Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Những vấn đề đặt ra đối với cơ chế quản lý hành chính thành phố Hồ Chí Minh khi thi hành luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.24 KB, 5 trang )

THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHI THI HÀNH LUẬT TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG NĂM 2015
Phan Hải Hồ*
Bùi Nam Hồng**
* TS. Trưởng khoa Quản lý hành chính, Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh.
** Ths. Giám đốc Trung tâm bồi dưỡng chính trị quận 1, Tthành phố Hồ Chí Minh.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quản lý hành chính; chính
quyền địa phương; thành phố Hồ
Chí Minh; phân cấp, phân quyền.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 06/10/2017
Biên tập: 20/10/2017
Duyệt bài: 31/10/2017

Tóm tắt:
Cơ chế quản lý hành chính đối với “siêu đô thị” thành phố Hồ Chí
Minh cần đến hành lang pháp lý đủ rộng, phù hợp với thực tiễn kinh
tế, văn hóa và xã hội trên địa bàn. Tuy nhiên, bên cạnh những áp lực
phải đổi mới cơ chế quản lý hành chính thì việc triển khai thực hiện
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thời gian qua cũng
đã tạo ra nhiều thách thức cho Thành phố. Bài viết phân tích, đánh giá
những vấn đề cơ bản phát sinh khi áp dụng Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015 vào thực tiễn Thành phố, theo đó đề xuất một
số kiến nghị với Trung ương và Thành phố.

Article Infomation:
Keywords: administration, local
administration, Ho Chi Minh city,


decentralization, empower
Article History:
Received: 06 Oct. 2017
Edited: 20 Oct. 2017
Appproved: 31 Oct. 2017

Abstract:
The administrative mechanism for the "megacity" of Ho Chi Minh
city needs a legal framework that is sufficient, appropriate with the
realities of economics, culture and social activities of the locality.
However, along with the pressure to renovate the administrative
mechanism, the enforcement of the Law on Organization of Local
Administration of 2015 has faced with several challenges for the City.
This article provides analysis and assessments of the basic matters
arising once the enforcement of the Law on Organization of Local
Administration of 2015 to the City, and then also provides a numner
of recommendations to the Central Level and the City.

T

hời gian qua, Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015
(Luật năm 2015) đã được triển
khai trên thực tiễn, tạo nhiều kết quả khả
quan trong cơ chế quản lý hành chính của
chính quyền địa phương (CQĐP) cả nước.
Tuy nhiên, với đô thị đặc biệt có dân số lớn

48


Số 23(351) T12/2017

như thành phố Hồ Chí Minh (Thành phố) thì
việc tổ chức thi hành Luật năm 2015 về tổ
chức bộ máy, thẩm quyền hành chính, chế
độ chính sách, biên chế, chức năng, quyền
hạn... đang đặt ra một số vấn đề đối với cơ
chế quản lý hành chính Thành phố.


THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
1. Những vấn đề đặt ra
Thứ nhất, Luật Tổ chức CQĐP năm
2015 quy định chung về quyền hạn, nhiệm
vụ của chính quyền các địa phương1. Tuy
nhiên, trên thực tế, bên cạnh những quyền
hạn và nhiệm vụ chung như các tỉnh, thành
phố khác, Thành phố cũng có các nhiệm vụ,
quyền hạn riêng như2: thực hiện chủ trương,
biện pháp tạo nguồn tài chính, huy động
vốn để phát triển đô thị; xây dựng và quản
lý thống nhất công trình hạ tầng đô thị theo
quy định của pháp luật; quyết định cơ chế
khuyến khích phát triển công trình hạ tầng
đô thị trên địa bàn. Những quyền hạn, chức
năng, nhiệm vụ riêng biệt này hiện chưa
được quy định, phân cấp rõ ràng, chi tiết nên
Thành phố vẫn chưa có được cơ chế đặc thù
để phát huy tiềm năng về kinh tế - xã hội.
Thứ hai, Luật năm 2015 quy định một

số điểm khác biệt về tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước, số lượng các cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp cho
thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, trên thực tế, tổ chức bộ máy
quản lý nhà nước, các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND các cấp của các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương trên cả nước vẫn
được thực hiện theo quy định của Nghị định
số 124/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 của
Chính phủ. Điều này đã làm cho bộ máy
hành chính của Thành phố thường xuyên
quá tải về công việc, từ đó cơ chế quản lý
hành chính kém hiệu quả3.
Thứ ba, Luật năm 2015 quy định
những quyền hạn riêng cho Chủ tịch UBND
Thành phố thuộc diện đô thị đặc biệt với số
1
2
3
4
5

