Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Bằng lý luận và thực tiễn, phân tích và chứng minh luận điểm: “ Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc ” là một sáng tạo to lớn của Hồ Chí Minh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.61 KB, 47 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI










BÀI THẢO LUẬN
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: Bằng lý luận và thực tiễn, phân tích và chứng minh luận điểm:
“ Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc ” là một sáng
tạo to lớn của Hồ Chí Minh.

Giáo viên hướng dẫn :
Nhóm

:

Lớp học phần

:

0


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU...................................................................................................................3
PHẦN A : CƠ SỞ LÝ LUẬN..................................................................................6
CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ
DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC....................................6
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC........8
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM SÁNG TẠO NHẤT CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC.......................................................................................14
I. Quan điểm học thuyết của Mác-Lênin........................................................14
II. Quan điểm của quốc tế cộng sản................................................................19
III. Quan điểm của Hồ Chí Minh....................................................................19
PHẦN B. CƠ SỞ THỰC TIỄN.............................................................................27
CHƯƠNG 1: THẮNG LỢI TRONG CUỘC CÁCH MẠNG THÁNG 8
( 1930-1945)*............................................................................................................27
CHƯƠNG 2: THẮNG LỢI TRONG 30 NĂM CÁCH MẠNG ( 1945-1975)**
...................................................................................................................................28
PHỤ LỤC * VÀ **: NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ CHIẾN TRANH CÁCH
MẠNG THÁNG TÁM VÀ 30 NĂM CÁCH MẠNG............................................33
CHƯƠNG 3: SOI SÁNG CHO CÔNG CUỘC XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA HIỆN NAY.................................................................................................39
KẾT LUẬN.............................................................................................................48

1


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là

tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi
đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại, nó trường tồn, bất diệt, là tài sản tinh
thần vô giá của dân tộc ta. Nét đặc sắc nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề
xung quanh việc giải phóng dân tộc, đây cũng là nội dung quan trọng nhất và có ý
nghĩa hàng đầu, trước hết là của cách mạng Việt Nam. Giải phóng dân tộc, xét về
thực chất là đánh đổ ách thống trị, áp bức, xâm lược của đế quốc thực dân, giành
độc lập dân tộc, hình thành nhà nước độc lập và tự do. Tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng vững chắc để Đảng ta vạch ra đường lối đúng đắn, là sợi chỉ đỏ
dẫn đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đi tới thắng lợi.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân
tộc, đồng thời Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận của Chủ nghĩa MácLênin cho phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Hồ Chí Minh đã đưa ra luận điểm “
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc ”. Đây là một luận điểm
quan trọng, giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến rất quan trọng của Hồ
Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, nó thể hiện sự sáng tạo
to lớn của Hồ Chí Minh về cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
2. Mục đich – Yêu cầu.

2


- Mục đích: Phân tích, làm rõ luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh “Cách mạng
giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc ”.
- Yêu cầu: Trình bày rõ ràng, mạch lạc để mọi người có thể nhận thức đây là một
luận điểm sáng tạo, là sự phát triển của Hồ Chí Minh được minh chứng bằng
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Từ đó, đóng góp thêm vào kho
tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.
3. Đối tượng nghiên cứu.

Luận điểm sáng tạo to lớn của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc “
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc ”.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Bài thảo luận dựa trên những phương pháp: duy vật biện chứng, phương pháp
thống kê, phương pháp logic, phương pháp lịch sử, phương pháp trừu tượng.
- Cơ sở phương pháp luận:
+ Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn
+ Quan điểm lịch sử cụ thể
+ Quan điểm toàn diện và hệ thống
+ Quan điểm kế thừa và phát triển
+ Kết hợp nghiên cứu các tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Hồ
Chi Minh.
5. Phạm vi nghiên cứu.
Hệ tư tưởng Hồ Chí Minh và rộng hơn là kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin
6. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài thảo luận gồm 2 phần:
- Phần A. Cơ sở lý luận
3


- Phần B. Cơ sở thực tiễn

4


PHẦN A : CƠ SỞ LÝ LUẬN
CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN
TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

Có thể nói, bốn nguồn gốc chính yếu ( Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; Tinh hoa
văn hoá nhân loại; Chủ nghĩa Mác – Lênin; và Nhân tố chủ quan, bản thân con
người Hồ Chí Minh) hình thành nên tư tưởng của Hồ Chủ tịch cũng chính là những
nguồn gốc hình thành nên tư tưởng của Người về vấn đề dân tộc và cách mạng giải
phóng dân tộc, chỉ có sự biểu hiện của nó trong các giai đoạn, các vấn đề khác nhau
là khác nhau thôi.
K.Marx, F. Engghen, V.I.Lênin Hồ Chí Minh là những vĩ nhân, có chung một
mục tiêu, lý tưởng là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người,
xây dựng chế độ xã hội mang bản chất nhân đạo cao cả, một chế độ xã hội tốt
đẹp.Xuất phát từ điều kiện chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh châu Âu đầu thế kỉ
XIX, K.Mã và F.Ăngghen đã vạch ra con đường cách mạng tất yếu là đi từ giải
phóng giai cấp đến giải phóng nhân loại. Cuối thế kỉ XIX, trong điều kiện chủ
nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã chỉ ra con đường từ giải
phóng giai cấp đến giải phóng dân tộc và giải phóng nhân loại. Đầu thế kỉ XX, sinh
ra trong điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến, chủ nghĩa thực dân đang
bành trướng mạnh mẽ, Hồ Chí Minh lại xuất phát từ giải phóng dân tộc đến giải
phóng giai cấp và giải phóng nhân loại. Từ đó ở người đã hình thành nên tư tưởng
về cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trước hết, phải nói rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
có nguồn gốc từ sự nhận thức sâu sắc lý luận Mác – Lênin. K.Mác và Lênin cho
rằng cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường cách mạng
vô sản, do giai cấp công nhân lãnh đạo, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ
phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới và cách mạng đó phải được thực
hiện bằng con đường bạo lực. Bạo lực cách mạng là quy luật minh phổ biến của
cách mạng vô sản. như vậy, lý luận của Mác – Lênin đã chỉ rõ ở các nước thuộc địa
và phụ thuộc, vấn đề đánh đổ đế quốc giành độc lập dân tộc là tất yếu, phải giải
phóng các dân tộc bị áp bức để tiến lên giải phóng con người, xây dựng một xã hội
tốt đẹp. Đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Thứ hai, tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng
dân tộc còn xuất phát từ sự tìm hiểu các cuộc cách mạng trên thế giới. Qua tìm

