Tải bản đầy đủ (.docx) (108 trang)

Phát triển thị trường vốn việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế002

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.27 KB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

TRẦN THỊ MỸ DUNG

Phát triển thị trường vốn Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

luËn v¨n th¹c sÜ KINH TẾ

Hµ néi – 2006


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

TRẦN THỊ MỸ DUNG

Phát triển thị trường vốn Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Mã số

luËn v¨n th¹c sÜ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Hồng Sơn

Hµ néi - 2006


MỤC LỤC


Lời nói đầu
Danh mục các từ viết tắt
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG VỐN

1.1. Những vấn đề chung về thị trường vốn
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Các chủ thể và công cụ tham gia trên thị trường vốn
1.1.3. Chức năng và vai trò của thị trường vốn
1.2. Xu hướng phát triển thị trường vốn trong điều kiện toàn cầu hóa
hiện nay
1.3. Kinh nghiệm phát triển thị trường vốn của một số nước trên thế
giới
1.3.1. Tình hình phát triển thị trường vốn và kinh nghiệm của Trung
Quốc
1.3.2. Tình hình phát triển TTV và kinh nghiệm của một số nước khác
1.3.2.1. Các nước chuyển đổi ở Châu Âu và cộng đồng các quốc gia
độc lập
1.3.2.2. Các nước Đông Á
1.3.3. Bài học kinh nghiệm phát triển TTV của các nước
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN TTV VIỆT NAM TRONG QUÁ
TRÌNH HNKTQT

2.1. Tình hình phát triển thị trường vốn Việt Nam trong quá trình
HNKTQT
2.1.1. Thị trường chứng khoán

1


2.1.2. TTTD dài hạn

2.2. Những bước phát triển và hạn chế, tồn tại chủ yếu của TTV Việt
nam trong quá trình HNKTQT
2.2.1. Những thành tựu đã đạt được
2.2.2. Hạn chế, tồn tại và nguyên nhân
2.2.2.1. Hạn chế và tồn tại trên TTCK
2.2.2.2. Hạn chế và tồn tại trên TTTD
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN TTV
VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HNKTQT

3.1. Định hướng phát triển thị trường vốn Việt Nam trong thời gian tới

3.1.1. Những thách thức đối với thị trường vốn Việt Nam trong quá
trình HNKTQT
3.1.2. Mục tiêu, quan điểm và định hướng phát triển thị trường vốn
Việt Nam trong thời gian tới
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường vốn Việt Nam
trong quá trình HNKTQT
3.3.1. Định hướng các giải pháp phát triển thị trường vốn Việt Nam
trong quá trình HNKTQT
3.3.2. Một số giải pháp chủ yếu phát triển thị trường vốn Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


DNNN

: Doanh nghiệp Nhà nước

ĐTNN

: Đầu tư nước ngoài

HNKTQT

: Hội nhập kinh tế quốc tế

IPO

: Phát hành chứng khoán lần đầu ra công
chúng (Initial Public Offering)

NHNN

: Ngân hàng Nhà nước

NHTM

: Ngân hàng thương mại

SGDCK

: Sở Giao dịch Chứng khoán

TCTD


: Tổ chức tín dụng

TTCK

: Thị trường chứng khoán

TTCP

: Thị trường cổ phiếu

TTGDCK

: Trung tâm Giao dịch chứng khoán

TTLKCK

: Trung tâm lưu ký chứng khoán

TTTD

: Thị trường tín dụng

TTTP

: Thị trường trái phiếu

TTV

: Thị trường vốn


WTO

: Tổ chức thương mại thế giới (World Trade
Organization)

3


Phần mở đầu
Sự cần thiết của đề tài
Thị trường vốn là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường. Đây là
nơi mua bán, trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn (thường có thời
hạn trên một năm). Các công cụ được giao dịch trên thị trường vốn gồm cổ
phiếu của các doanh nghiệp, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, các loại
khế ước thế chấp và tín dụng ngân hàng…Các doanh nghiệp, nhà đầu tư, cá
nhân, hộ gia đình, chính phủ và các định chế trung gian tham gia trên thị
trường vốn với tư cách là các chủ thể.
Cho đến nay, các nghiên cứu vẫn chưa đưa ra một khái niệm thống nhất
về thị trường vốn. Căn cứ vào cách tiếp cận khác nhau, người ta có thể có
quan niệm khác nhau về thị trường vốn. Hiện nay, có hai trường phái quan
điểm chính; đó là trường phái theo quan điểm của Pháp và trường phái theo
quan điểm của Mỹ, Anh, Đức. Cách phân chia thị trường theo hai trường phái
quan điểm này đều có ưu, nhược điểm nhất định; do đó, tùy vào mục đích
nghiên cứu, người ta có thể lựa chọn cách phân loại phù hợp. Trong phạm vi
Luận văn, chúng tôi chọn quan niệm của Mỹ, Anh, Đức (và một số nước
khác), trong đó thị trường vốn là một bộ phận của thị trường tài chính và là
nơi giao dịch các nguồn vốn trung và dài hạn.
Thị trường vốn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Vai trò đó thể hiện trước hết ở những đóng góp to
lớn khi nó được vận hành hiệu quả; ngược lại, những thiệt hại nặng nề trong

trường hợp đổ vỡ thị trường cũng cho thấy việc đảm bảo một thị trường vốn
hoạt động lành mạnh luôn luôn là một yêu cầu cấp thiết.
Thị trường vốn phát triển là cơ chế hiệu quả để phân bổ nguồn vốn và
thúc đẩy hoạt động kinh doanh vốn. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa thị trường vốn vừa là nội dung, và cũng là
giải pháp góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán nội địa.
4