6

lượng cấp phó nhiều hơn (tối đa 5 người)4.
Tuy nhiên, trong điều hành giải quyết các
công việc, trên một số lĩnh vực, hiện rất khó
tách bạch nội dung công việc nào phải do tập
thể UBND quyết định, nội dung nào thuộc

phạm vi quyết định của Chủ tịch UBND.
Bên cạnh đó, việc quản lý hành chính cũng
thiếu tập trung, chưa triệt để trong quan hệ
chỉ đạo, điều hành giữa UBND các cấp của
Thành phố, dẫn tới có những vấn đề đã có
chỉ đạo của cấp trên nhưng thời gian giải
quyết còn chậm trễ, kéo dài; việc phân công
theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền giữa
các cấp, giữa phường (thị trấn) và xã trên
một số lĩnh vực cũng chưa rõ5.
Thứ tư, do Luật năm 2015 không quy
định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh,
văn bản do Chính phủ ban hành quy định
các cơ quan chuyên môn của UBND cấp
tỉnh có thẩm quyền hướng dẫn chuyên môn,
nghiệp vụ cho phòng, ban chuyên môn của
chính quyền quận, huyện; tư vấn các vấn đề
chuyên môn khi UBND quận, huyện có thắc
mắc, có kiến nghị, đề xuất6… Như vậy, dù
là cơ quan chuyên môn nhưng các sở, ngành
vẫn thực hiện theo cách thức được quyền chỉ
đạo UBND quận, huyện về công tác chuyên
môn. Điều này tạo ra hệ quả pháp lý là: cùng
một vấn đề mà sở chỉ đạo khác, UBND quận
(huyện) chỉ đạo khác; các sở, ngành tham
mưu theo cơ chế chuyên biệt, chuyên ngành
nên đã có những "khoảng trống" trong quản
lý hành chính nhà nước giữa các sở, ngành
chuyên môn với nhau, hoặc giữa sở, ngành

chuyên môn với phòng chuyên môn của
UBND quận, huyện.

Xem thêm các Điều 4, 8, 9 Luật Tổ chức CQĐP năm 2015.
Xem thêm các Điều 43, 44, 45, 49 Luật Tổ chức CQĐP năm 2015.
Tình trạng hạ tầng giao thông đô thị kém phát triển hoặc không theo kịp tốc độ phát triển của phương tiện giao thông;
các vấn đề về ngập nước, khói bụi ô nhiễm, tệ nạn xã hội… thời gian qua không kiểm soát được…
Xem thêm Điều 41 Luật Tổ chức CQĐP năm 2015.
Trong quản lý đô thị với diện tích hẹp, mật độ dân số đông, dày đặc nhưng lại phân theo địa giới lãnh thổ, một con
đường nhiều khi bên này là một quận, bên kia là một quận khác, bên này là một phường, bên kia là một phường khác,
thậm chí trong hẻm cũng phân ra như vậy. Mỗi bên là một bộ máy riêng biệt với đủ 3 cấp vừa chồng chéo, vừa lãng phí.
Nhiều lĩnh vực quản lý như: cầu đường, thoát nước, chiếu sáng, cây xanh, trấn áp tội phạm… đang bị cắt khúc, không
đồng bộ. Có tình trạng, cùng một việc, quận này làm nhưng quận kia chưa có kinh phí làm nên đô thị luôn chắp vá, bị
động, lúc nào cũng thấy ngổn ngang.
Xem thêm Điều 3, khoản 8 Điều 4 Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ Quy định tổ chức các
cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Số 23(351) T12/2017