hiểu, Hồ Chí Minh thấy rõ các cuộc cách mạng trên thế giới đều không triệt để, ở
đó, người lao động vẫn bị áp bức, bóc lột nặng nề, nhân dân ở đó còn đang muốn
tìm kiếm một cuộc cách mạng khác. Hồ Chí Minh đã khẳng định; chỉ có con đường
5


cách mạng vô sản là cái cần thiết cho dân tộc ta, là con đường giải phóng nhân dân
ta. Sau này, khi tổng kết về con đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã nói một
cách rõ ràng hơn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”.
Nguồn gốc thứ ba là bắt nguồn từ thời đại: trong thời đại ngày nay, giai cấp
công nhân là giai cấp trung tâm lãnh đạo cách mạng, thắng lợi của cách mạng tháng
10 Nga đã mở ra thời đại mới và đang là ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp
bức đi theo. Chính sự thắng lợi của cách mạng tháng mười Nga đã tác động mạnh
mẽ tới tư tưởng của Người về cách mạng giải phóng dân tộc. Người cho rằng cách
mạng muốn giành thắng lợi phải đi theo cách mạng tháng mười. Cách mạng tháng
mười là cuộc cách mạng sâu sắc và triệt để nhất mà cách mạng các nước thuộc địa
phải đi theo và học tập nếu muốn giành thắng lợi cho cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc mình.Nguồn gốc cuối cùng đó là sự nhận thức sâu sắc, nắm rõ tình hình đất
nước ta của Người. Ở Việt Nam giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong nhất của
xã hội, là giai cấp cách mạng nhất trong tất cả các giai cấp. Cho nên, giai cấp công
nhân là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi
ra đời, giai cấp công nhân đã khẳng định vị trí lãnh đạo trung tâm của mình. Từ đó
Hồ Chí Minh nhận thức rõ vai trò của giai cấp công nhân, Bác nói: “Với lý luận
tiên phong và kinh nghiệm của phong trào cộng sản quốc tế, giai cấp công nhân ta
đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và tin cậy nhất của nhân dân Việt
Nam”.Có thể nói, chính sự vận dụng một các sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và
cách mạng Việt Nam, cùng với sự nhận thức sâu sắc và nắm bắt rõ nét tình hình đất
nước đã tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng sau sắc đến việc hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, một trong những tư

tưởng lớn của người mãi mãi soi sáng cho đường đi của cách mạng Việt Nam.

6


ĐK Kinh tế-chính trị-xã hội

ĐKKQ

Cuộc đời+Sự nghiệp+Bản thân

Nhân tố chủ quan

Dân tộc

Tư tưởng HCM

- Tính CM- KH
(PP biện chứng)

VHPĐ

- Tính hiện đại

- Tính năng động

VHPT

- Tính dân tộc
CN Mác


CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
1. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng giải phóng dân tộc.
- Tính chất:
Sau khi ra đi tìm đường cứu nước ở bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Ái Quốc đã
quan sát, phân tích tỉ mỉ thực tiễn xã hội thuộc địa ở các nước phương Tây và nhận
ra một điều rằng sự phân hóa giai cấp ở các nước thuộc địa phương Đông không
giống với các nước tư bản ở phương Tây. Các giai cấp ở thuộc địa có sự khác nhau
ít nhiều nhưng đều có chung số phận là người nô lệ mất nước. Mâu thuẫn cơ bản và
chủ yếu ở các nước phương Đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với chủ
nghĩa thực dân và tay sai của chúng, còn mâu thuẫn ở phương Tây là mâu thuẫn
7


giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Vì vậy ở các nước thuộc địa trước hết phải
tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc.
Ở các nước thuộc địa nông dân là nạn nhân chính bị bóc lột bởi chủ nghĩa đế
quốc. Nông dân có hai yêu cầu là độc lập dân tộc cao hơn so với yêu cầu ruộng đất.
Hay nói cách khác yêu cầu bức thiết của nhân dân các nước thuộc địa là độc lập
dân tộc
Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc, quy định tính chất và
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.
-

Nhiệm vụ: Cần thực hiện được 2 nhiệm vụ quan trọng sau:
+ Đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết
lập chính quyền của nhân dân.
+ Người xác định nhiệm vụ cấp thiết ở cách mạng thuộc địa chưa phải là giành
quyền lợi riêng biệt ở mỗi giai cấp mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc.
Phù hợp với xu thế của thời đại cách mạng chống đế quốc, thời địa giải

phóng dân tộc, đáp ứng nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân
dân.

-

Mục tiêu: Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là giành
quyền lợi riêng biệt của mỗi giai cấp mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc.
Đó là những mục tiêu của chiến lược đấu tranh dân tộc, phù hợp với xu thế của
thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện
vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân.