Thêm vào đó, là một kênh dẫn vốn của nền kinh tế, việc mở cửa hội nhập thị
trường vốn (và đi kèm theo nó là quá trình tự do hoá dòng chảy vốn đầu tư
giữa các quốc gia) sẽ có tác động trực tiếp trong việc gia tăng nguồn vốn đầu
tư cho nền kinh tế; kích thích sự phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động
của thị trường vốn nội địa; tăng áp lực cạnh tranh, tạo điều kiện giúp khu vực
tài chính hoạt động có hiệu quả và bền vững hơn; đồng thời giúp các tổ chức
tài chính nội địa có điều kiện cải thiện năng lực quản lý.
Tuy nhiên, mở cửa thị trường vốn cũng sẽ tăng tính phụ thuộc và chịu
những tác động trực tiếp từ những biến động trên thị trường vốn quốc tế. Thị
trường vốn thiếu lành mạnh và non trẻ là đối tượng dễ bị tổn thương hơn bao
giờ hết. Do đó, cần phải thận trọng và có những giải pháp thích hợp để đảm
bảo an toàn và hiệu quả của hội nhập. Thực tiễn và kinh nghiệm của các nước
là những minh chứng tin cậy về vấn đề này.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của thị trường vốn, Đảng và nhà nước
ta đã xác định trong Nghị quyết Đại hội IX năm 2001 “Phát triển nhanh và
bền vững thị trường vốn, nhất là thị trường vốn dài hạn và trung hạn”. Ở
nước ta, thực tiễn phát triển trong nhiều năm qua cho thấy, các cấu thành cơ
bản của thị trường vốn đã dần hình thành và đang được vận hành trong một
khuôn khổ pháp lý xác định. Tuy nhiên, thị truờng vốn nước ta vẫn còn sơ
khai, đang phát triển ở trình độ thấp và quy mô nhỏ so với các nước trong khu
vực và thế giới. TTCK ở nước ta chưa thực sự trở thành kênh đắc lực trong

huy động và phân bổ vốn trung, dài hạn; do đó, nguồn cung ứng vốn cho các
doanh nghiệp chủ yếu vẫn là các ngân hàng thưong mại. Hệ thống các định
chế trung gian của thị trường vốn còn kém phát triển; hoạt động của hệ thống
ngân hàng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; khuôn khổ pháp lý chưa hoàn chỉnh; các
nguyên tắc quốc tế và quản lý thị trường chưa được áp dụng một cách đồng
bộ. Thực tế này đã đặt ra những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, đặc biệt
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng với nhiều rủi ro
và nguy cơ không lành mạnh tiềm ẩn.
5


Như vậy, những nghiên cứu về thị trường vốn thực sự có ý nghĩa về mặt lý
luận và thực tiễn trước những vấn đề đặt ra trong thực tế đối với phát triển thị
trường vốn nước ta trong điều kiện hội nhập. Do đó, tôi đã chọn đề tài “Phát
triển thị trường vốn Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” với mục
đích nghiên cứu thực trạng và đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
thị trường vốn Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung của
Luận văn sẽ được phân tích theo cơ cấu các chương, bao gồm:

Chương I. Cơ sở lý luận chung về thị trường vốn
Chương I. Tình hình phát triển thị trường vốn Việt Nam trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế
Chương III. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường vốn
Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tình hình nghiên cứu
Thị trường vốn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế, do đó
đã nhận được sự quan tâm của nhiều tác giả và là đối tượng của một số đề tài
nghiên cứu khoa học của các cơ quan chức năng. Các bài viết về thị trường
vốn tương đối đa dạng về hình thức nghiên cứu, bao gồm đề tài, đề án, luận
án, các bài viết nghiên cứu, các bài báo, một phần trong giáo trình giảng dạy

ở các trường Đại học và cao đẳng….Trong đó, điển hình là một số nghiên cứu
dưới hình thức đề tài khoa học hoặc Luận án Tiến sĩ như sau:
1.

Trần Mạnh Dũng (1998): “Sự hình thành và phát triển thị trường

vốn ở Việt Nam hiện nay”, Luận án TS kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh.
Nội dung: Phân tích quá trình hình thành và phát triển thị trường vốn
Việt Nam; đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển
thị trường vốn Việt Nam hiện nay.

6


2.

Phạm Văn Hùng (2003), “Tác động của việc mở cửa thị trường vốn

đối với nền kinh tế các nước đang phát triển: Bài học cho Việt Nam”, Luận án
Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Nội dung: Cơ sở lý luận và thực tiễn về mở cửa hội nhập thị trường vốn
tại các nước đang phát triển. Tác động của mở cửa thị trường vốn đầu tư và
phát triển của các nước đang phát triển. Trên cơ sở đó, khái quát một số bài
học khoa học dành cho Việt Nam.
3.

Đỗ Đức Quân (2001), “Thị trường vốn Việt Nam trong quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Luận án TS khoa học kinh tế, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Nội dung: Quy luật hình thành và phát triển thị trường vốn, điều kiện,
tiền đề cơ bản cho sự hình thành và phát triển của thị truờng vốn Việt Nam
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những giải pháp phát triển thị
trường vốn từ nay đến năm 2010.
4.

Ban Kinh tế Trung ương (2004), Đề tài khoa học “Định hướng và

những giải pháp chủ yếu để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của
thị trường vốn ở nước ta theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX của Đảng”
Nội dung: Làm rõ những chủ trương, quan điểm về phát triển thị trường
vốn Việt Nam; đánh giá tình hình thị trường vốn từ 2001-2004; đề xuất một
số giải pháp chủ yếu để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị
trường vốn ở nước ta theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX của Đảng.
Nhìn chung, do nghiên cứu từ lâu nên những công trình nói trên chưa
cập nhật; mặt khác, tùy thuộc mục đích, yêu cầu nghiên cứu nên chưa có công
trình nào tập trung nghiên cứu chuyên sâu về thị trường vốn gắn với quá trình
hội nhập kinh tế của Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn sẽ bổ sung tình hình
phát triển mới của thị trường vốn Việt Nam, đặc biệt là phần hội nhập kinh tế
quốc tế.