49


THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
Thứ năm, do Luật năm 2015 không
quy định rõ cơ chế đặc thù về nhân sự cho
cấp xã của các thành phố lớn như Hà Nội,
Hồ Chí Minh nên các văn bản dưới luật7
đã quy định “tương đối đồng nhất” về số
lượng cán bộ, công chức, số lượng, chức
danh, tên gọi, chế độ chính sách cho những
người hoạt động không chuyên trách… dẫn

đến một vấn đề không xác định được đâu là
tiêu chí hàng đầu cho việc định biên cán bộ,
công chức, người hoạt động không chuyên
trách: diện tích địa bàn (số km/cán bộ quản
lý) hay số dân trên địa bàn (số dân/cán bộ
quản lý). Điều này gây khó khăn cho Thành
phố khi không có đủ nhân sự cho cấp xã để
đảm bảo hiệu quả thực hiện cơ chế quản lý
hành chính.
Thứ sáu, Luật năm 2015 thể chế hóa
quan điểm của Hiến pháp năm 2013 theo
hướng: ở đâu có cấp chính quyền, ở đó có
HĐND cùng cấp8, nghĩa là ở đâu được coi
là cấp chính quyền thì chính quyền ở đó
bao gồm Hội đồng nhân dân (HĐND) và
UBND, còn ở đâu không được coi là cấp
chính quyền thì có thể tổ chức chính quyền
chỉ có cơ quan hành chính thực hiện nhiệm
vụ quản lý hành chính và dịch vụ công tại
địa bàn. Tuy nhiên, hiện nay Thành phố vẫn
được tổ chức theo đơn vị hành chính với 3
cấp chính quyền là cấp tỉnh, cấp huyện và
cấp xã nên ở tất cả các cấp chính quyền đều
thành lập HĐND và UBND. Trong khi trước
đó, việc thực hiện thí điểm không tổ chức
HĐND ở huyện, quận, phường đã cho thấy,
nhiều vấn đề quản lý đô thị đa diện, phức tạp
đã được phối hợp giải quyết nhanh, hiệu quả
7


8
9
10
11
12
13

50

khi không có HĐND. Việc lập lại HĐND
ở 19 quận, huyện và gần 300 phường đã
phát sinh thêm hàng ngàn biên chế phải trả
lương, thêm bộ máy phục vụ (văn phòng,
xe, trụ sở…) khiến cho bộ máy chính quyền
cồng kềnh mà hiệu lực, hiệu quả của bộ máy
lại tăng không tương xứng. Cơ chế quản lý
hành chính tiếp tục tăng sức ỳ và gánh nặng
sau khi tái lập mô hình tổ chức CQĐP 3 cấp.
Kết quả khảo sát của một công trình nghiên
cứu khoa học cấp Thành phố cho thấy, có
65% số người dân cho rằng, mô hình chính
quyền đô thị được tổ chức theo cách thức có
HĐND ở tất cả các cấp chính quyền Thành
phố là không phù hợp9.
Thứ bảy, Luật năm 2015 không quy
định tỷ lệ phân chia ngân sách giữa Thành
phố với Trung ương và đầu tư trở lại Thành
phố. Vấn đề này sẽ được quy định chi tiết tại
các văn bản pháp luật chuyên ngành về ngân
sách nhà nước. Tuy nhiên, Luật Ngân sách

nhà nước năm 201510 chỉ quy định mang tính
nguyên tắc chung, Nghị quyết hàng năm
của Quốc hội về phân bổ ngân sách trung
ương11 là văn bản cụ thể hóa các nguyên tắc
chung đó nhưng do tỷ lệ % được phân chia
giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương chưa phù hợp với thực tiễn nên đã
tạo ra xung đột về lợi ích12. Có một thực tế là,
Thành phố thu ngân sách nhiều nhưng được
đầu tư ít, tỷ lệ thu ngân sách được giữ lại
thấp và giảm dần nên không đáp ứng được
yêu cầu đầu tư. Hạ tầng đô thị của Thành
phố hiện rất thiếu và yếu; nhiều công trình
đang thiếu vốn, nhưng không đáp ứng được
nguồn vốn ngân sách đầu tư13.