2.Cách mạng GPDT muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX ông cha ta đã chiến đấy rất anh dũng, sử dụng nhiều con đường khác nhau
nhưng đều thất bại, đất nước lâm vào “tình hình đen tối tư tưởng như không có
đường ra”
Điều đó chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ tư
tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách quan
8


là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Chính vì thế mặc dự rất khâm
phục tinh thần cứu nước của ông cha ta, nhưng Hồ Chí Minh không tán thành các
con đường cứu nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới.
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh đã tìm hiểu và khảo sát
thực tiễn các cuộc cách mạng lớn trên thế giới như cách mạng tư sản Anh, Pháp…
Người đọc tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tuyên ngôn dân quyền của cách mạng
Pháp. Người nhận thấy: “ cách mệnh Pháp cũng như cách Mệnh Mỹ, nghĩa là cách
mệnh tư bản, cách mệnh không đến nới, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực
trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Vì vậy Người

không đi theo con đường cách mạng tư sản.
Hồ Chí Minh thấy được CM tháng mười Nga không chỉ là một cuộc CM vô
sản, mà còn là một cuộc CMGPDT. Nó nêu tấm gương sáng về sự nghiệp giải
phóng các dân tộc thuộc địa và “mở ra trước mắt họ thời đại CM chống đế quốc,
thời đại GPDT”. Người thấy trong lý luận của Lênin một phương hướng mới để
giải phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản. Thực chất đây là con đường độc
lập dân tộc gắn liền với CNXH, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp
và giải phóng con người “ Chỉ có giải phóng GCVS thì mới giải phóng được dân
tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và
của cách mạng thế giới”
Như vậy là, vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách
mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách
mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô sản.
Người khẳng định: “ Muốn cứu nước và GPDT không có con đường nào khác con
đường CMVS”.
Cách mạng vô sản trước hết là giành lại độc lập và dần dần từng bước “đi tới xã
hội cộng sản”. Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân với Đảng Cộng
sản là đội tiền phong . Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.Mặt
9


khác, sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng
thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế
3. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo
Người khẳng định muốn làm cách mệnh: “ trước phải làm cho dân giác ngộ…
phải giảng lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu” “ Cách mệnh phải hiểu trong triều
thế giới, phải bày sách lược cho dân. Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn
tập trung phải có đảng cách mệnh.” “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong

thì vận động ngoài thi liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi
nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy.”
Đầu năm 1930, Người sáng lập ra Đảng Cộng ản Việt Nam một chính Đảng của
giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam được xây dựng theo nguyên tắc Đảng kiểu
mới của Lênin, lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, mật thiết liên lạc với quần
chúng. Đảng là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, tận tâm tận lực
phụng sự Tổ quốc và nhân dân.
Người đã xây dựng được một Đảng CM tiên phong phù hợp với thực tiễn VN.
Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với CM VN và trở thành nhân tố hàng
đầu bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng.
4. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
Cách mạng là sự nghiệp của dân chúng bị áp bức. Năm 1924 Hồ Chí Minh đã
nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Để thắng lợi phải có tính chất
cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn của một hai người.
Vì vậy phải đoàn kết toàn dân. Sỹ công nông thương đều nhất trí chống lại cường
quyền nhưng trong sự tổng hợp rộng rãi đó Người luôn nhắc nhở không được quên

10


cốt lõi của nó là công nông. Phải nhớ công nông là người chủ cách mạng, là gốc
cách mạng.
Quan điểm “lấy dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của
Người, “Có dân là có tất cả”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân
liệu cũng xong”. Khi làm việc ở nước ngoài Người nói: “ Đối với tôi, câu trả lời đã
rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ,
đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”
Về lực lượng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh phân tích: cuộc kháng chiến của

ta là cuộc kháng chiến toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân. Dân
tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghã lá sĩ, nông, công, thương đều nhất trí
chống lại cường quyền.
Trong lực lượng toàn dân tộc các giai cấp công nhân và nông dân có số lượng
đông nhất nên có sức mạnh lớn nhất. Vì vậy Người hết sức nhấn mạnh vai trò động
lực cách mạng của công nhân và nông dân. Bên cạnh đó Người cũng không coi nhẹ
khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các giai cấp và tầng lớp khác.
Người coi tiểu tư sản và tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp địa chủ là bạn đồng
minh của cách mạng.
5. Cách mạng GPDT cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng
giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, CM thuộc
địa có tầm quan trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng CM to
lớn. Theo Người, phải “ Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách
biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh
phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của
CMVS”. Vận dụng công thức của C.Mác: “ sự giải phóng của giai cấp công nhân
phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”,Người đi đến luận điểm: “ công
cuộc giải phóng anh em ( nhân dân thuộc địa TG) chỉ có thể thực hiện được bằng
sự nổ lực của anh em”…
11