7


Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích lý luận chung và tình hình
phát triển của thị trường vốn Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế để đề xuất một số gợi ý giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường vốn
Việt Nam trong điều kiện hội nhập KTQT.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

-

Đối tượng nghiên cứu: môi trường pháp lý và hiệu quả hoạt động của
thị trường vốn Việt Nam trong quá trình hội nhập KTQT

-

Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thị trường vốn Việt Nam bao gồm thị
trường tín dụng dài hạn và thị trường chứng khoán gắn liền với quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thời gian nghiên cứu từ năm 1986
nhưng chủ yếu tập trung những năm gần đây khi những tác động của
quá trình hội nhập đã trở nên rõ ràng.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong

Luận văn là phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh và xin ý kiến chuyên gia.
Luận văn đã vận dụng quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển thị trường
vốn Việt Nam hiện nay; có kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học đi trước.
Những đóng góp của Luận văn
-

Làm rõ một số cơ sở lý luận chung về thị trường vốn

-

Phân tích tình hình phát triển thị trường vốn Việt Nam trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế; trong đó cập nhật tình hình mới trong điều kiện
hiện nay.
-


Đề xuất một số gợi ý giải pháp chủ yếu nhằm phát triển thị trường

vốn nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Bố cục của luận văn: Luận văn được trình bày theo kết cấu chương,
mục. Ngoài phần mở đầu, kết luận, các danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung chính của luận văn gồm 3 chương và 7 mục.
8


CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG VỐN

1.1. Những vấn đề chung về thị trường vốn
1.1.1. Khái niệm
Thị trường vốn là một phạm trù của kinh tế thị trường. Phạm trù này có
thể được tiếp cận dưới nhiều góc độ dẫn đến các quan niệm khác nhau. Tùy
vào mục đích nghiên cứu, người ta có thể lựa chọn quan niệm và cách phân
loại phù hợp. Hàng hóa được trao đổi trên TTV là loại hàng hóa có tính chất
đặc biệt, gọi chung là vốn. Vậy trước hết, vốn là gì?
Thực tế hiện nay còn tồn tại nhiều khái niệm khác nhau về vốn (tư
bản). Từ điển Kinh tế thị trường định nghĩa vốn (tư bản) “là những tài sản có
khả năng tạo ra thu nhập và bản thân nó cũng được tái tạo ra” (3, tr 56).
Theo định nghĩa này, vốn là tài sản và có khả năng tạo ra một nguồn thu nhập
khác ngoài bản thân nó.
Bên cạnh đó, trong Bộ Tư bản, Mác đã kết luận quá trình chuyển hoá
của tiền thành tư bản như sau: “Như vậy là giá trị ứng ra ban đầu không
những được bảo toàn trong lưu thông, mà còn thay đổi đại lượng của nó, còn
cộng thêm một giá trị thặng dư, hay đã tăng thêm giá trị. Chính sự vận động
ấy đã biến giá trị đó thành tư bản” (46, tr228). Sự khác biệt giữa hàng hóa tư
bản và các hàng hóa thông thường khác được Mác nhấn mạnh: “Đối với các

hàng hoá khác, cuối cùng, giá trị sử dụng của chúng đều do người mua tiêu
dùng đi, đồng thời, thực thể của hàng hoá và giá trị của nó cũng biến mất
theo. Trái lại, hàng hoá tư bản lại có đặc tính là khi giá trị sử dụng của nó
được đem tiêu dùng đi, hàng hoá- tư bản không những vẫn giữ nguyên giá trị
và giá trị sử dụng của nó, mà còn làm cho giá trị và giá trị sử dụng của nó
tăng thêm lên nữa” (47, tr 537)
Tuy hiện vẫn còn nhiều khái niệm khác nhau về vốn (tư bản), nhưng
khi nghiên cứu bản chất của nó, chúng ta có thể nhận thấy một số đặc trưng

9


chung. Trước hết, vốn là hình thái giá trị được biểu hiện bằng tiền. Nói như
vậy có nghĩa là vốn không chỉ tồn tại dưới hình thức giá trị độc lập (tiền tệ)
mà còn tồn tại trong các tài sản hữu hình, vô hình và đại diện cho một lượng
giá trị hàng hoá, dịch vụ, tài sản nhất định. Vốn còn được thể hiện bằng tiềm
năng và lợi thế vô hình như vị trí địa lý, bản quyền sáng chế…Thứ hai, vốn
được biểu hiện bằng tiền, nhưng không phải tất cả tiền đều là vốn. Tiền chỉ là
vốn khi nó được đưa vào sử dụng với mục đích đầu tư hoặc kinh doanh.
Trong quá trình vận động, tiền quay trở về điểm xuất phát với một lượng lớn
hơn bản thân nó. Cuối cùng, trong nền kinh tế thị trường, vốn là một loại hàng
hoá đặc biệt. Theo Mác, “Tiền chỉ được đem nhượng lại với hai điều kiện,
một là nó sẽ quay về điểm xuất phát sau một kỳ hạn nhất định, và hai là nó sẽ
quay về điểm đó với tư cách là tư bản đã thực hiện, nghĩa là sau khi đã thực
hiện các giá trị sử dụng của nó, thực hiện được các khả năng của nó là sản
xuất ra giá trị thặng dư”.
Tóm lại, vốn có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể là tài
sản (đã được giá trị hoá), có thể là tiền tệ. Nhưng đã là vốn thì phải gắn với sự
vận động và phải sinh lời. Trong cơ chế thị trường, vốn trở thành hàng hoá
với tính chất đặc biệt đã được Mác nêu rõ như phần phân tích trên.

Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, vốn có thể được phân loại theo
nhiều cách thức. Mác căn cứ vào khả năng thay đổi giá trị của các bộ phận tư
bản trong quá trình sản xuất để phân loại thành tư bản bất biến và tư bản khả
biến (nguồn gốc sinh lời của vốn bắt nguồn từ bộ phận tư bản khả biến). Mặt
khác, căn cứ vào tính chất chu chuyển và phương thức chuyển dịch, tư bản
(vốn) lại được chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
Ngoài ra, tuỳ từng mục đích nhất định, người ta cũng có các cách phân
loại hàng hoá đặc biệt này khác nhau. Căn cứ vào hình thức tồn tại có vốn tiền tệ
và tài sản; căn cứ vào chủ sở hữu có vốn chủ sở hữu và vốn vay; căn cứ vào thời
gian cho vay và trả nợ có vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Trong đó,

