Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Hãy chỉ ra những tồn tại, bất cập và những vướng mắc phát sinh trong quá trình giải quyết các tranh chấp về quyền thừa kế sử dụng đất và đề xuất hướng khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.07 KB, 8 trang )

MỞ ĐẦU
Do chế độ sở hữu toàn dân về đất đai nên đất đai trước hết thuộc quyền sở
hữu của Nhà nước và do Nhà nước thống nhất quản lí. Do vậy thừa kế quyền sử
dụng đất ở cũng không nằm ngoài nguyên tắc thừa kế quyền sử dụng đất nói
chung, tuy rằng thừa kế quyền sử dụng đất ở không cần phải có các điều kiện như
đối với thừa kế đất nông nghiệp trồng cây nông nghiệp hằng năm, nuôi trồng thủy
hải sản.Việc để lại thừa kế quyền sử dụng đất không những phải tuân theo qui định
về thừa kế trong Bộ Luật Dân sự mà còn phải thỏa mãn các điều kiện về thừa kế
quyền sử dụng đất ở theo qui định của Luật đất đai năm 2013. Trong bài tập học kì
lần này em xin được đi sâu tìm hiểu đề tài về : “Hãy chỉ ra những tồn tại, bất cập
và những vướng mắc phát sinh trong quá trình giải quyết các tranh chấp về
quyền thừa kế sử dụng đất và đề xuất hướng khắc phục”
NỘI DUNG
I/ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Khái quát về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật
Điều 4 Luật Đất Đai 2013 : “ Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho
người sử dụng đất theo quy định pháp luật”
Quyền sử dụng đất là quyền khai thác các thuộc tính có ích của đất đai để phục vụ
cho các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Xét về khía cạnh kinh tế, quyền sử dụng đất có ý nghĩa quan trọng vì nó làm thỏa
mãn các nhu cầu và mang lại lợi ích vật chất cho các chủ sử dụng trong quá trình
sử dụng đất.
Với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước không trực tiếp sử
dụng đất mà giao cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài
nhưng Nhà nước không mất đi quyền sử dụng đât đai của mình. Bởi vì, Nhà nước
thực hiện quyền sử dụng đất bằng các hình thức chủ yếu sau: i) Thông qua việc xây
dựng, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất để phân định mục đích sử dụng
cho từng loại đất cụ thể; ii) Thông qua việc xây dựng, ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật về quản lí và sử dụng đất buộc các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
phải thực hiện trong quá trình sử dụng đất. Điều này có nghĩa là thông qua quá


trình sử dụng đất của người sử dụng mà các ý tưởng sử dụng đất của Nhà nước sẽ
1
trở thành hiện thực; đồng thời,
người sử dụng đất trong quá trình sử dụng đất phải
đóng góp một phần lợi ích mà họ thu được từ việc sử dụng đất đai dưới dạng
những nghĩa vụ vật chất cho Nhà nước thông qua các hình thức như nộp thuế sử
dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản là nhà, đất, nộ


1.2 Vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất:
* Chủ thể quan hệ thừa kế đất đai :
Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển quyền sử dụng đất của người chết sang
cho người thừa kế theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật đất đai. Chủ thể
quan hệ thừa kế đất đai bảo gồm:
Người để lại thừa kế : có thể là bất kỳ cá nhân nào được nhà nước giao đất, cho thu
đất, nhận quyền sử dụng đất thỏa mãn điều kiện thực hiện quyền thừa kế.
Người nhận thừa kế :
Bao gồm người được nhận thừa kế theo ý chí của người để lại thừa kế, người được
nhận thừa kế theo pháp luật bao gồm những người được thừa kế theo quan hệ hôn
nhân, quan hệ nuôi dưỡng và quan hệ huyết thống theo pháp luật dân sự quy định.
Như vậy, người được hưởng quyền sử dụng đất đai do thừa kế bao gồm:
+ Những cá nhân, tổ chức được hưởng quyền giao đất, thuê đất, nhận chuyển
quyền sử dụng đất do ý chí của người để lại di chúc.
+ Cá nhân được thừa kế theo pháp luật dân sự: có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại thừa kế.
+ Không thuộc trường hợp bị tước quyền thừa kế.
* Các điều kiện cơ bản để người sử dụng đất có thể để lại thừa kế quyền sử
dụng đất
Điều kiện của bên để lại thừa kế
+ Người sử dụng đất phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cơ quan nhà