Theo Hồ Chí Minh, giữa CM GPDT ở thuộc địa và CMVS chính quốc có mối
quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ
thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là
quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính-phụ. Nhân dân các nước thuộc địa và phụ
thuộc có thể chủ động đứng lên đem sức ta mà giải phóng cho nhân dân ta giành
thắng lợi trước CMVS ở chính quốc. Đây chính là một luận điểm sáng tạo có giá trị
thực tiễn to lớn, một cống hiến quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận

của chủ nghĩa Mác- Lênin.
6. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiên bằng con đường bạo lực
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp
dã man các phong trào yêu nước. Đánh giá đúng bản chất cực ký phản động của
bọn đế quốc và tay sai, Hồ Chí Minh vạch rõ tính tất yếu của bạo lực CM : “ Trong
cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực
CM chống lại bạo lực phản CM, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, coi sự nghiệp CM là sự
nghiệp của quần chúng, Người cho rằng bạo lực cách mạng là bạo lực của quần
chúng. Trong đó cơ sở bạo lực cách mạng gồm lực lượng chính trị, quần chúng lấy
lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Mặt trận Việt Minh ra đời là một lực
lượng cơ bản giữ vai trò quyết định trong tổng khởi nghĩa vũ trang.
Hình thức của bạo lực CM bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ
trang nhưng phải “ tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh
CM thích hợp, sư dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và
đấu tranh chính trị để giành được thắng lợi cho CM”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
bạo lực CM khác hẳn với tư tưởng hiếu chiến của thế lực đế quốc xâm lược. Xuất
phát hòa bình, từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người,
Người luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu. Việc tiến hành
chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi không có khả năng hòa
12


hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ muốn giành thắng lợi
bằng quân sự thì Người mới kiên quyết phát động chiến tranh.
Theo Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc “ lực lượng chính
là ở dân”. Người chủ rương tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.
Người nói: “ Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không
thể nào ứng phó được.” Người sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài.
Trong chiến tranh “quân sự là chủ chốt” nhưng đồng thời phải kết hợp giữa đấu

tranh chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa tư tưởng và phải có tinh thần tự lực
cánh sinh tránh bị động trông chờ vào sự giúp đỡ của bên ngoài. Mặc dù rất coi
trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Người luôn để cao sức mạnh bên trong, phát huy
đến mức cao nhất mọi nổ lực của dân tộc, đề cao tinh thần độc lập tự chủ
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM SÁNG TẠO NHẤT CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
I. Quan điểm học thuyết của Mác-Lênin
1. Tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về cách mạng vô sản
Với quan niệm duy vật về lịch sử, trong “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã xây dựng cơ sở lý luận vững chắc cho sự phát triển tư tưởng về
cách mạng vô sản. Khi luận chứng cho quan điểm về cách mạng vô sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nhắc nhở những người cộng sản rằng “cần phải làm cho ý thức
cộng sản chủ nghĩa nảy sinh trong đông đảo quần chúng lao động” tức là tạo nên
một sự biến đổi của chính lực lượng xã hội đó. Sự biến đổi ấy chỉ có thể được thực
hiện trong thực tiễn phong trào đấu tranh, trong cách mạng. Điều đó một lần nữa
chứng minh rằng: sự tất yếu của cách mạng vô sản không những thể hiện ở chỗ, nó
là phương thức duy nhất để giai cấp vô sản và nhân dân lao động lật đổ “thế lực của
phương thức sản xuất và của sự giao tiếp trước đó và cả của cơ cấu xã hội cũ...,
phát triển tính phổ biến của giai cấp vô sản và nghị lực mà giai cấp vô sản cần
có...”, mà còn vì “cuộc cách mạng này sẽ làm cho giai cấp vô sản trút bỏ được mọi
cái rơi rớt lại từ địa vị xã hội cũ của mình” và chỉ có trong cuộc cách mạng đó, giai
13


cấp vô sản “mới có thể quét sạch mọi sự thối nát của chế độ cũ đang bám chặt lấy
mình và trở thành có năng lực xây dựng cơ sở mới cho xã hội”.
Tiền đề vật chất của cách mạng vô sản
Không dừng lại ở việc luận chứng cho tính tất yếu của cách mạng vô sản trên
phương diện lý luận, C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ rõ những tiền đề vật chất,
nghĩa là chỉ rõ những cơ sở thực tiễn, những điều kiện hiện thực, khách quan của

cuộc cách mạng ấy. Các ông khẳng định rằng, “nếu không có những yếu tố vật chất
ấy của một cuộc cách mạng toàn diện - những yếu tố bao gồm một mặt là những
lực lượng sản xuất hiện có và mặt khác là sự hình thành một khối đông đảo quần
chúng cách mạng đang nổi dậy không những chống lại những điều kiện riêng biệt
của xã hội cũ mà còn chống lại bản thân “sự sản xuất ra đời sống” trước đây, chống
lại “toàn bộ hoạt động” làm cơ sở cho xã hội cũ đó, thì lịch sử của chủ nghĩa cộng
sản đã chứng tỏ, ý niệm về cuộc cách mạng này dù có được phát biểu hàng trăm lần
đi nữa, cũng hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì đối với sự phát triển thực tế cả”
-

Sự phát triển của lực lượng sản xuất:
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất đã phát triển đến trình độ xã

hội hoá rất cao, song chế độ sở hữu tư nhân trong quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa cũng đã trở thành xiềng xích cản trở sự phát triển hơn nữa của lực lượng sản
xuất xã hội. Sự “giải phẫu” một cách khoa học hiện thực xã hội tư bản chủ nghĩa đã
dẫn C.Mác và Ph.Ăngghen đến kết luận khái quát rằng: dưới sự thống trị của sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, những lực lượng sản xuất chỉ phát triển một cách
phiến diện; rằng: sự phát triển thành một tổng thể xác định của lực lượng sản xuất
chỉ tồn tại trong khuôn khổ của sự giao tiếp phổ biến. Như vậy, sự phát triển của
lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa đặt ra nhu cầu khách quan là phải
xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, hay theo cách diễn đạt của C.Mác và Ph.Ăngghen, thay
thế hình thức giao tiếp cũ bằng một “sự giao tiếp phổ biến” có tính chất hiện đại;
trong đó, việc chiếm hữu lực lượng sản xuất “... không bị lệ thuộc vào từng cá
nhân..., mà... lệ thuộc vào mọi cá nhân”, tức là vào toàn thể xã hội. Với sự phát
14


triển ngày càng trở nên gay gắt của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa, tiền đề thứ nhất của cách mạng vô sản đã được xác lập.