10


cách phân chia dựa vào tiêu chí chủ sở hữu đóng vai trò quan trọng trong
nghiên cứu và phân tích TTV.
Trong một nền kinh tế, hiện tượng thừa và thiếu vốn luôn luôn tồn tại
song hành. Hiện tượng này làm phát sinh cung và cầu về vốn. Trong đó, cung
về vốn có nguồn gốc từ những tổ chức, doanh nghiệp hay cá nhân…có tiền
nhàn rỗi (do chi tiêu ít hơn thu nhập, hoặc chưa đến hạn phải chi tiêu). Để
không làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, họ có nhu cầu cho vay số tiền này
trong một thời gian nhất định để hưởng lãi. Đồng thời, cầu về vốn lại xuất
phát từ những tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đang thiếu vốn cho hoạt động
đầu tư hoặc tiêu dùng của mình. Chính hệ thống luân chuyển vốn giữa một
bên là người có vốn và một bên là người cần vốn gọi chung là thị trường vốn.
Cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất trong quan điểm về thị trường
vốn. Căn cứ vào cách tiếp cận khác nhau, người ta có thể có quan niệm khác
nhau, giới hạn phạm vi khác nhau về phạm trù này. Tuy nhiên, các nghiên cứu
cho thấy có hai trường phái chủ yếu; đó là các trường phái theo quan điểm
của Pháp (và một số nước khác) và trường phái theo quan điểm của Mỹ, Anh,

Đức (và một số nước khác).
Theo quan điểm của Pháp (và một số nước khác), TTV là thị trường
giao dịch cả nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Căn cứ vào phương
thức chuyển dịch vốn theo thuộc tính thời gian và hình thức vận động, TTV
được phân chia thành thị trường tiền tệ và thị trường tài chính. Cụ thể:
Thị trường vốn

Thị trường tiền tệ
-

Thị trường tín dụng

-

Thị trường Liên ngân hàng

-

Thị trường các giấy tờ có giá ngắn hạn

Thị trường tài chính
- TT chứng khoán

11


Như vậy, theo quan điểm này, TTV là khái niệm rộng và bao hàm cả thị
trường tài chính. Trong đó, các nguồn vốn ngắn hạn vận động không tập trung,
chủ yếu là các phương tiện thanh toán và được quy thành đối tượng của thị
trường tiền tệ. Các nguồn vốn dài hạn, ngược lại, vận động tập trung thành các

kênh lớn để đáp ứng nhu cầu đầu tư sản xuất kinh doanh và được tụ lại trên các
điểm giao dịch vốn lớn, được quy thành đối tượng của thị trường tài chính.
Cách phân chia theo quan điểm này đã bao quát được cả nguồn vốn ngắn
hạn và dài hạn. Tuy nhiên, việc phân chia thành các bộ phận nhỏ hơn là thị
trường tiền tệ và thị trường tài chính lại chưa có đủ căn cứ thuyết phục. Bởi vì,
tài chính là một khái niệm rộng gồm nhiều khâu và lĩnh vực hoạt động giao dịch
các nguồn vốn tài chính, kể cả nguồn vốn tài chính ngắn hạn và dài hạn.

Khác với quan điểm của Pháp, trường phái quan điểm thứ hai của Mỹ,
Anh, Đức (và một số nước khác) lại cho rằng TTV chỉ là một bộ phận của thị
trường tài chính; đối tượng được mua bán trên thị trường này là chứng khoán
và các giấy ghi nợ trung hoặc dài hạn. Cụ thể:
Thị trường tài chính

Thị trường tiền tệ

Thị trường vốn
(TTTD dài hạn, TTCK)

Cách phân chia từ cách tiếp cận hệ thống thị trường như trên tương đối
dễ hiểu. Căn cứ vào thời gian sử dụng, vốn vay của người đi vay và người
tích luỹ được phân biệt thành nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn. Thị trường tiền
tệ là nơi giao dịch các nguồn vốn ngắn hạn giữa các ngân hàng thương mại,
giữa ngân hàng thương mại và ngân hàng trung ương. Trong khi đó, các
nguồn vốn dài hạn là đối tượng của TTV (gồm TTTD dài hạn và TTCK, trong
đó chủ yếu là TTCK).
Như vậy, trong khi cách phân chia thứ nhất bao quát hết các nguồn vốn
giao dịch trên thị trường thì trường phái thứ hai lại bỏ qua nguồn vốn ngắn
12



hạn. Tuy nhiên, xuất phát từ vai trò quan trọng của các nguồn vốn dài hạn đối
với đầu tư phát triển kinh tế, xã hội; đồng thời, để dễ tiếp cận trong quá trình
nghiên cứu, chúng tôi chọn cách phân chia theo quan điểm của trường phái
thứ hai. Theo quan điểm này, TTV và thị trường tiền tệ là hai bộ phận của thị
trường tài chính. Hai bộ phận này trên thực tế có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Những biến đổi về giá cả, lãi suất trên thị trường tiền tệ thường kéo theo các
biến đổi trực tiếp trên thị trường vốn. Ngược lại, những thay đổi của TTV (chỉ
số chứng khoán hay giá cả cổ phiếu…) cũng phản ánh các hiện tượng tốt, xấu
đang hoặc sẽ xảy ra đối với thị trường tiền tệ.
TTV được cấu thành bởi hai bộ phận: TTTD dài hạn và TTCK, trong
đó TTCK đóng vai trò chủ yếu và quan trọng. TTTD dài hạn hoạt động thông
qua các nghiệp vụ vay để cho vay của các TCTD. Tùy từng loại hình cụ thể,
những TCTD này được phép huy động vốn bằng các nghiệp vụ nhận tiền gửi,
phát hành các giấy tờ có giá, vay vốn giữa các TCTD và vay ngân hàng nhà
nước. Đồng thời, các TCTD được phép cấp tín dụng dưới nhiều hình thức
khác nhau (cho vay, cho thuê tài chính…). Thị trường này có vai trò quan
trọng trong các kênh huy động vốn cho phát triển, đặc biệt khi TTCK vẫn
đang ở giai đoạn đầu phát triển như nước ta. Tuy nhiên, hoạt động của thị
trường này lại tách rời người sở hữu vốn và người sử dụng vốn. Những ràng
buộc như quy định lãi suất, điều kiện cho vay của các TCTD…đã khiến cho
hoạt động của thị trường này mang tính chất độc quyền.
Để khắc phục những hạn chế trên TTTD dài hạn, TTCK ra đời như một
bổ sung tất yếu khách quan vào các kênh huy động vốn truyền thống. Trong
điều kiện của nền kinh tế hiện đại, TTCK được quan niệm là nơi diễn ra các
hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán
này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua chứng khoán lần đầu từ
những người phát hành; ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại
các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp.