nước có thẩm quyền cấp theo quy định của pháp luật về đất đai.
+ Còn thời hạn được sử dụng đất.
+ Đất không có tranh chấp, quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi
hành án.
+ Thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định về pháp luật đất đai.
Điều kiện của bên nhận thừa kế
+ Cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn
sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản
chết;
2 thời điểm mở thừa kế.
+ Cơ quan, tổ chức tồn tại vào
+ Không thuộc các trường hợp* :
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi
ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh
dự, nhân phẩm của người đó;


- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc
lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần
hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
+ Thuộc các trường hợp * nhưng người để lại di sản đã biết hành vi của những
người đó, đồng thời vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
II) Thực tiễn, những tồn tại bất cập và những vướng mắc phát sinh trong quá
trình giải quyết các tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất.
2.1 Một số ví dụ về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Trên thực tế có rất nhiều vụ tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, em xin nêu
hai ví dụ sau để chúng ta hình dung về những tranh chấp này:

Ví dụ 1:
Gia đình tôi có 04 thành viên (bố, mẹ, và tôi và chị gái), năm 1998 bố mẹ tôi có
mua 01 mảnh đất (là tài sản chung của bố mẹ) tại xã Quang Trung, huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình.
- Năm 2007, bố tôi qua đời không để lại di chúc. Và gia đình tôi không làm văn
bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
- Năm 2009, mẹ tôi do ở xa và đau yếu nên đã nhờ (bằng miệng) người dì bán
mảnh đất trên. Thời điểm 20/11/2009 Người dì này đã tự ý bán đất không thông
qua mẹ tôi và tự ý nhận tiền của người mua. Đến ngày 05/02/2010 gia đình tôi mới
biết sự việc trên thì sự việc đã rồi. 02 chị em tôi đã vô cùng phản đối nhưng mẹ tôi
vẫn quyết định bán mảnh đất trên. Khi bán chỉ có mẹ tôi ký các giấy tờ mua bán.
02 chị em tôi không hề ký kết giấy tờ gì (mảnh đất trên đã được cấp sổ đỏ cho chủ
mới).
Ví dụ 2:
Năm 2011, mẹ tôi qua đời và cũng không để lại di chúc, chị em tôi cũng không làm
văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế.
Ông bà A – B sinh được 2 người con là C và D. Sinh thời ông bà A – B có tạo lập
được 1 mảnh đất có diện tích3 là 500m2. Năm 1989, anh C đứng tên kê khai mang
tên anh. Năm 2000, ông bà A – B đều qua đời. Tháng 6/2005, anh D có đơn khởi
kiện yêu cầu Toà án chia thừa kế quyền sử dụng 500m2 đất trên do bố mẹ để lại.


2.2 Thực tiễn và những bất cập vướng mắc phát sinh trong giải quyết tranh
chấp về thừa kế QSDĐ
Tranh chấp QSDĐ nói chung và tranh chấp về thừa kế QSDĐ nói riêng là loại
tranh chấp diễn ra phổ biến trong giai đoạn hiện nay với tính chất phức tạp và tình
trạng khiếu kiện kéo dài. Phần lớn các tranh chấp về thừa kế là liên quan tới nhà và
đất, đây cũng là loại tranh chấp phức tạp vì giá trị tranh chấp lớn, người tham gia
tố tụng đông và có tỉ lệ kháng cáo, kháng nghị cao.
Thống kê từ hoạt động xét xử của TAND Thành Phố Hà Nội, có thể rút ra nhận xét

