Tải bản đầy đủ (.docx) (285 trang)

Đảng lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp chống mỹ, cứu nước (1954 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.88 KB, 285 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Dân ta có lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta.
Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” [135; tr. 171 ]. Thật vậy,
trong trường kỳ lịch sử của dân tộc, mỗi lần đất nước lâm nguy trước nạn ngoại
xâm là một lần nổi bật lên sự đoàn kết vĩ đại của nhân dân ta. Sự đoàn kết đó là
nguồn gốc của sức mạnh vô địch, giúp cho nhân dân Việt Nam chiến thắng được
mọi kẻ thù hung ác, đồng thời nó cũng là những phẩm chất tốt đẹp đã tạo nên cốt
cách của con người Việt Nam. Từ năm 1930 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam tiếp tục được kế
thừa và phát huy tác dụng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ,
giành độc lập dân tộc và trong công cuộc xây dựng CNXH, bảo vệ Tổ quốc vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Có được những
thành tựu lớn lao đó là do Đảng ta luôn coi tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc là một vấn đề chiến lược - một trong những nhân tố quyết định
cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, của kinh tế thế giới, của toàn cầu hoá… trên thế giới cũng đang diễn ra
những biến động vô cùng phức tạp. Để hội nhập và phát triển, bên cạnh những cơ
hội, đất nước ta còn gặp vô vàn những thách thức, đặc biệt sau sự kiện tan rã của
Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, những biến động chính trị ở các khu vực
khác nhau trên thế giới. Hiện nay, vấn đề tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc vững mạnh trở thành một vấn đề nóng bỏng. Chính vì vậy, Đảng
luôn nêu cao sự cần thiết và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tổng kết thực tiễn,
rút ra những bài học kinh nghiệm, trong đó có bài học về xây dựng và củng cố
khối đại đoàn kết dân tộc, nhằm ngăn chặn sự phá hoại từ nhiều phía của các thế
lực chống phá Việt Nam, phục vụ cho công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ
quốc. Với ý nghĩa đó, nên chúng tôi đã chọn đề tài cho luận án tiến sĩ Lịch sử,

1




chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của mình là: “Đảng lãnh đạo xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975)”.

2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Về đề tài này, mặc dù chưa có một công trình chuyên luận, nhưng đã có
nhiều công trình nghiên cứu liên quan gián tiếp, hoặc trực tiếp, được công bố với
nhiều góc độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau. Có thể chia thành những nhóm tài
liệu như sau:
Các công trình nghiên cứu trong nước
Sách chuyên khảo, tham khảo
học

Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; thắng lợi và bài

(Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996); Chiến tranh cách mạng Việt Nam 19451975 - Thắng lợi và bài học (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000); Cuộc chiến
tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ ở Việt Nam (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử
quân sự, Hà Nội, 1991); Miền Nam giữ vững thành đồng của Trần Văn Giàu (gồm
5 tập, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội ấn hành trong các năm 1964, 1966, 1970,
1978); Cách mạng ruộng đất ở miền Nam Việt Nam của Lâm Quang Huyên (Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985); Mười tám năm chống Mỹ cứu nước thắng lợi
(Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1974); Sức mạnh Việt Nam (Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 1976) ; Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1997); Đại thắng mùa xuân 1975 - Nguyên nhân và bài học
(Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995); Việt Nam những chặng đường lịch sử
(1954-1975), (1975-2005) (Nxb Giáo dục, Thành phố Chí Minh, 2005); Lương
Viết Sang: Đảng lãnh đạo đấu tranh tại Hội nghị Paris về Việt Nam (1968-1973),
(Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005) …
Những công trình này đi sâu nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ,

cứu nước một cách tổng thể, tập trung vào những nội dung căn bản nhất của cuộc
kháng chiến (xây dựng hậu phương miền Bắc; diễn biến đấu tranh quân sự trên
chiến trường miền Nam; đấu tranh ngoại giao; nguyên nhân thắng lợi…). Vấn đề
xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc được nghiên cứu ở

2


chừng mực nhất định, tiếp cận dưới góc độ là một trong những nguyên nhân chủ
yếu cho thắng lợi của cuộc kháng chiến. Vấn đề tổ chức, vận động, tập hợp các lực
lượng khác nhau, xây dựng nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc vẫn là khoảng
trống trong mảng công trình này.
-

Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh do PGS. Phùng Hữu Phú chủ biên

(Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995); Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới của Học
Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004); Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất (Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996); Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam
dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh của PGS. Lê Mậu Hãn (Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2001)…
Các công trình này viết về tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh qua các giai đoạn cách
mạng. Các tác giả tập trung làm rõ khái niệm “đại đoàn kết toàn dân tộc”, “đại
đoàn kết dân tộc”, “đại đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết các dân tộc thiểu số”, “đoàn
kết các tôn giáo” theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời
kỳ mới, có bài “Đại đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Bác Hồ và sự thực hiện

của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, của tác giả Lê Văn Châu.
Tác giả bàn về tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh và làm rõ khái
niệm “đại đoàn kết toàn dân tộc” theo tư tưởng Hồ Chí Minh với nội dung cốt lõi:
“Đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam tức là trước hết đoàn kết đại đa số nhân dân
ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác”. Trong bài “Tư
tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc trong thời kỳ mới”, tác giả Nguyễn Khánh Bật cho rằng: “Hồ Chí
Minh nhiều lần sử dụng cụm từ “đại đoàn kết toàn dân tộc” hoặc “đoàn kết toàn
dân tộc”. Người nói về “đại đoàn kết”, “đại đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết toàn
dân”, “đoàn kết dân tộc”, “toàn dân tộc ta đoàn kết”, đặt chúng trong mối quan hệ
với nhau”; “trong Hồ Chí Minh toàn tập không có từ đoàn kết toàn dân tộc, nhưng

3


Người nhiều lần sử dụng từ “toàn dân tộc” với ý nghĩa đoàn kết dân tộc”. Nguyễn
Khánh Bật kết luận: Theo Hồ Chí Minh, “đoàn kết dân tộc” có ý nghĩa tương tự
như đoàn kết toàn dân”. Một cách khái quát hơn, tác giả Cao Duy Hạ trong bài
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
của nước ta” cho rằng, “đại đoàn kết toàn dân tộc” theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
trước hết, phải đoàn kết nhất trí trong Đảng về đường lối, chủ trương, chính sách
và tổ chức thực hiện; trên cơ sở đó đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân, đoàn
kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ, đoàn kết các dân tộc anh em, đoàn
kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo. Trong bài “Xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với mở rộng hội nhập quốc tế dưới ánh sáng
tư tưởng Hồ Chí Minh”, tác giả Triệu Quang Tiến và Nguyễn Thắng Lợi khẳng
định: Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh bao gồm nhiều cấp độ, đoàn kết trong
Đảng, đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế mà nội dung chủ yếu là đoàn kết
dân tộc, là lấy dân làm gốc, lấy lợi ích của toàn dân tộc làm trọng; đại đoàn kết dân
tộc là sức mạnh nội sinh làm cơ sở để phát huy sức mạnh đoàn kết quốc tế. Làm rõ

những nội dung cơ bản trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là các tác giả
Nông Quốc Chấn (“Đại đoàn kết dân tộc – một vấn đề lớn trong tư tưởng Hồ Chí
Minh”), Nguyễn Viết Vượng (“Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là
một nhân tố cơ bản đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt Nam”). Các tác giả
đồng nhất quan điểm: Thứ nhất, đại đoàn kết dân tộc là đoàn kết mọi người, mọi
dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam vì lợi ích chung của dân tộc; đoàn
kết trên cơ sở không phân biệt quá khứ và ý thức hệ, cởi mở, thương yêu đùm bọc,
tin cậy lẫn nhau; thứ hai, hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc là MTDTTN; thứ
ba, để khối đại đoàn kết dân tộc không ngừng củng cố, mở rộng, thì Đảng Cộng
sản Việt Nam phải giữ vững vai trò lãnh đạo. Cuốn Sức mạnh dân tộc của cách
mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh của PGS. Lê Mậu Hãn (Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001), tập hợp một số chuyên luận khoa học của tác
giả đã được công bố trên các sách, báo, trong đó có bài viết “Bí quyết thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” khẳng định bí quyết thành công của
cuộc kháng chiến thần thánh mà dân tộc tiến hành là đã tập hợp được mọi lực

4


lượng, xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc vững mạnh. Do chế định bởi phạm
vi và đối tượng nghiên cứu, nên về đường lối đại đoàn kết dân tộc của Đảng, cũng
như quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong các công trình trên vẫn là vấn đề
còn để ngỏ.
-