13


Trên lý thuyết, căn cứ vào các bộ phận cấu thành, TTCK được phân
loại thành TTCK nhà nước, TTCP và TTTP. Trong đó, TTCK nhà nước (các
giấy ghi nợ của Nhà nước như trái phiếu, tín phiếu kho bạc nhà nước dài hạn
và các chứng chỉ đầu tư…); TTTP là thị trường mua bán các chứng khoán có
lãi suất cố định (trái phiếu). Trong số các bộ phận cấu thành TTCK, thị trường
cổ phiếu là hạt nhân cơ bản và rất nhạy cảm với các biến động của nền kinh tế
như lạm phát, thất nghiệp…
1.1.2. Các chủ thể và công cụ tham gia trên thị trường vốn
Các chủ thể chủ yếu và cơ bản tham gia trên TTV gồm có Nhà nước,
doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian, các cá nhân và hộ gia đình.
Tùy vào tư cách tham gia, tùy vào thực lực tài chính mà góc độ và mức độ
tham gia của các chủ thể này vào TTV khác nhau.
Trước hết, Nhà nước tham gia vào TTV với tư cách là nhà quản lý và tổ
chức các hoạt động của thị trường này thông qua bộ máy quản lý và hệ thống
pháp luật. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng có thể tham gia với tư cách là một
doanh nghiệp bình thường. Chẳng hạn, trên TTCK thứ cấp, Nhà nước (Bộ Tài
chính) tham gia mua bán các chứng khoán của doanh nghiệp (khối lượng
nhiều hay ít tùy thuộc vào mức độ tham gia quản lý); Nhà nước (Ngân hàng
Nhà nước) lại có thể thực hiện điều hành lưu thông thị trường tiền tệ bằng
hoạt động nghiệp vụ trên thị trường mở.
Các doanh nghiệp tham gia trên TTV với tư cách là người tạo hàng
(chứng khoán), đồng thời là người tiến hành các hoạt động mua bán chứng
khoán. Trong đó, các công ty cổ phần là chủ thể quan trọng nhất trên TTCK.
Ở nước ta, các công ty cổ phần được hình thành chủ yếu từ quá trình cổ phần
hóa các DNNN.
Các cá nhân, hộ gia đình cũng là những chủ thể cung ứng vốn quan
trọng. Họ có thể tham gia trực tiếp trên thị trường hoặc thông qua quỹ tương

hỗ hay quỹ đầu tư.
14


Các tổ chức tài chính trung gian tham gia với tư cách là những doanh
nghiệp kinh doanh tín dụng. Đây chính là cầu nối giữa người đi vay và người
cho vay bao gồm các TCTD (các NHTM, các công ty tài chính…), các công
ty tài chính khác (quỹ tương hỗ, công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí…). Các công
ty tài chính khác với các NHTM ở chỗ chúng không thực hiện các dịch vụ
thanh toán và tiền mặt, không huy động tiền gửi tiết kiệm, không sử dụng vốn
vay của dân để làm phương tiện thanh toán. Trong nền kinh tế thị trường, các
công ty tài chính gắn liền với các nghiệp vụ về chứng khoán, có tên gọi khác
nhau như: công ty chứng khoán, công ty tài chính chứng khoán, hiệp hội các
nhà buôn chứng khoán…


nước ta, sau 20 năm đổi mới, các chủ thể theo thông lệ quốc tế cơ

bản đã được hình thành nhưng vẫn còn ít về số lượng và non kém về mặt
nghiệp vụ.
Các công cụ tài chính (hàng hóa) trên TTV được hiểu là quyền đòi nợ
tài chính như chứng chỉ, cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, hợp đồng bảo hiểm…
Các công cụ này đều có tính thanh khoản và có thể được phân loại thành các
công cụ của từng thị trường. Trên TTV, các công cụ tài chính thường có thời
gian đáo hạn trên một năm, bao gồm các công cụ nợ và công cụ vốn. Các
công cụ của TTV có mức giá biến động mạnh hơn so với các công cụ trên thị
trường tiền tệ và được coi là những khoản đầu tư có rủi ro cao. Tuy nhiên, khi
thị trường tài chính ngày càng phát triển, các công cụ tài chính được sử dụng
đan xen giữa các thị trường. Những công cụ mới không ngừng ra đời và mang
đặc trưng của nhiều loại công cụ tài chính khác. Chính vì vậy, ranh giới giữa

các công cụ tài chính và giữa các bộ phận thị trường cấu thành ngày càng
mang tính tương đối.
Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ
vật chất hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc của một công ty cổ phần. Cổ phiếu
1
5


là một loại chứng khoán vốn, thể hiện quan hệ đồng sở hữu giữa người phát
hành và nhà đầu tư. Người mua cổ phần được gọi là cổ đông của công ty. Cổ
đông nhận được một (các) giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu.
Người mua cổ phiếu trở thành người sở hữu một phần công ty và được hưởng
các quyền đối với công ty tương ứng với tỷ lệ cổ phần mà họ nắm giữ. Khi
công ty làm ăn thua lỗ, các cổ đông phải chịu thiệt hại tương ứng với giá trị
cổ phiếu của họ. Căn cứ vào tính chất các quyền lợi cổ phiếu mang lại cho cổ
đông, cổ phiếu được phân loại thành cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Trái phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới hình thức
chứng chỉ vật chất hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận nghĩa vụ của tổ chức phát
hành phải trả cho người nắm giữ trái phiếu một khoản tiền xác định trong
những khoảng thời gian cụ thể và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi
đáo hạn. Trái phiếu là chứng khoán nợ; người nắm giữ trái phiếu là chủ nợ và
chủ thể phát hành là con nợ.
Khế ước thế chấp (mortage) là khoản tiền mà các cá nhân hay các công
ty kinh doanh vay để mua nhà, đất hoặc những công trình kiến trúc khác,
trong đó hiệp hội tiết kiệm và cho vay và những ngân hàng tiết kiệm tương hỗ
là những người cho vay hàng đầu trong thị trường cho vay thế chấp nhà ở.
Tuy nhiên, các NHTM cũng tham gia tích cực hơn vào thị trường này. Đa số
những món cho vay thế chấp thương mại và nông trại do các ngân hàng
thương mại và công ty bảo hiểm thực hiện.