-

Sự hình thành giai cấp vô sản cách mạng:
Gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự xuất hiện của một giai

cấp mới trong xã hội. Giai cấp đó, theo nhận định của C.Mác và Ph.Ăngghen, buộc
phải chịu đựng mọi gánh nặng của xã hội nhưng lại không được hưởng một chút gì,
dù là nhỏ nhất, từ những phúc lợi xã hội. Nó bị chủ nghĩa tư bản gạt ra ngoài xã
hội, do đó, đối lập một cách kiên quyết với các giai cấp khác; đồng thời, là giai cấp
hợp thành từ đa số thành viên của xã hội và là giai cấp sản sinh ra ý thức tất yếu
của một cuộc cách mạng triệt để, ý thức cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp đó chính là
giai cấp vô sản - con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp. Các ông viết: “Trong khi
giai cấp tư sản của mỗi dân tộc còn duy trì những lợi ích dân tộc riêng biệt thì công
nghiệp lớn lại tạo ra một giai cấp cùng có những lợi ích như nhau trong tất cả các
dân tộc; một giai cấp không còn tính riêng biệt dân tộc nữa, một giai cấp thật sự
đoạn tuyệt với toàn bộ thế giới cũ và đồng thời đối lập với thế giới cũ. Công nghiệp
lớn làm cho người công nhân không những không chịu đựng nổi mối quan hệ của
họ với nhà tư bản, mà còn không chịu đựng nổi cả bản thân lao động nữa”. Như
vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất, của đại công nghiệp trong chủ nghĩa tư
bản, một mặt, thúc đẩy nền sản xuất xã hội và mặt khác, tạo nên giai cấp vô sản giai cấp cách mạng nhất của xã hội. Công nghiệp lớn có thể không phát triển đồng
đều ngay trong một nước, song theo quan điểm của các ông, điều ấy “không ngăn
cản phong trào có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản”, vì trong cuộc đấu tranh
cách mạng, những người vô sản do công nghiệp lớn sản sinh ra sẽ “đứng đầu phong
trào đó và lôi cuốn tất cả khối đông đảo quần chúng theo mình”. Với ý nghĩa như
vậy, tiền đề vật chất thứ hai của cách mạng vô sản cũng trở thành một hiện thực
không thể phủ nhận.
2. Khác nhau cơ bản của cách mạng vô sản và các cuộc cách mạng trước đó
15



Lịch sử cho thấy, tất cả các cuộc cách mạng trước kia không làm thay đổi chế
độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, mà chỉ là sự thay thế hình thức của chế
độ chiếm hữu tư nhân, thay thế hình thức người bóc lột người. Trái lại, cách mạng
vô sản là cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo, mục tiêu của nó là nhằm
lật đổ toàn bộ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; giải phóng giai cấp công nhân và
nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, xoá bỏ tình trạng tha hoá của lao
động, biến lao động - vốn là một phương thức tồn tại của con người - thành lao
động tự giác. Do vậy, điểm khác biệt căn bản giữa chúng, theo C.Mác và
Ph.Ăngghen, là ở chỗ, nếu trong hết thảy các cuộc cách mạng trước đây, tính chất
hoạt động bao giờ cũng vẫn nguyên như cũ, - và bao giờ vấn đề cũng vẫn chỉ là
phân phối hoạt động ấy một cách khác, chỉ là một sự phân phối lao động cho người
khác thì trái lại, cách mạng cộng sản chủ nghĩa “nhằm chống lại tính chất hoạt động
trước đây, nó xoá bỏ lao động và thủ tiêu sự thống trị của mọi giai cấp cùng với bản
thân các giai cấp” và “ở chỗ nó đảo lộn cơ sở của mọi quan hệ sản xuất và giao tiếp
trước kia...”.
Với những đặc trưng căn bản đó và trong quan hệ so sánh với các cuộc cách
mạng khác mà loài người đã biết đến trước đây, cách mạng vô sản trở thành cuộc
cách mạng triệt để, toàn diện và sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại. Trong cuộc
cách mạng ấy, giai cấp vô sản “trước hết phải chiếm lấy chính quyền để đến lượt
mình, có thể biểu hiện lợi ích của bản thân mình như là lợi ích phổ biến”; đồng thời
chứng tỏ bằng thực tiễn cái “khả năng đạt tới sự tự mình hoạt động đầy đủ, không
hạn chế, đó là sự chiếm hữu tổng thể những lực lượng sản xuất và do đó, phát triển
tổng thể các năng lực”.
3. Tư tưởng của Lênin
Được soi sáng bằng học thuyết khoa học do C.Mác, Ph.Ăngghen xây dựng nên
V.I.Lênin đã giải quyết được những vấn đề của cách mạng vô sản trong thời đại chủ
nghĩa đế quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đối với Lênin, tiếp cận và
giải quyết vấn đề dân tộc phải đứng vững trên lập trường cách mạng của giai cấp
16