Sức mạnh chiến thắng của cuôc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985); Lược sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam
(Nxb Sự thật Hà Nội, 1991); Lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam (Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, 2007, gồm 3 tập)…
Đây là các công trình nghiên cứu về MTDTTN, trình bày lịch sử ra đời và hoạt
động của MTDTTN Việt Nam với nhiều hình thức và tên gọi qua từng giai đoạn cách
mạng. Ở những mức độ khác nhau, các tác giả đã làm rõ vị trí, vai trò và hoạt động
của MTDTTN trong tiến trình các mạng Việt Nam, trong đó, chú trọng làm sáng tỏ
vấn đề xây dựng MTDTTN, phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Tiêu biểu là cuốn Sức mạnh chiến thắng của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985), tập hợp bài
viết của nhiều tác giả, trong đó có những bài về MTDTTN, làm rõ quá trình ra đời,
những đóng góp cơ bản của Mặt trận cho thắng lợi cuối cùng của dân tộc; trên cơ sở
đó rút ra những bài học kinh nghiệm về xây dựng và tổ chức hoạt động của Mặt trận
với tư cách là hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc. Cuốn sách Chung một bóng cờ
của tập thể tác giả, do Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh chỉ đạo biên soạn, đã phản ánh
khá hệ thống đường lối đoàn kết dân tộc của Đảng, quá trình thực hiện đường lối,
trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của MTDTGPMNVN đối với sự nghiệp đấu tranh
thống nhất nước nhà. Trong công trình này, nổi bật là bài “Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam – một giai đoạn hợp thành lịch sử dân tộc Việt Nam” của
luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Khi khái quát sự ra đời, hoạt động của MTDTGPMNVN,
tác giả cũng đồng thời nhấn mạnh vai trò của Mặt trận trong quá trình tập hợp lực
lượng trong nước và quốc tế, nhằm tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, tạo ra sức
mạnh tổng hợp, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, đưa sự nghiệp chống Mỹ,
cứu nước đến thành công. Tác giả

5


khẳng định: “Ngọn cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam được chiến sĩ và
nhân dân miền Nam trân trọng như biểu tượng của chính ngọn cờ Tổ quốc Việt
Nam duy nhất, dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, không thể
nào khác được”. Cuốn Mặt trận dân tộc giải phóng,Chính phủ Cách mạng lâm

thời tại Hội nghị Paris về Việt Nam của tập thể tác giả (Nguyễn Thị Bình chủ
biên), phác họa lại bức tranh sống động về cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị
Paris,

trong

đó

khẳng

định

vai

trò

to

lớn

của

MTDTGPMNVN,

CPCMLTCHMNVN tại bàn đàm phán, trong đấu tranh báo chí và trong quá trình
tranh thủ dư luận thế giới ủng hộ Việt Nam đánh Mỹ. Cũng cần nhận thấy rằng, ở
các công trình nêu trên, những thành công cơ bản trong hoạt động của các loại
hình Mặt trận qua từng thời kỳ lịch sử được các tác giả thể hiện khá rõ nét, còn
những hạn chế trong quá trình xây dựng MTDTTN, các tác giả còn né tránh, hầu
như không đề cập tới, hoặc có đề cập, thì còn r ất mờ nhạt.

-

Lực lượng chính trị thứ ba và các thành phần chống đối Thiệu , (Việt Nam

Thông tấn xã phát hành 1975); Phong trào đô thị và lực lượng chính trị thứ ba với
đàm phán Paris, TS. Ngô Bá Thành (kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia “Ngoại
giao Việt Nam với cuộc đàm phán Paris”, tháng 1/2003)…
Những công trình nêu trên nghiên cứu về Lực lượng thứ ba trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Với bài “Phong trào đô thị và Lực lượng chính
trị thứ ba với đàm phán Paris”, Luật sư Ngô Bá thành đã phác họa lại diễn biến
thực tế của cuộc đấu tranh “chống Mỹ, cứu nước trong lòng địch”, trong đó, lực
lượng thứ ba đã có những đóng góp quan trọng trên mặt trận chính trị ở các đô thị
miền Nam và tại Hội nghị Paris. Tuy nhiên, dù Lực lượng thứ ba có một vai trò
không nhỏ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, song cho đến nay, quả
thật, những công trình nghiên cứu chuyên sâu về đề tài này còn khá ít. Đây vẫn là
một khoảng bỏ ngỏ trong nghiên cứu về xây dựng, tập hợp lực lượng của khối đại
đoàn kết dân tộc.
Luận án và các đề tài nghiên cứu liên quan
Nguyễn Xuân Tú: Đảng chỉ đạo giành thắng lợi từng bước trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thời kỳ 1965-1975 (Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học

6


viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001); Khuất Thị Hoa Quá trình thực
hiện chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1945-1954), (Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 2001); Bùi thị Thu Hà: Đảng bộ An Giang vận động tín đồ Hòa Hảo
tham gia kháng chiến chống Mỹ, nước nước (1954-1975), (Luận văn thạc sĩ khoa học
Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997)…