Những khoản vay thương mại ngân hàng cấp và vay tiêu dùng là những
khoản vay dành cho người tiêu dùng và cho những công ty kinh doanh. Các
khoản vay này có thể được ngân hàng hoặc các công ty tài chính cấp. Thường
không có thị trường thứ cấp để mua bán lại những món vay này và do đó,
chúng được coi là có tính thanh khoản thấp nhất trong các công cụ của thị
trường vốn. Tuy nhiên, thị trường thứ cấp hiện cũng đang trong giai đoạn hình
thành và phát triển.
16


Công cụ tài chính phái sinh là tài sản tài chính có giá trị trong tương
lai, phụ thuộc vào giá trị của một hay một số tài sản tài chính cơ sở tại thời
điểm hợp đồng được ký kết. Các công cụ tài chính phái sinh bao gồm:
Hợp đồng kỳ hạn (Forwards) là một thỏa thuận, trong đó, một người
mua và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch với khối lượng xác
định tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định
vào thời điểm thỏa thuận hợp đồng. Hợp đồng kỳ hạn được thỏa thuận, ký
trực tiếp bởi hai bên ký hợp đồng; được mua bán trên thị trường phi tập trung
và được thanh toán vào ngày đáo hạn.
Hợp đồng tương lai (Futures) cũng là hợp đồng mua hoặc bán một lượng
xác định các tài sản cơ sở tại một thời điểm xác định trong tương lai với một
mức giá xác định tại thời điểm thỏa thuận hợp đồng. Khác với hợp đồng kỳ hạn,
hợp đồng tương lai nói chung được xử lý trên một Sở giao dịch. Điều này cho
phép giá cả được hình thành hợp lý hơn do các bên mua, bên bán được cung cấp
thông tin đầy đủ và công khai. Mặt khác, các giao dịch của hợp đồng tương lai
giúp xóa bỏ rủi ro tín dụng. Việc thực hiện các hợp đồng tương lai được đảm bảo
bằng lòng tin và uy tín của những người chủ sở hữu giao dịch và công ty thanh
toán bù trừ. Chính sự linh hoạt của hợp đồng tương lai đã khắc phục được những
nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn và thương được xem là một cách thức tốt hơn
để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh.

Quyền chọn (Options) là một công cụ cho phép người nắm giữ có quyền
mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một số lượng
xác định các đơn vị tài sản cơ sở tại hay trước một thời điểm xác định trong
tương lai với một mức giá xác định (strike price) ngay tại thời điểm thỏa thuận.

Quyền mua trước (Rights) là quyền ưu tiên các cổ đông được mua
chứng khoán mới phát hành (theo tỷ lệ với số lượng cổ phiếu mà cổ đông
đang nắm giữ) với mức giá xác định (thường rẻ hơn giá thị trường) và trong

17


một thời hạn nhất định (thường có thời hạn rất ngắn, có khi chỉ vài tuần) trước
khi cổ phiếu được chào bán lần đầu ra công chúng (thông qua TTCK).
Chứng quyền (Warrants) là quyền cho phép các cổ đông mua một số cổ
phần nhất định theo một mức giá xác định trong một thời hạn tương đối lâu
(hàng năm). Chứng quyền tương tự quyền chọn mua, nhưng thời hạn của
chứng quyền dài hơn nhiều (hàng năm) trong khi thời hạn của quyền mua
trước ngắn hơn. Hơn nữa, chứng quyền được phát hành và đảm bảo bởi một
công ty trong khi quyền mua trước chỉ là một công cụ tài chính và không
được các công ty phát hành.
Trên TTV, cơ chế hình thành giá cả khác nhau tùy theo đó là TTCK
hay TTTD dài hạn.
Trên TTTD dài hạn, giá cả của hàng hóa (vốn) chính là chi phí để được
quyền sử dụng vốn. Chi phí này trên tổng số vay được gọi là lãi suất và phụ
thuộc vào 2 yếu tố: tiền lãi và tiền vốn. Lãi suất cao hay thấp là do tỷ suất lợi
nhuận bình quân hay hiệu quả hoạt động của nền kinh tế quyết định.
Trong khi đó, giá cả của hàng hóa trên TTCK phụ thuộc vào đó là loại
hình TTCK sơ cấp hay thứ cấp. TTCK sơ cấp là nơi phát hành chứng khoán
lần đầu; do đó, giá hàng hóa ở giai đoạn này chính là giá phát hành chứng

khoán. Giá chứng khoán có lãi suất cố định (trái phiếu) là giá trị được in trên
trái phiếu. Giá chứng khoán có lãi suất biến động (cổ phiếu) là giá được in
trên cổ phiếu. Giá cả chứng khoán ở TTCK thứ cấp là giá mà các chứng
khoán thực sự mua bán trên thị trường và do đó, phụ thuộc vào quan hệ cung
cầu chứng khoán.
1.1.3. Chức năng và vai trò của TTV
Chức năng chủ yếu của TTV là cung cấp tài chính cho các khoản đầu tư
dài hạn của chính phủ, doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình. Đồng thời, hoạt
động trên TTV được xem như “hàn thử biểu” đo xu hướng vận động của nền
kinh tế; giảm thiểu vấn đề mất cân đối kép của hệ thống ngân hàng.
18


