sinh viên trên thế giới đi làm rất
cao, cứ 5 sinh viên thì có hơn 4 người (83%) vừa học vừa làm, hầu hết là do họ cần
kiếm thêm tiền (53%). Sinh viên dành phần lớn thời gian để kiếm thêm thu nhập
(trung bình là 3,4 giờ mỗi ngày), nhiều hơn thời gian họ lên giảng đường và học nhóm

(2,7 giờ), học ở nhà (2,5 giờ) hoặc ở thư viện (1,6 giờ). Một nghiên cứu riêng về chủ
đề này cho thấy, làm thêm vượt quá 20 giờ mỗi tuần sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến
điểm số của sinh viên. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng cho thấy, sinh
viên có số giờ làm thêm từ 10-19 giờ mỡi t̀n có kết quả học tập tốt
24


×