công nhân. Trong tác phẩm Quyền dân tộc tự quyết viết năm 1914, Lênin đã nêu rõ
nội dung cương lĩnh dân tộc của Đảng: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân
tộc được quyền tự quyết; liên hiệp giai cấp công nhân tất cả các dân tộc lại; đó là
cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới và kinh nghiệm
nước Nga dạy cho công nhân”.
Khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân
tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin cho rằng cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản chính quốc sẽ không giành được thắng lợi, nếu nó không liên
minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Từ đó, Người cùng với Quốc tế
cộng sản bổ sung khẩu hiệu nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản thành: “Vô
sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
“Chủ nghĩa xã hội có mục đích không những xóa bỏ tình trạng nhân loại bị chia
thành những quốc gia nhỏ, xóa bỏ mọi trạng thái biệt lập giữa các dân tộc, không
những làm cho các dân tộc gần gũi nhau, mà cũng còn nhằm thực hiện việc hợp
nhất các dân tộc lại”. Chính vì vậy, CNXH nhất thiết phải bảo đảm quyền bình
đẳng giữa các dân tộc trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, về lịch sử ra đời sớm hay muộn, trình
độ phát triển cao hay thấp giữa các dân tộc. Đối lập với các chế độ áp bức bóc lột
người thường phân biệt, kỳ thị và chia rẽ các dân tộc, CNXH gắn việc xây dựng
tình đoàn kết các dân tộc, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển, từng bước rút
ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc hiện nay. Đồng
thời, phải đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan, phản
động, cần phải phân biệt chủ nghĩa dân tộc của dân tộc đi áp bức và chủ nghĩa dân
tộc của một dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa dân tộc của một dân tộc lớn với chủ
nghĩa dân tộc nhỏ.
Trong các bài viết của mình, Lênin đã nhiều lần khẳng định rằng, phải đem
cuộc đấu tranh cách mạng vì chủ nghĩa xã hội gắn liền với một cương lĩnh cách
mạng về vấn đề dân tộc. Rằng phong trào giải phóng dân tộc sẽ chuyển thành
17



phong trào thủ tiêu chủ nghĩa đế quốc và tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội. Từ
đó, Lênin yêu cầu các đảng cộng sản phải kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện
của chủ nghĩa dân tộc tư sản và chủ nghĩa sô-vanh, giành thắng lợi cho chủ nghĩa
quốc tế vô sản và chủ nghĩa xã hội.
II. Quan điểm của quốc tế cộng sản
Mác-Ăngghen chưa có điều kiện bàn nhiều về cách mạng giải phóng dân tộc,
các ông mới tập trung bàn về thắng lợi của cách mạng vô sản. Theo Mác-Ăngghen
cách mạng vô sản ở chính quốc là cần thiết và phải thực hiện trước. Học thuyết
Mác đã cung cấp quan điểm, phương pháp khoa học để nhận thức vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Tuy nhiên trong học
thuyết Mác, vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc mới được xem dưới góc độ cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản. Sở dĩ như vậy vì vấn đề dân tộc
đặt ra trong thời kỳ đó, đặc biệt là ở châu Âu là vấn đề dân tộc tư sản, nó được ra
đời và củng cố bởi chủ nghĩa tư bản. Chính vì thế trong học thuyết của Mác vấn đề
đấu tranh giai cấp được đặt lên hàng đầu, coi giải phóng giai cấp là điều kiện để
giải phóng dân tộc, các vấn đề dân tộc được xem xét như những hệ quả của vấn đề
giai cấp và giải quyết chúng trong sự phụ thuộc vào cuộc đấu tranh giai cấp của
giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản. Còn theo Lênin, cách mạng thuộc địa phụ
thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc. Trong học thuyết cách mạng của Lênin,
giải phóng dân tộc vẫn được xem như là hệ quả của giải phóng giai cấp.
Trong phong trào quốc tế cộng sản, đã từng tồn tại quan điểm xem sự thắng lợi
của Cách mạng ở thuộc địa, phải phụ thuộc vào sự thắng lợi của cách mạng vô sản
ở chính quốc. Năm 1919, Quốc tế III ra đời đã chú ý tới cách mạng giải phóng dân
tộc, nhưng còn đánh giá thấp vai trò của nó và cho rằng thắng lợi của cách mạng
thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Ngay Tuyên
ngôn thành lập Quốc tế III có viết: “Công nhân và nông dân không những ở An
Nam, Angiêri, Bengan mà cả ở Ba Tư hay Ácmênia chỉ có thể giành được độc lập
khi mà công nhân ở các nước Anh và Pháp lật đổ được Lôiit Gioocgiơ và

Clêmăngxô, giành chính quyền nhà nước vào tay mình”. Cho đến tháng 9-1928,
Đại hội VI của Quốc tế III vẫn cho rằng: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc
giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản
tiên tiến”. Tuy nhiên do thiếu cái nhìn thực tế và lối tư duy đổi mới, chính những
quan điểm này đã làm giảm tính sáng tạo, chủ động ở thuộc địa.
III. Quan điểm của Hồ Chí Minh
1. Nội dung quan điểm
18


- Hồ Chí Minh đề cao vai trò giải phóng dân tộc ở thuộc địa
Theo HCM, Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở
chính quốc có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đây là mối quan hệ bình đẳng,
không phải quan hệ lệ thuộc hoặc chính phụ. Bác khẳng định: “Cách mạng thuộc
địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể
giành thắng lợi trước” và cách mạng thuộc địa “trong khi thủ tiêu một trong những
điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ
những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, cách mạng
thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng
cách mạng to lớn. Theo Hồ Chí Minh, phải “làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước
tới nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một
Liên minh Phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái
cánh của cách mạng vô sản”. Tại phiên họp thứ 22 Đại hội V Quốc tế Cộng sản ( 1
-7 -1920 ), Nguyễn Ái Quốc phê phán các đảng cộng sản ở Pháp, Anh, Hà Lan, Bỉ
và các đảng cộng sản ở các nước có thuộc địa chưa thi hành chính sách thật tích
cực trong vấn đề thuộc địa, trong khi tư sản các nước đó đã làm tất cả để kìm giữ
tất cả các dân tộc bị chúng nô dịch trong vòng áp bức.
Hồ Chí Minh trên góc độ của người thuộc địa, góc độ của các dân tộc bị áp bức