Với các chức năng như trên, TTV có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
phát triển kinh tế của một quốc gia. TTV là kênh huy động và phân bổ vốn
một cách hiệu quả để phát triển kinh tế xã hội; thông qua đó, góp phần thúc
đẩy sáng tạo và đổi mới công nghệ. TTV phát triển lành mạnh là nhân tố rất
quan trọng để ổn định kinh tế vĩ mô và giảm các rủi ro, nguy cơ khủng hoảng
của nền kinh tế.
Đối với doanh nghiệp, TTV có vai trò giúp các doanh nghiệp cải thiện
năng lực quản trị, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Đồng thời, tạo điều kiện đa dạng hóa các nguồn huy động và đầu tư vốn, giúp
nhà đầu tư chia sẻ và phân tán bớt rủi ro.
Thực tế đã chứng minh rằng, khu vực tài chính của một quốc gia sẽ
thêm hùng mạnh, dòng vốn được luân chuyển hiệu quả hơn nếu có thị trường
vốn vận hành tốt. Ngoài hệ thống ngân hàng đóng vai trò trung gian trong
việc huy động vốn và cho vay, các thị trường trái phiếu và cổ phiếu có thể
chuyển vốn một cách hữu hiệu từ các nhà đầu tư (kể cả người cư trú và người
nước ngoài) cho khu vực doanh nghiệp thông qua việc phát hành và kinh
doanh chứng khoán.

TTV vận hành tốt sẽ giúp người vay đa dạng hóa hình thức và nguồn
vốn. Người đi vay nhờ đó sẽ ít chịu rủi ro vốn bị đứt đoạn (ví dụ như tình
trạng ngân hàng họ vay vốn mất khả năng cung cấp) hoặc phải vay với giá
quá cao (khi có quá ít nguồn vốn). Tương tự như vậy, TTV phát triển đến mức
cao giúp nhà đầu tư đa dạng hóa các khoản đầu tư và từ đó loại bỏ các rủi ro
không đáng có.
Thị trường các chứng khoán được niêm yết cũng hết sức quan trọng để
định giá một cách hữu hiệu những thỏa thuận bảo hiểm phức tạp hơn cần thiết
cho việc quản lý các rủi ro trong khu vực ngân hàng và rộng hơn là trong nền
kinh tế. Ví dụ, các dạng thức phổ biến nhất của tiền tệ chỉ có thể được định
giá một cách hữu hiệu nếu có thị trường vận hành tốt và thuận lợi cho chứng
khoán nợ không chứa rủi ro.
19


1.2. Xu hướng phát triển TTV trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay
Tự do hoá TTV là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong nền kinh
tế thị trường và trong quá trình hội nhập tài chính giữa các nền kinh tế. Về
tổng quan, đây là quá trình giảm thiểu và dỡ bỏ dần các biện pháp hạn chế
giao dịch vốn ở thị trường, giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ
vào các quyết định phát hành và đầu tư vốn trên thị trường chứng khoán, là
việc cho phép rộng rãi các ngân hàng và các nhà đầu tư nước ngoài tham gia
các giao dịch chứng khoán ở thị trường trong nước, là quá trình dỡ bỏ kiểm
soát các luồng vốn vào và luồng vốn ra khỏi nền kinh tế. Kết quả, các luồng
vốn sẽ được luân chuyển tự do giữa thị trường các quốc gia.
Lợi ích của việc tự do hoá thị trường vốn rất lớn do đa dạng hoá được
nhiều luồng vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, quá trình tự do
hoá thị trường vốn cũng chứa đựng những khả năng tiềm ẩn về rủi ro và nguy
cơ khủng hoảng. Hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng các tiêu chí quản lý
thận trọng và nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực này là yêu

cầu bức thiết đối với các cơ quan chức năng của Việt Nam. Tham gia tích cực
và hiệu quả các chương trình hợp tác khu vực và quốc tế đối với lĩnh vực tự
do hoá thị trường vốn sẽ giúp Việt Nam đẩy nhanh quá trình hội nhập nhằm
đạt được những mục tiêu đề ra.
1.3. Kinh nghiệm phát triển TTV của một số nước trên thế giới.
Kinh nghiệm của các quốc gia đi trước trong khu vực và thế giới là một
trong những nguồn tham khảo quan trọng trong xây dựng và phát triển thị
trường trong nước. Trên thế giới, có nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang
phát triển có điều kiện kinh tế- xã hội tương đồng với Việt Nam đã thành công
trong phát triển TTV; nhưng mặt khác, cũng có những sai lầm trong quá trình
phát triển đã được thực tiễn chứng minh bằng các cuộc khủng hoảng tài
chính. Trong phạm vi nhỏ hẹp, luận văn chỉ xin nêu tình hình phát triển TTV
của một số quốc gia; qua đó làm rõ vai trò của các nguồn vốn và một số kinh
20


nghiệm có thể tham khảo được; đồng thời, rút ra một số bài học đối với phát
triển TTV nước ta, đặc biệt trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều
rủi ro tiềm ẩn.
1.3.1. Tình hình phát triển TTV và kinh nghiệm của Trung Quốc
TTCK Trung Quốc ra đời từ rất sớm nhưng phải đến khi thực hiện
chính sách mở cửa, cải cách nền kinh tế, thì việc phát hành trái phiếu, tín
phiếu, thực hiện cổ phần hóa DNNN mới có tác động tích cực đến TTCK.
Năm 1986, thị trường phi tập trung đầu tiên được mở cửa; sau đó, ngày
19/12/1990, SGDCK Thượng Hải ra đời, tiếp đến là SGDCK Thẩm Quyến
(3/7/1991). Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, TTCK Trung Quốc được
xem là tương đối hoàn thiện.
Trong quá trình phát triển TTV, Trung Quốc đã chú trọng xây dựng hệ
thống pháp luật làm khuôn khổ hoạt động cho thị trường. Khung pháp lý
TTCK của Trung quốc tương đối hoàn chỉnh và tiến bộ với văn bản pháp lý