Những công trình được liệt kê chủ yếu nghiên cứu về sự lãnh đạo Đảng ở
những phương diện khác nhau trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Triển khai
các nhiệm vụ nghiên cứu chính yếu của mình, các tác giả, tuy chưa đi sâu, song đã
đề cập đến chủ trương và quá trình thực hiện xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
của Đảng ở những góc độ khác nhau. Các tác giả đều khẳng định rằng, các tổ chức
Mặt trận với tư cách là hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc, đã đóng góp đáng
kể trong quá trình tập hợp lực lượng, thêm bạn, bớt thù, làm tăng thêm sức mạnh
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Bài báo và tạp chí
-

“Chữ “Đồng” trong quan điểm Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân” của

Phạm Ngọc Quang (Tạp chí Cộng sản số tháng 7/2001); “Tìm hiểu về đoàn kết Lương
giáo và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng trong tư tưởng Hồ Chí Minh” của Vũ Văn Hậu
(Tạp chí Dân vận số tháng 7/2001); “Theo ngọn cờ đoàn kết của Hồ Chí Minh” của Mạch
Quang Thắng (Nghiên cứu Lý luận số 7/2000); “Tấm lòng khoan dung độ lượng của Bác
Hồ đối với những người lạc lối, lầm đường” của Song Thành (Tạp chí Lịch sử Đảng số
7/2001); “Đi tìm nét tương đồng, điểm quy tụ của toàn dân tộc trong tư tưởng đại đoàn
kết Hồ Chí Minh” của Bùi Đình Phong (Tạp chí Dân vận số 5/2002); “Nguyên tắc xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của Lê Đại Nghĩa

(Tạp chí Dân vận, số 3/2006)…
Những bài viết nêu trên chủ yếu làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc, nguyên tắc, sách lược đoàn kết tôn giáo, đoàn kết mọi lực lượng dân
tộc, xây dựng, mở rộng các loại hình Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ
được cả dân tộc. Trong phần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc, các tác giả cũng khái quát những thành tựu của


7


quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. Đường lối đoàn kết dân tộc của Đảng, quá trình thực hiện đường lối được
khai thác một cách tổng quát, chưa nghiên cứu sâu và chi tiết.
-

“Từ chương trình mười điểm đến Cương lĩnh chính trị của Mặt trận dân

tộc giải phóng miền Nam” của tác giả Bùi Đình Thanh (Tạp chí Nghiên cứu Lịch
sử tháng 11/1968, số 116); “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Mặt trận dân tộc
thống nhất, xây dựng khối đoàn kết toàn dân – những kinh nghiệm lịch sử” của tác
giả Trần Văn Đăng (Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 2/2002); “Hồ Chí Minh hoàn
thiện về đường lối chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Mặt trận dân tộc thống
nhất ở Việt Nam” của PGS. Lê Mậu Hãn (Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, số 2/1992);
“Xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của Trần Hậu,
(Tạp chí Lịch sử Đảng số tháng 7/2001); “Hồ Chí Minh với vấn đề thực hiện đại
đoàn kết dân tộc trong các tổ chức Mặt trận” của Vũ Văn Châu (Nghiên cứu Lý
luận, số 5/1999); “Đại đoàn kết dân tộc - cuội nguồn sức mạnh của chúng ta” của
Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt, (Báo Tuổi trẻ ngày 31/5/2005)…
Trong nhóm tác phẩm này, các tác giả trình bày chủ trương, chính sách đoàn
kết của Đảng trong MTDTTN qua các giai đoạn lịch sử; trên cơ sở đó, phản ánh thực
tiễn sinh động của quá trình thực hiện chiến lược đại đoàn kết của Đảng; tuy nhiên, về
cơ bản, các tác giả chỉ khai thác những nội dung đó trên phạm vi riêng biệt từng miền
Nam, Bắc. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam nói chung còn khá sơ sài.