là:
+ Số lượng các vụ án tranh chấp về thừa kế theo xu hướng ngày càng tăng;
+ Số lượng bản án, quyết định bị phúc thẩm khá nhiều. Khi xét xử phúc thẩm, số
lượng bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm được giữ nguyên chiếm tỉ lệ thấp.
Tỉ lệ bản án, quyết định của cấp sơ thẩm bị sửa chiếm tỉ lệ lớn, trong đó bản án,
quyết định bị sửa do nguyên nhân sai sót của cấp sơ thẩm chiếm tỉ lệ cao, điều đó
cho thấy trình độ xét xử của các toà án cấp sơ thẩm còn có nhiều hạn chế.
+ Số lượng các vụ án có người bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho đương sự
còn thấp đặc biệt là ở cấp sơ thẩm. Điều này cho thấy các bên chưa chú trọng tới
việc nhờ người bảo vệ quyền lợi cho mình một phần do không có khả năng kinh tế,
một phần do chưa ý thức được tầm quan trọng của việc này. Bên cạnh đó trong
thực tế vai trò của luật sư trong toà án cũng chưa được coi trọng.
Một trong những sai sót thường gặp của các Toà án khi xét xử các tranh chấp về
thừa kế QSDĐ là:
- Bỏ sót, không đưa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng Việc xác minh, kiểm tra, đánh giá chứng cứ không kỹ;
- Khi xem xét tính hợp pháp của QSDĐ không tính đến việc thực hiện các chính
sách đất đai của nhà nước.
-Thừa kế đất đai của người Việt nam định cư ở nước ngoài Luật Đất Đai cho phép
người Việt Nam định cư ở nước ngoài (thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền
với QSDĐ tại Việt Nam) được
nhận thừa kế QSDĐ nhưng lại không quy định họ
4
được để lại thừa kế đất đai đơn thuần đơn thuần.
-Theo nhiều quan điểm, nếu pháp luật đã cho phép người Việt Nam định cư ở nước
ngoài (thuộc diện được mua nhà ở gắn liền với QSDĐ ở tại Việt Nam) được thừa


kế QSDĐ thì nên thừa nhận cho họ quyền được để thừa kế QSDĐ bình đẳng như
những cá nhân là người Việt Nam khác .
-Thừa kế QSDĐ của họ tộc

Pháp luật cần phải có quy định coi đất của họ tộc là di sản dùng vào việc thờ cúng
của dòng họ, và tương tự như di sản thờ cúng, đất này không được coi là di sản
thừa kế.
Người sử dụng loại đất này chỉ được hưởng hoa lợi trên đất, không được tự ý
chuyển nhượng hoặc thay đổi mục đích sử dụng của đất. Nếu người sử dụng đất
chết thì giao lại cho một người được dòng họ chỉ định tiếp tục quản lý và sử dụng
vào mục đích thờ cúng. Trong trường hợp này pháp luật cần quy định sự tham gia
của hội đồng gia tộc trong việc cử người quản lý di sản thờ cúng, định đoạt di sản
thờ cúng, tôn tạo, sửa sang di sản thờ cúng…
III.Phương hướng hoàn thiện và một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các
quy định thừa kế QSDĐ
Qua việc nghiên cứu chế định thừa kế QSDĐ của pháp luật Việt Nam hiện hành,có
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các chế định pháp luật thừa kế nói chung và
thừa kế QSDĐ nói riêng cũng như nâng cao hiệu quả công tác xét xử các tranh
chấp về thừa kế QSDĐ, như sau:
- Pháp luật cần tạo sự bình đẳng hơn nữa trong các vấn đề thừa kế nói chung và
thừa kế QSDĐ nói riêng giữa cá nhân tổ chức trong nước với các cá nhân tổ chức
nước ngoài, đặc biệt là người Việt Nam định cư ở nước ngoài
+Nhà nước nên có những quy định cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài
(thuộc diện được mua nhà ở gắn liền với QSDĐ ở) được được phép tham gia hợp
đồng chuyển nhượng QSDĐ. Tuy nhiên khi thừa nhận người Việt Nam định cư ở
nước ngoài được phép mua đất thì cũng phải giải quyết vấn đề thừa kế và để lại
thừa kế là QSDĐ đất đó. Pháp luật hiện hành cần cho phép họ được để thừa kế
QSDĐ đơn thuần.
+Cần có quy phạm pháp luật điều chỉnh việc người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài nhận di tặng là QSDĐ; cá nhân là người Việt
Nam để thừa kế QSDĐ hoặc5nhà ở gắn liền với QSDĐ ở cho tổ chức nước ngoài
và việc tổ chức nước ngoài nhận thừa kế QSDĐ hoặc nhà ở gắn liền với QSDĐ ở
của cá nhân là người Việt Nam
-Xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ về thừa kế QSDĐ