cao nhất điều chỉnh hoạt động của TTCK là Luật chứng khoán (được ban
hành năm 1999). Về mặt tổ chức quản lý, Trung Quốc đã thành lập cơ quan
quản lý TTCK với hai bộ phận: Hội đồng chứng khoán Nhà nước và Ủy ban
Giám quản chứng khoán. Hệ thống giao dịch trên TTCK được tự động hóa
hoàn toàn và được quản lý chặt chẽ bằng hệ thống luật pháp. Sau gần 15 năm
hoạt động, TTCK Trung Quốc đã đạt được những thành tựu quan trọng, một
phần chủ yếu nhờ hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh, thực thi nghiêm
minh và cơ cấu tổ chức hệ thống quản lý thị trường được cải tiến.
Về mặt tổ chức TTCK, chính sách tập trung hóa quản lý và kiểm soát
của chính phủ đối với thị trường là phương hướng quan trọng được chính phủ
Trung Quốc nỗ lực thực hiện. Trước năm 1992, TTCK chịu sự quản lý và
giám sát của chính quyền địa phương. Từ tháng 10/92 đến tháng 3/98, TTCK
chịu sự quản lý và giám sát đồng thời của Hội đồng Chứng khoán quốc gia
(SCSC) và Ủy ban Chứng khoán Trung Quốc (CRSC). Từ tháng 4/98, hai cơ
21


quan này được sát nhập (CSRC) và thống nhất quản lý, giám sát TTCK. Một
điểm đáng lưu ý là Trung Quốc đã tách chức năng kinh doanh chứng khoán ra
khỏi hệ thống ngân hàng.
Về công tác tạo hàng trên TTCK, Chính phủ Trung Quốc cũng được
đánh giá là tương đối thành công trong việc hoàn thiện chính sách cổ phần
hóa DNNN. Trung Quốc đã cải thiện đáng kể cơ chế chào bán chứng khoán
lần đầu (IPO), qua đó đưa được nhiều doanh nghiệp làm ăn thực sự có hiệu
quả ra niêm yết, hạn chế được nạn tham nhũng có liên quan đến phê duyệt
IPO trước đây. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng đã tăng cường kỷ luật minh
bạch, công khai thông tin; tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật thông qua
thành lập các Ủy ban Thực thi (Enforcement Bureau), đặc biệt khá mạnh tay
trong việc đấu tranh với các hành vi vi phạm công khai thông tin, gian lận,
thao túng thị trường.

Đối với TTTD, Trung Quốc cũng đã áp dụng cải cách sâu rộng các định
chế tài chính, đặc biệt là đối với hệ thống ngân hàng (cả ngân hàng Trung
ương và ngân hàng thương mại). Luật Ngân hàng thương mại (1995) đã tăng
cường chuyển đổi sang một hệ thống ngân hàng định hướng thị trường, đa
dạng sở hữu và họat động độc lập hơn. Dù các NHTM Nhà nước vẫn đóng vai
trò chủ đạo trong hệ thống ngân hàng, nhưng không còn cơ cấu ngân hàng
độc quyền như trước đây. Ngoài việc đa dạng hóa sở hữu hệ thống ngân hàng,
việc phát triển các định chế phi ngân hàng được coi là một bước chuyển biến
cơ bản trong cải cách thể chế tài chính của hệ thống ngân hàng Trung Quốc.
Đặc biệt, đứng ở góc độ nền kinh tế, chính trị, xã hội có nhiều điểm
tương đồng với Trung Quốc, Việt Nam sẽ rút ra được bài học kinh nghiệm
quý báu cho mình trong việc xử lý nợ xấu, vốn đang là vấn đề nan giải của
các NHTM Việt Nam- đó là phát triển nghiệp vụ chứng khoán hóa các khoản
nợ xấu. Trung Quốc đã từng bước xây dựng các điều kiện cần thiết cho việc
22


phát triển của chứng khoán hoá các khoản nợ. Một bước tiến cụ thể của Trung
Quốc trong kế hoạch này là đã ban hành Các quy tắc quản lý cho việc chứng
khoán hóa thí điểm các tài sản tín dụng vào tháng 4/2005; trong đó quy định
rõ các vấn đề liên quan đến trách nhiệm pháp lý của người được ủy thác khi
xảy ra thất thoát trong giao dịch, quyền truy đòi của nhà đầu tư và làm thế nào
ngăn chặn giao dịch nội gián liên quan đến chứng khoán hóa các khoản nợ.
Chứng khoán hóa các khoản nợ xấu là giải pháp thiết thực và hữu ích đố
với hệ thống các NHTM. Trước hết, các NHTM sẽ giải phóng được một số vốn
lớn nằm trong quỹ dự phòng rủi ro, từ đó có thể bổ sung thêm nguồn vốn quý giá
để thực hiện các khoản vay mới. Ngoài ra, phương thức này sẽ tạo ra sức cạnh
tranh mới trên thị trường tài chính Trung Quốc, đặc biệt khi Trung Quốc sẽ mở
cửa thị trường tài chính vào cuối năm 2007. Việc chứng khoán hóa các khoản nợ
xấu sẽ giúp các NHTM Trung Quốc gia tăng được lợi nhuận bằng cách tái bố trí

lại các khoản cho vay của mình. Một ngân hàng có thể cho vay theo lãi suất thị
trường, sau đó chứng khoán hóa các khoản vay này ở một lãi suất thấp hơn; cuối
cùng, các NHTM Trung Quốc sẽ có một cách thức chia sẽ rủi ro tín dụng mới.
Thông thường, các ngân hàng sẽ phân phối lại rủi ro tín dụng bằng cách cân đối
giữa các khoản cho vay và các khoản tiền gửi. Thay vì vậy, khi thực hiện chứng
khoán hóa, các ngân hàng có thể chuyển giao phần rủi ro tín dụng này cho các
nhà đầu tư chứng khoán. Chính phủ Trung Quốc đã thử nghiệm nhiều biện pháp
khác nhau để xử lý nợ xấu, nhưng cuối cùng, thực tiễn từ Trung Quốc cũng như
nhiều quốc gia trên thế giới đã đưa đến kết luận là phương thức chứng khoán hóa
các khoản nợ là một biện pháp thích hợp và tốt nhất để xử lý nợ xấu của các hệ
thống tài chính.

Đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Trung Quốc là trường hợp
điển hình thực hiện hội nhập quốc tế khu vực ngân hàng thông qua các cam
kết trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Tiến trình hội nhập quốc tế của
Trung Quốc được tiến hành từng bước và được hỗ trợ bằng các chương trình

23


×