Các công trình của các nhà nghiên cứu nước ngoài
Đây là nguồn tài liệu hoặc bằng tiếng nước ngoài, hoặc đã được dịch ra
tiếng Việt, bao gồm những công trình nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu trên

thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Nga... Có thể chỉ ra một số tác phẩm tiêu biểu:
Cuộc chiến tranh dài ngày nhất nước Mỹ của G.C Herring (Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1998); Việt Nam, The Ten Thousand Day War (Việt Nam, cuộc
chiến tranh mười ngàn ngày) của Micheal Maclear, Nxb, Sự thật Hà Nội, 1990;
Shingo Shibata: Những bài học của chiến tranh Việt Nam (Viện thông tin khoa học
xã hội dịch và phát hành, Hà Nội, 1976); Lyndon Baines Johnson: Về cuộc chiến

8


tranh xâm lược miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc nước ta (Bản dịch
của Việt Nam Thông tấn xã phát hành 1972)...
Những công trình nghiên cứu trên chủ yếu là mô tả về cuộc chiến tranh của Mỹ

ở Việt Nam. Vấn đề đoàn kết dân tộc Việt Nam được đề cập như một nguyên nhân
thành công của Việt Nam, hoặc thất bại của phía Mỹ trong cuộc chiến tranh. Trong
cuốn Giải phẫu một cuộc chiến tranh của G.Côncô (Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội, 1991), tác giả nhấn mạnh rằng, sở dĩ nhân dân Việt Nam đã chiến đấu và
chiến thắng đế quốc Mỹ là bởi Đảng Cộng sản Việt Nam đã đoàn kết được toàn
dân tộc Việt Nam, đồng thời đoàn kết được đông đảo các lực lượng tiến bộ trên thế
giới đồng tình ủng hộ cho cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ. Sau 20 năm cuộc
chiến tranh Việt Nam kết thúc, R. Mc.Namara, Nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ
đã công bố hồi ký Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam
(Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995), phân tích 11 nguyên nhân cơ bản dẫn đến
thất bại của Mỹ ở Việt Nam và cho rằng, việc “đánh giá thấp sức mạnh của chủ
nghĩa dân tộc thúc đẩy một dân tộc đấu tranh và hy sinh cho lý tưởng và các giá trị
của nó” của phía Mỹ là một trong những nguyên nhân thất bại quan trọng.
Tổng quát lại, khi khảo cứu các công trình nêu trên, có thể rút ra những kết
luận sau:
Thứ nhất, thành quả của những công trình nghiên cứu trên đây, ở những

mức độ khác nhau đã soi rọi và là cơ sở, để tác giả luận án có thể đi sâu nghiên
cứu về vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1954-1975).
Thứ hai, trong những công trình nghiên cứu trên, chưa có một công trình
nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về vấn đề Đảng lãnh đạo xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thời kỳ
1954 - 1975.
Thứ ba, quá trình lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước cần phải tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, hệ
thống, dựa trên việc khai thác thêm những tư liệu mới.

9


3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ thống đường lối, chủ trương của
Đảng với quá trình xây dựng, củng cố, mở rộng và tổ chức mọi lực lượng trong
MTTQVN, MTDTGPMNVN…nhằm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tập hợp
rộng rãi lực lượng trong nước và quốc tế cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước; quá
trình chỉ đạo của Đảng trong việc thực thi, đường lối, chủ trương đó.
Phạm vi nghiên cứu
Những điều kiện lịch sử chủ quan, khách quan… đặt ra các yêu cầu nhiệm
vụ chính trị phải tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975); đường lối, chủ trương xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng và sự chỉ đạo của Đảng đối với quá trình
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.

4.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu
-

Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với quá trình xây

dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975)
Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu và nguồn tư liệu như trên, luận án có nhiệm vụ kế
thừa kết quả của những người đi trước, thu thập, xử lý tư liệu mới nhằm:
-

Hệ thống hoá, khái quát hoá những tư liệu đã có, bổ sung những tư liệu

mới, góp phần khôi phục một cách khách quan quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước qua
hai giai đoạn 1954 - 1965 ; 1965 – 1975.
-

Đi sâu phân tích đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng với quá trình

tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (1954 -1975).
-

Bước đầu đưa ra những đánh giá, nhận xét một cách khoa học về thành tựu, hạn


chế trong quá trình lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng, từ đó rút ra
những kinh nghiệm chủ yếu, phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc.

10


5.

Cơ sở lý luận, các nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận để thực hiện đề tài là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân, về dân tộc và giai cấp,
về tập hợp lực lượng, xây dựng khối đoàn kết dân tộc trong MTDTTN...
Các nguồn tài liệu
-

Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và Hồ Chí Minh về đại

đoàn kết dân tộc, về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, dân tộc và thời
đại là cơ sở lý luận của luận án.
-

Các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, thông tư, sắc lệnh…của Đảng; thư, điện,

bài phát biểu… của các lãnh đạo Đảng và nhà nước về đại đoàn kết dân tộc, về xây
dựng MTDTTN, hiện đang được lưu giữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia, Cục lưu
trữ - Văn phòng Trung ương Đảng… là những tài liệu gốc của luận án.
-