- Cần đẩy nhanh hơn nữa tiến độ cấp GCNQSDĐ cho người sử dụng đất để họ có
thể thực hiện được quyền để thừa kế QSDĐ một cách thuận lợi
- Trong trường hợp QSDĐ là di sản dùng vào việc thờ cúng hoặc QSDĐ là đất của
dòng họ để dùng vào việc thờ cúng thì pháp luật cần quy định cụ thể việc cấp giấy
chứng nhận QSDĐ đối với loại đất này sao cho thể hiện được nội dung đó là đất
thờ cúng, người được giao nhiệm vụ quản lý có thể đứng tên trong GCNQSDĐ
nhưng không được bán và chia thừa kế đối với đất đó.
- Pháp luật thừa kế cần có quy định sự tham gia của Hội đồng gia tộc (dòng họ)
trong việc bàn bạc đưa ra quyết định đối với việc quản lý, sử dụng, tôn tạo di sản
thờ cúng là QSDĐ hoặc nhà thờ gắn liền với QSDĐ.
- Không ngừng kiện toàn và nâng cao trình độ đối với đội ngũ cán bộ làm công tác
xét xử bởi đây chính là những người trực tiếp đưa các quy định của pháp luật vào
thực tế cuộc sống. Pháp luật dù có hoàn thiện đến đâu nhưng nếu người áp dụng
không hiểu đúng tinh thần và áp dung sai thì cũng là vô nghĩa, chính vì thế yếu tố
con người luôn là yếu tố cần có sự quan tâm hàng đầu;
- Nâng cao các biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thừa kế nói chung và
thừa kế QSDĐ nói riêng. Bên cạnh đó cần tuyên truyền giáo dục tư tưởng, đạo
đức, lối sống theo hướng coi trọng tình cảm đặc biệt là tình cảm gia đình vì điều đó
giúp giảm bớt các tranh chấp về thừa kế QSDĐ.

6


KẾT LUẬN
Ngày nay, thừa kế và để lại thừa kế là một quyền dân sự cơ bản của công dân
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Thừa kế QSDĐ là một đặc thù của chế định
thừa kế bởi đất đai là một tài sản đặc biệt vì thế vấn đề thừa kế QSDĐ vừa được
điều chỉnh bởi BLDS lại vừa tuân theo các quy định trong Luật Đất Đai. Pháp luật

thừa kế QSDĐ hiện hành đã mở rộng quyền tự do định đoạt của cá nhân trong việc
định đoạt di sản QSDĐ bằng việc xoá bỏ những gì là điều kiện ràng buộc người
thừa kế và người nhận thừa kế di sản là QSDĐ. Tuy nhiên, để phù hợp với nền
kinh tế thị trường với xu hướng hội nhập Quốc tế ngày càng cao, pháp luật cần mở
rộng hơn nữa quyền quyết định và tự định đoạt của các chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật về thừa kế QSDĐ cũng như bảo đảm mối quan hệ hài hoà về mặt lợi ích
giữa Nhà nước với các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ

7


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật đất đai, Nxb. CAND, Hà Nội,
2008;
2. Luật Đất Đai 2013
3. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật đất đai, Nxb. Đại học
quốc gia Hà Nội;
4. Bộ Luật Dân Sự 2015
5. Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Đất đai
6. />
8



×