Xem thêm các Điều 3, 4, 5, 13, 14, 15 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ quy định về
chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã; các Điều 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTCBLĐTB&XH ngày 27/05/2010 của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP.
Xem thêm khoản 2 Điều 111 Hiến pháp năm 2013.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố “Hoàn thiện cơ chế quản lý thành phố Hồ Chí Minh”.
Xem thêm khoản 1 Điều 9, khoản 5, khoản 6 Điều 19 Luật Ngân sách nhà nước năm 2015; khoản 2 Điều 13 Nghị định
số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 của Chính phủ.
Xem thêm Bản dự toán chi chương trình các mục tiêu quốc gia (ban hành kèm theo Nghị quyết số 29/2016/QH14 của
Quốc hội về phân bổ ngân sách trung ương năm 2017).
Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 chỉ quy định mang tính nguyên tắc chung cho dự toán ngân sách và tỷ lệ phân chia
ngân sách trung ương và địa phương.
Thành phố chỉ được điều tiết 18% tổng thu ngân sách, thấp nhất trong số 5 thành phố trực thuộc Trung ương (Cần Thơ
được điều tiết 91%, Hải Phòng 88%, Hà Nội 42%, Đà Nẵng 85%)...

Số 23(351) T12/2017


THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
2. Một số kiến nghị
Sự phát triển mạnh mẽ của Thành phố
song hành với việc áp dụng Luật Tổ chức
CQĐP năm 2015 đang đặt ra nhiều thách
thức cho việc đổi mới cơ chế tổ chức và
hoạt động của chính quyền đô thị, nhất là
những thách thức về đầu tư cơ sở hạ tầng, ô
nhiễm môi trường, ùn tắc giao thông, tệ nạn
xã hội... Việc xây dựng được cơ chế quản lý
hành chính hiệu quả, bảo đảm phù hợp với
mô hình CQĐP ở đô thị đặc biệt như thành
phố Hồ Chí Minh đang là vấn đề bức thiết.
Do vậy, chúng tôi kiến nghị như sau:
Một là, Trung ương cần tạo điều kiện
cho Thành phố xây dựng cơ chế quản lý
hành chính phát triển. Theo đó, Trung ương
và Thành phố cùng “chung tay” giải quyết
những thách thức nêu trên:
(1) Những vấn đề nào chưa phù hợp
với đô thị đặc biệt của thành phố Hồ Chí
Minh thì Trung ương tiếp thu, bổ sung,
chỉnh sửa và hoàn thiện; tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện hệ thống thể chế có liên quan
đến cơ chế quản lý hành chính đô thị; chú
trọng việc ban hành văn bản dưới luật vừa
đảm bảo tính phù hợp với Hiến pháp, Luật

Tổ chức CQĐP năm 201514, vừa đảm bảo
phù hợp với tình hình thực tiễn của Thành
phố; nghiên cứu xây dựng các quận, phường
của Thành phố là CQĐP chỉ có cơ quan đại
diện hành chính là “cánh tay nối dài” của
chính quyền Thành phố, mà không tổ chức
HĐND cùng cấp; phân định thẩm quyền,
trách nhiệm cụ thể cho từng chủ thể quản lý
hành chính; quy định rõ cơ chế phân cấp, ủy
quyền tại các điều luật về tổ chức bộ máy,
thẩm quyền, chế độ, chính sách15…
(2) Thành phố phải tự thay đổi những
điều không còn phù hợp với thực tiễn quản
lý hành chính đô thị (giải thể các cơ quan
chuyên môn không phù hợp, sáp nhập một
số quận ít người, diện tích hẹp, phân cấp, ủy
quyền mạnh cho chính quyền cấp dưới…).
Hai là, tập trung hoàn thiện cơ chế

quản lý hành chính Thành phố. Trong đó,
cần làm rõ thẩm quyền và trách nhiệm của
Chủ tịch UBND các cấp theo hướng, phân
định những nhiệm vụ thuộc trách nhiệm tập
thể thảo luận và biểu quyết, Chủ tịch UBND
chịu trách nhiệm cá nhân về các quyết định
của mình đối với những nhiệm vụ thuộc
thẩm quyền; chú trọng thẩm quyền của cấp
trưởng trong sự liên thông với các luật khác
như Luật Khiếu nại, Luật Xử lý vi phạm
hành chính16…