đã phê phán một cách có căn cứ và hết sức sâu sắc chủ nghĩa đế quốc và đã chỉ ra
rằng sức sống của chủ nghĩa đế quốc một phần quan trọng nằm ở thuộc địa. Mặt
khác, so với những bậc tiền bối đi trước, Người có điều kiện để đi nhiều nơi, từ
Châu Á sang Châu Âu, tới Châu Phi nên người có điều kiện tìm hiểu, tiếp cận cuộc
sống ở những mảnh đất đó chứ không phải chỉ gói gọn trong mỗi Châu Âu và một
phần Châu Á (nước Nga). Vận dụng quan điểm của Lênin về mối quan hệ giữa
cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng ở thuộc địa, vào tháng 61924, Nguyễn Ái Quốc cho rằng: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc
biệt là vận mệnh giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận
mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa..., nọc độc và sức sống của con rắn độc
tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các nước thuộc địa”. Vì vậy, nếu khinh thường
cách mạng ở thuộcđịa tức là “muốn đánh chết rắn đằng đuôi”.
Đây chính là một quan điểm sáng tạo của Bác so với những bậc tiền bối đi
trước. Với lối tư duy sáng tạo, vận dụng tình hình thực tế của các mạng Việt Nam
với cách mạng vô sản trên thế giới, Hồ Chí Minh đã có những nhận định đúng đắn,
đầy khôn ngoan về vai trò và tầm quan trọng của việc giải phóng dân tộc tại các
19


nước thuộc địa. Theo quan điểm này của Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chủ trương thay
đổi chiến lược, kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ
chống đế quốc, giành độc lập dân tộc lên hàng đầu. Chính nhờ quan điểm đổi mới
này đã tạo tiền đề cho cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi.
- Hồ Chí Minh đề cao nỗ lực tự giải phóng dân tộc
Điều lệ của hội Liên hiệp lao động quốc tế, Mác viết: “Sự nghiệp giải phóng của
giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”. Vào năm
1925, khi nói với các dân tộc thuộc địa, một lần nữa Nguyễn Ái Quốc khẳng định:
“Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc
giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
Trong khi yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản quan tâm đến cuộc
cách mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân

thuộc địa chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực tự giải phóng. Trong kháng
chiến chống thực dân Pháp, Người nói: “Kháng chiến trường kỳ gian khổ, đồng
thời lại phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức mình...sự giúp đỡ của các nước bạn là
quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một
dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không
xứng đáng được độc lập”. Chỉ có thể bằng chủ động nỗ lực vượt bậc của các dân
tộc thuộc địa thì cách mạng giải phóng dân tộc mới giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản chính quốc được. Vì vậy, năm 1945 Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân
Việt Nam “phải đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.
Ở đây, Nguyễn Ái Quốc muốn nhấn mạnh vai trò tích cực, chủ động của các dân
tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi chủ nghĩa thực dân. Độc
lập phải được tự tay chúng ta giành lấy mới bền vững, trường tồn. Đây là một quan
điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn giúp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
không ỷ lại mà luôn phát huy tính chủ động, tự lực, tự cường nhờ đó mà cách mạng
giải phóng dân tộc giành thắng lợi vĩ đại.
2. So sánh quan điểm Hồ Chí Minh và quốc tế cộng sản
Thứ nhất: Trong khi yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản quan tâm
đến cách mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân
dân thuộc địa chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực tự giải phóng.
Vận dụng công thức của C.Mác: "Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là
sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân"[1], Người đi đến luận điểm: "Công cuộc

20


giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa - TG) chỉ có thể thực hiện được bằng sự
nỗ lực của bản thân anh em"
Thứ hai : Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem
thẳng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở
chính quốc. Quan điểm này vô hình trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của

các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Theo Hồ Chí Minh, Giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lần
nhau trong cuộc đấu tranh Chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối
quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính - phụ.
Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh
dân tộc. Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc từ thuộc địa có
thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
3. Cơ sở đưa ra quan điểm.
Hồ Chí Minh đã nêu ra nhận định, lí giải cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa có sức bật thuận lợi vì:
- Chính sách khai thác, bóc lột thuộc địa hết sức tàn bạo và dã man của chủ nghĩa
đế quốc ở nhiều nơi đã đẩy nhân dân thuộc địa vào khó khăn, túng quẫn. Điều
đó đã làm cho lòng căm thù, tức giận chủ nghĩa đế quốc tư bản trong nhân dân
thuộc địa vô cùng sâu sắc.
- Tinh thần yêu nước chân chính của các dân tộc là một sức mạnh to lớn, một vũ
khí tiềm ẩn của cách mạng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng nhân
dân thuộc địa đang tiềm ẩn một sức mạnh to lớn mà cách mạng giải phóng dân
tộc là sự nghiệp thiết thực của họ, họ phải đứng lên tự giải phóng mà không thể
dựa vào sự cầu viện ở bất cứ ai. Sức mạnh đó nếu được chủ nghĩa Mac Lenin
giác ngộ và soi đường sẽ tạo thành một sức mạnh to lớn thật sự, có thể đánh đổ
được chủ nghĩa tư bản.
- Hồ Chí Minh nhận thấy, thuộc địa là một khâu yếu nhất trong hệ thống của chủ
nghĩa đế quốc, còn chủ nghĩa yêu nước ở thời hiện đại đã thực sự trở thành động
lực giải phóng dân tộc. Theo Người, tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản, đế
quốc đều lấy ở các xứ thuộc địa. Người đã lấy hình ảnh con đỉa hai vòi để minh
21