Các công trình nghiên cứu khoa học, các bài báo, sách có liên quan do các

cơ quan nghiên cứu uy tín đã công bố như Viện Lịch sử Đảng, Viện Lịch sử quân
sự, Viện Sử học… là nguồn tư liệu quan trọng.
-

Các tư liệu, sách báo về lịch sử Việt Nam, lịch sử MTDTTN, lịch sử quân

sự Việt Nam, lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lịch sử quan hệ quốc tế…
là nguồn tài liệu bổ trợ dùng để làm sáng tỏ các khía cạnh khác nhau của vấn đề
nghiên cứu.
-

Những công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu nước ngoài (chủ yếu

là đã được được dịch sang tiếng Việt) đã được khai thác, nhưng ở một mức độ nhất
định (do những khó khăn chủ quan và khách quan của tác giả).
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử, phương pháp
logic, lịch sử - logic. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác như phân tích,
tổng hợp, hệ thống…
6. Đóng góp của luận án
Trên cơ sở tập hợp, hệ thống hoá, bổ sung, xử lý nguồn tư liệu một cách
khoa học, luận án có những đóng góp sau:

11


-


Trình bày có hệ thống đường lối, chủ trương của Đảng về tập hợp lực lượng,

xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

-

Làm rõ quá trình ra đời, phát triển của đường lối đoàn kết và tổ chức mọi

lực lượng trong MTTQVN, MTDTGPMNVN và Liên minh các lực lượng dân tộc
dân chủ và hoà bình Việt Nam…
-

Nêu lên những đánh giá, nhận xét có cơ sở khoa học về thành tựu, hạn chế

và rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu về tập hợp lực lượng xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc.
-

Luận án có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu hoặc phục vụ công tác

giảng dạy cho những môn học có liên quan.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm ba
chương và 6 tiết:
Chương 1: Đảng lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc từ năm 1954
đến 1965.
Chương 2: Đảng lãnh đạo củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc từ
năm 1965 đến 1975.
Chương 3: Nhận xét chung và một số kinh nghiệm chủ yếu.


12


Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1965
1.1. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc củng cố, phát triển miền Bắc;
đấu tranh chống Mỹ và chính quyền tay sai ở miền Nam (1954 – 1960)
1.1.1. Khái quát quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng trước năm 1954
Cuối thế kỷ XIX, sau khi cơ bản kết thúc quá trình vũ trang xâm lược, thực
dân Pháp đã thực hiện chính sách thống trị và khai thác thuộc địa trên đất nước ta.
Hậu quả của chính sách thống trị đó làm cho Việt Nam có những chuyển biến sâu
sắc về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần
1

tuý đã biến thành xã hội thuộc địa . Trong lòng xã hộị đó tồn tại nhiều mâu thuẫn
đan xen nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Để giải quyết mâu thuẫn đó, các
phong trào đấu tranh theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diến ra liên tục, sôi
nổi nhưng đều thất bại. Trước bối cảnh khủng hoảng đường lối cứu nước, Nguyễn
Ái Quốc, một thanh niên yêu nước mang trong mình những giá trị văn hóa, tư
tưởng cốt lõi của ý chí độc lập và khát vọng tự do đã ra đi tìm đường cứu nước
(1911), đến với chủ nghĩa Mác - Lênin (1920) và truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin
vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam (2/1930).
Ngay khi Đảng ra đời, Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã đề ra đường lối chiến lược
cho cách mạng Việt Nam là đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập tự do cho dân tộc. Để
thực hiện thành công nhiệm vụ đó, Đảng chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc,
nhằm tập hợp đông đảo lực lượng để thực hiện thành công mục tiêu của Đảng đề ra. Vì

vậy, Cương lĩnh khẳng định: Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, Đảng phải đoàn
kết tập hợp cho được đại bộ phận giai cấp công nhân và đại đa số dân cày, dựa vững vào

1

Mặc dù thực dân Pháp còn duy trì một phần tính chất phong kiến, song khi đã thành thuộc địa thì tất cả các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và giai cấp ở Việt Nam đều đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội đó.