Bên cạnh đó, cần cấu trúc lại các cơ
quan chuyên môn thuộc chính quyền Thành
phố, bảo đảm tăng cường vai trò tham mưu
tổng hợp của Văn phòng UBND, xác định
rõ trách nhiệm quản lý đối với các ngành
chuyên môn. Sắp xếp các cơ quan theo
hướng gọn nhẹ, quản lý đa ngành, giảm đầu
mối, hạn chế cấp trung gian, mỗi nhiệm vụ
chỉ có một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu
trách nhiệm chính; các ngành, lĩnh vực gần
nhau, liên quan thường xuyên, mật thiết với
nhau, gắn liền nhau về trách nhiệm, quyền
hạn thì nhập lại thành một; các sở, phòng
và ban ngành khác phải thực hiện tốt cơ
chế liên thông. Các sở, phòng, ban quản lý
chuyên ngành được tăng cường vai trò quản
lý nhà nước theo hướng xuyên suốt, thống
nhất, không bị cắt khúc theo địa bàn, lãnh
thổ đối với 13 quận nội thành hiện hữu và
các huyện. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa
các cơ quan chuyên môn với nhau. Ban hành
văn bản cụ thể hóa về cơ chế trách nhiệm
và nội dung phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước liên quan trong thực hiện các nhiệm
vụ theo hướng phối hợp phải đồng bộ, cơ
quan chủ trì phải được giao quyền và thực
thi đúng quyền được giao; có sự phối hợp
trên tất cả các lĩnh vực, các giai đoạn. Các
cơ quan quản lý chuyên ngành là các cơ
quan quản lý hành chính nhà nước theo hệ

thống dọc, chịu trách nhiệm toàn bộ về lĩnh
vực quản lý trên địa bàn thành phố. Thủ
trưởng các cơ quan chuyên môn được Chủ
tịch UBND giao chức năng, thẩm quyền và

14 Trường hợp này được áp dụng khi vẫn giữ nguyên các quy định tại Luật Tổ chức CQĐP.
15 Tại các Điều 11, 12, 13, 14 chỉ quy định một cách chung chung, triển khai khó khăn vì phải thêm các văn bản dưới luật
nên thực tiễn không đồng bộ và thống nhất.
16 Các luật này chỉ quy định thẩm quyền cho cấp trưởng, đặc biệt Luật Khiếu nại không quy định việc ủy quyền giải quyết
khiếu nại cho cấp phó.
Số 23(351) T12/2017

51


THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
tổ chức bộ máy để thực hiện chức năng đó.
Chủ tịch UBND thực hiện việc bổ nhiệm và
miễn nhiệm khi thủ trưởng các cơ quan này
không hoàn thành nhiệm vụ. Theo phương
thức này, thủ trưởng các cơ quan chuyên
môn là người có thực quyền đồng thời chịu
trách nhiệm cuối cùng về lĩnh vực phụ trách,
chứ không phải đóng vai trò tham mưu như
hiện nay. Bên cạnh đó, tổ chức hệ thống
bộ máy các cơ quan chuyên môn phải phù
hợp với việc tăng quyền tự quản cho chính
quyền các thành phố trực thuộc. Đối với đơn
vị sự nghiệp sẽ tổ chức lại theo quy định của
Chính phủ; đẩy mạnh tiến độ xã hội hóa các