họa cho chủ nghĩa tư bản lúc bấy giờ với hai đầu hút máu ở chính quốc và thuộc

địa. Khi đánh vào đầu ở chính quốc, nó sẽ tích cực hút máu ở thuộc địa làm cho
sức sống của thuộc địa cạn kiệt, sức đấu tranh không còn, con đỉa bị đánh nhanh
chóng hồi phục và quay lại chống cách mạng chính quốc, điều đó không những
gây tổn thất cho phong trào chống cách mạng chính quốc mà còn khiến nó quen
mùi, hút mạnh hơn ở thuộc địa. Một mặt tấn công ở chính quốc, đồng thời cũng
tấn công ở thuộc địa, khi bị đau ở cả hai đầu, “con đỉa” ấy sẽ có xu hướng quay
về giữ sân nhà của mình, tạo đà cho cuộc cách mạng thuộc địa giành thắng lợi.
Sau khi mất nguồn sinh lực của mình, sức mạnh của chủ nghĩa tư bản dần dần bị
suy giảm, lúc ấy cách mạng ở chính quốc sẽ đặt dấu chấm hết cho chúng.
4. Giá trị quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh
- Làm phong phú học thuyết Mác Lênin về cách mạng thuộc địa
-

Về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc

Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin xác định con đường cứu nước theo khuynh
hướng chính trị vô sản, nhưng con đường cách mạng giải phóng dân tộc là do Hồ
Chí Minh hoạch định, chứ không phải đã tồn tại từ trước.
Hồ Chí Minh không tự khuôn mình trong những nguyên lý có sẵn không rập
khuôn máy móc lý luận đấu tranh giai cấp vào điều kiện lịch sử ở thuộc địa, mà có
sự kết hợp hài hòa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, giải quyết vấn đề dân tộc
theo quan điểm giai cấp và giải quyết vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc gắn độc
lập dân tộc với phương hướng xã hội chủ nghĩa.
Sử dụng “phương pháp làm việc biện chứng”, Người đã phân tích thực tiễn xã
hội thuộc địa, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể ở
thuộc địa xây dựng nên lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và truyền bá vào Việt
Nam.
Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh bao gồm một hệ thống
những quan điểm sáng tạo, độc đáo. Lý luận đó phải trải qua những thử thách hết
sức gay gắt. Trong những năm 1923-1924, 1927-1928 và 1934- 1938, Quốc tế

Cộng sản không ủng hộ mà coi đó là những tư tưởng “dân tộc chủ nghĩa”. Những
năm 1930-1935 tư tưởng đó bị phê phán trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng và
22


trên báo chí ở nước ngoài. Song, thực tiễn đã chứng minh lý luận cách mạng giải
phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là đúng đắn.
-

Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc

Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh hết sức
độc đáo và sáng tạo thấm nhuần tính nhân văn.
Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa nhất là so sánh lực lượng quá
chênh lệch về kinh tế và quân sự giữa các dân tộc bị áp bức và chủ nghĩa đế quốc.
Hồ Chí Minh đã xây dựng nên lý luận về phương pháp khởi nghĩa toàn dân và
chiến tranh nhân dân.
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách
mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ sáng tạo, bao gồm cả đường
lối chiến lược, sách lược và phướng pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa. Đó là một di sản tư tưởng quân sự vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho
Đảng và nhân dân ta.
-

Làm chuyển hóa phong trào yêu nước, tạo điều kiện cho sự ra đời Đảng Cộng
sản Việt Nam
+ Làm chuyển hóa phong trào yêu nước Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là ánh sáng soi đường

cho lớp thanh niên yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX đang đi tìm chân lý, là ngọn

cờ hướng đạo phong trào cách mạng Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng đó được những người Việt Nam
yêu nước tiếp thu như một ánh sáng chân lý của chính mình, “giống như người
đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”.
Tư tưởng đó thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam, góp phần quyết định trong việc xác lập con đường cứu nước mới, làm cho
phong trào yêu nước Việt Nam chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản.

23


Hồ Chí Minh đã tập hợp những thanh niên yêu nước Việt Xam rồi đem chủ
nghĩa Mác – Lênin và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc truyền bá cho họ dẫn
dắt họ đi theo con đường mà chính Người đã trải qua: từ chủ nghĩa yêu nước đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự chuyển hóa tiêu biểu nhất là Tân Việt cách mạng
đảng, từ lập trường tư sản đã chuyển sang lập trường vô sản.
Đó là sự chuyển hóa mang tính cách mạng, đưa sự nghiệp gỉai phóng và phát
triển dân tộc tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Xam
Trước hết, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng giải phóng dân
tộc của Hồ Chí Minh là một vũ khí tư tưởng mới của phong trào yêu nước Việt
Nam, làm cho phong trào yêu nước chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản và
cũng trở thành một trong những điều kiện dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Hai là, lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và chủ nghĩa Mác - Lênin được
truyền bá vào giai cấp công nhân, soi đường chỉ lối cho giai cấp công nhân đấu
tranh, làm cho giai cấp công nhân ngày càng giác ngộ, phong trào công nhân Việt
Nam phát triển mạnh theo phương hướng từ tự phát đến tự giác và trở thành một
điều kiện dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ba là, lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh, nhất là những tư

tưởng hình thành trong những năm 20 của thế kỷ XX là sự chuẩn bị tích cực về mặt
tư tưởng chính trị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
-

Đặt cơ sở để xây dựng nên đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng
+ Là cơ sở hình thành Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là một hệ thống quan

điểm toàn diện và sâu sắc, phản ánh yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng
nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân, phù hợp với xu thế phát triển

24


×