13


hạng dân cày nghèo. Bên cạnh việc xác định hai giai cấp công nhân và nông dân là lực
lượng nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng đã nêu rõ “phải hết sức liên lạc
với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt v.v. để kéo họ đi vào phe vô
sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa
rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ
phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ” [40; tr. 4]
Trong khi thực hiện chủ trương đoàn kết dân tộc, Cương lĩnh cũng nhấn mạnh: “Phải
đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế
giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp” [40; tr. 4], nhằm đánh đổ thực dân Pháp xâm lược.
Như vậy, ngay từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng đã có chủ trương đoàn kết
các giai cấp, các tổ chức chính trị, các cá nhân yêu nước, nhằm phát huy sức mạnh
truyền thống yêu nước, huy động mọi nhân tố dân tộc, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù
chung là đế quốc và phong kiến, giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Chủ trương đại đoàn kết dân tộc của Đảng đã làm dấy lên lên một cao trào cách
mạng chưa từng có mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Cao trào cách mạng diễn ra
trên quy mô lớn, thu hút sự tham gia của nhiều tầng lớp nhân dân, các dân tộc đa số,
thiểu số. Tuy nhiên khi phong trào cách mạng lên tới đỉnh cao, xuất hiện khuynh
hướng “tả”, nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, “do đó thiếu một tổ chức thật quảng đại
quần chúng, hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên

hay ở vào tầng lớp giữa cũng vậy, và cho tới cả những người địa chủ, có đầu óc oán
ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia, để đưa tất cả những tầng lớp và cá
nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp” [40; tr. 228]

Ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị thành lập
1

Hội Phản đế đồng minh , nêu cao tư tưởng chiến lược cách mạng đúng đắn trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên, coi việc đoàn kết toàn dân thành một lực lượng rộng
rãi, lấy liên minh công, nông làm động lực chính, là nhân tố quyết định cho thắng
lợi của cách mạng giải phóng dân tộc. Chỉ thị khẳng định: “Giai cấp vô sản lãnh
đạo cuộc các mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn
dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành
1

Năm 1986 Bộ Chính trị lấy ngày 18/11 hàng năm làm ngày kỷ niệm thành lập MTDTTNVN

14


công” [40; tr. 227]. Chỉ thị phê phán những nhận thức sai lầm trong Đảng là đã
tách rời vấn đề dân tộc và giai cấp, nhận thức không đúng về đoàn kết dân tộc, về
vai trò của Hội phản đế đồng minh trong cách mạng ở thuộc địa.
Tuy nội dung bản chỉ thị này phù hợp với tư tưởng đại đoàn kết được nêu
trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, song quan điểm và chủ trương đúng
đắn về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, về đại đoàn kết dân tộc vẫn chưa trở
thành tư tưởng chủ đạo của BCHTƯĐ lúc đó, Hội phản đế đồng minh Đông
Dương chưa được thành lập trong thực tế, song chủ trương đó cho thấy ngay từ khi
Đảng ra đời đã chú trọng đến việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong
MTDTTN. Chủ trương đúng đắn đó của Đảng trong các giai đoạn cách mạng sau

này, đã được hiện thực hóa với các tên gọi khác nhau cho công cuộc giải phóng
dân tộc.
Trong những năm 1936 – 1939, chủ nghĩa phát xít xuất hiện, nguy có một
cuộc chiến tranh thế giới đang đến gần. Ở Đông Dương, thực dân Pháp tăng cường
đàn áp, bóc lột và bóp ngẹt các quyền tự do dân chủ. Trước tình hình đó, tháng
7/1936, Hội nghị Trung ương Đảng nhận định: hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam là chống đế quốc và phong kiến là đúng đắn và không thay đổi.
Tuy nhiên, muc tiêu trực tiếp trước mắt của cách mạng Đông Dương lúc này là đấu
tranh chống bọn phản động thuộc địa đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Để
thực hiện mục tiêu đó, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế
Đông Dương (năm 1938 đổi thành Mặt trận dân chủ Đông Dương). Mặt trận bao
gồm các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, các đoàn thể chính trị và các tôn
giáo, tín ngưỡng khác nhau đoàn kết đấu tranh đòi những quyền dân chủ, dân sinh.
Mặt trận dân chủ thực chất là một hình thức của mặt trận phản đế rộng rãi
đấu tranh cho mục tiêu trước mắt là dân sinh, dân chủ, là một “giải pháp” đúng đắn
để chuẩn bị điều kiện cho cuộc vận động giải phóng dân tộc.
Tháng 9/1939, cuộc Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, phát xít Nhật xâm lược
Đông Dương (1940), Nhật – Pháp câu kết với nhau thống trị nhân dân Đông Dương, đẩy
nhân dân các dân tộc Đông Dương rơi vào tình cảnh “một cổ hai tròng”, mâu thuẫn dân
tộc ngày càng sâu sắc, đòi hỏi cần phải giải quyết. Vì vậy, Hội nghị lần thứ 8 của

15


BCHTƯĐ (5/1941) do Hồ Chí Minh chủ trì khẳng định: “Trong lúc này nếu không
giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn
thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”
[42; tr. 113]. Hội nghị quyết định thay đổi chiến lược, nêu cao ngọn cờ giải phóng
dân tộc. Để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Đảng chỉ rõ:

“Phải tập trung cho được lực lượng cách mạng toàn cõi Đông Dương,
không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư sản bản xứ, ai có
lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn
lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc, đánh tan giặc Pháp
– Nhật xâm chiếm nước ta. Sự liên minh tất cả lực lượng của các giai cấp,
đảng phái, các nhóm cách mạng cứu nước, các tôn giáo, các dân tộc kháng
Nhật, đó là công việc cốt yếu của Đảng ta” [42; tr. 112-113].