đơn vị sự nghiệp có thu và các loại doanh
nghiệp công ích.
Ba là, Chính phủ tiếp tục mở rộng
phân cấp, ủy quyền cho Thành phố trên các
lĩnh vực17, cho phép Thành phố được quy
định một số khoản thu, khoản chi, phí và lệ
phí phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa,
xã hội của địa phương. Thành phố được
quyền quyết định bộ máy giúp việc và các
cơ quan chuyên môn có tính chất đặc thù
của một đô thị lớn hay đặc biệt; quy định
chức năng, nhiệm vụ các bộ phận giúp việc
và được phân cấp cho chính quyền cấp dưới
thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc
thẩm quyền của Thành phố, được tổ chức
các cơ quan chuyên môn phù hợp với đặc
thù, không nhất thiết phải theo khuôn mẫu
của Trung ương. Thành phố được quyền
quyết định về số lượng cán bộ, công chức,
viên chức theo khả năng cân đối ngân sách
của Thành phố (thay vì Bộ Nội vụ trình
Chính phủ quyết định như hiện nay) theo
Đề án vị trí việc làm để bảo đảm hoạt động
của bộ máy thuộc đô thị loại đặc biệt; được
chủ động trong tổ chức thi tuyển, thi nâng
ngạch công chức chuyển xếp ngạch, chế độ
đãi ngộ, hỗ trợ thu nhập phù hợp với nhu
cầu, số lượng biên chế được HĐND Thành
phố quyết nghị. Thành phố được quyền tạo
nguồn thu mới từ các hoạt động sản xuất,

kinh doanh, dịch vụ ở một đô thị lớn mà
pháp luật hiện hành không cấm hoặc được

Trung ương cho phép; được quyền quy định
định mức chi phù hợp với nguồn thu (các
nhiệm vụ chi mang tính đặc thù của Thành
phố phải được tính đến trong dự toán chi
ngân sách của Trung ương cho địa phương).
Thành phố được quyết định trong việc vay
nợ để đầu tư dựa vào khả năng tự cân đối để
trả nợ, Chính phủ quy định một số điều kiện
về vay nợ đầu tư xây dựng cơ bản phù hợp
với đặc thù của Thành phố có tiềm năng phát
triển kinh tế mạnh, có nhu cầu huy động lớn
và có khả năng trả nợ.
Bốn là, hoàn thiện cơ chế quản lý hành
chính của UBND các quận, phường nội
thành và UBND các huyện, xã: tại các quận,
phường nội thành, cần thay đổi cơ chế quản
lý hành chính bằng cách đổi mới các mô
hình quản lý theo ranh giới hành chính; xây
dựng các mô hình quản lý ngành dọc đối với
lĩnh vực quy hoạch, đô thị, môi trường, giao
thông công chính, y tế, giáo dục, tư pháp…
theo hướng tản quyền, quản lý theo khu vực,
không theo ranh giới quận, phường; tăng
cường các kênh thông tin, các kênh giám
sát, các kết nối thông tin liên ngành để phục
vụ kịp thời và hiệu quả người dân.
Ở các huyện ngoại thành, do mức độ

đô thị hóa tương đối nhanh18, cần nghiên cứu
đề xuất chuyển thành quận; tập trung củng cố
đội ngũ cán bộ, công chức hành chính xã, thị
trấn đủ năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt và
đảm nhận được để thực thi công vụ tốt nhất và
thực hiện hiệu quả nhất; thực hiện tuyển chọn
cán bộ, công chức hành chính thông qua thi
tuyển và áp dụng rộng rãi từ cấp Thành phố
đến quận, huyện, phường, xã; làm tốt công
tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;
nhận xét đánh giá cán bộ, công chức bảo đảm
công tâm, khách quan, công khai, minh bạch,
công bằng; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
thường xuyên, liên tục, phấn đấu đến giai đoạn
2020 - 2025, đội ngũ cán bộ, công chức Thành
phố đáp ứng được tiêu chuẩn đã xác định

17 Mặc dù đã có Nghị định số 48/2017/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định một số cơ chế, chính sách tài chính - ngân
sách đặc thù đối với Thành phố nhưng phạm vi, thẩm quyền và các nội dung được phân cấp, ủy quyền vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu quản lý hành chính đô thị.
18 Bình quân hiện nay trên 220.000 người/huyện.

52

Số 23(351) T12/2017



×