Về vấn đề MTDTTN, Hội nghị vạch rõ sách lược của Đảng ta là: “Phải vận
dụng một phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao đánh thức được tinh
thần dân tộc xưa nay trong nhân dân (hơn hết là dân tộc Việt Nam)” [42; tr. 122].
Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 19/5/1941 Mặt trận Việt Minh chính
thức được thành lập. Nêu cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, Tuyên ngôn của Mặt
trận Việt Minh khẳng định: “Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng
bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn
giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh
tồn”. Và “coi quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy, Việt Minh sẵn sàng giơ tay đón
tiếp những cá nhân hay đoàn thể, không cú theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia,
miễn thành thực muốn đánh đuổi Nhật, Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do
và độc lập” [42; tr. 461,470]. Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh cốt
thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào Việt Nam đang mong muốn:
1.

Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập;

2.

Làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng sung sướng, tự do.

Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh sau đúc kết thành 10 chính sách

lớn được Đại hội quốc dân Tân Trào thông qua và trở thành chính sách cơ bản của nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà sau này. Đánh giá về Mặt trận Việt Minh và Chương trình

16


cứu nước của Mặt trận, Hồ Chí Minh viết: “Cái tên Việt Nam độc lập đồng minh rất rõ
rệt, thiết thực và hợp với nguyện vọng toàn dân. Thêm vào đó, chương trình giản đơn,
thiết thực mà đầy đủ của Mặt trận gồm có 10 điểm như bài ca tuyên truyền đã kể:

Có mười chính sách bày ra,
Một là ích quốc, hai là lợi dân” [135; tr. 158].
Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh là cơ sở quan trọng để Đảng đoàn kết,
tập hợp mọi lực lượng dân tộc. Trên cơ sở chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng về mặt
trận, Việt Minh đã nhanh chóng phát triển rộng rãi khắp trong cả nước. Các đoàn thể Cứu
quốc phát triển rộng lớn trong công nhân, nông dân, thợ thủ công, thanh niên, học sinh, sinh
viên, rồi đến công chức, tiểu thương, tiểu chủ. Không ít những nhà tư sản, địa chủ yêu nước
đã có cảm tình, ủng hộ và tham gia hoạt động Mặt trận Việt Minh. Nhiều nhà tu hành cũng
tham gia Mặt trận và nhiều nhà chùa đã trở thành cơ sở hoạt động bí mật của Đảng, của Mặt
trận. Trong hàng ngũ binh lính địch có những binh sĩ yêu nước đã bí mật tham gia tổ chức
Cứu quốc, hoặc có quan hệ với Mặt trận... Mặt trận Việt Minh không chỉ phát triển rộng rãi
trong cả nước mà còn có nhiều cơ sở trong Việt kiều ở nước ngoài, như Hội giải phóng Việt
Nam ở Vân Nam, tập hợp những Việt kiều yêu nước, không phân biệt xu hướng chính trị, tín
ngưỡng nhằm đánh Nhật, đuổi Pháp, đòi Việt Nam độc lập. Hội giải phóng Việt Nam được
coi là một bộ phận của Mặt trận Việt Minh.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thông qua Mặt trận Việt Minh, phong trào đấu
tranh của công nhân, nông dân, học sinh tiểu thương phát triển rộng rãi. Trong khi đó,
tình hình thế giới cũng có sự chuyển biến tích cực. Chiến thắng Xtalingrát và chiến
thắng Cuốcxcơ đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Trước sự chuyển biến của thời cuộc, tháng 2/1943, Ban Thường vụ trung ương
Đảng họp ở Võng La (Đông Anh, Hà Nội) để bàn về việc mở rộng MTDTTN và xúc tiến
chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị nhận định: Hiện nay ở Đông Dương thiếu một
phong trào cách mạng quốc gia tư sản và phong trào thanh niên học sinh. Do đó, cuộc
cách mạng ở Đông Dương vẫn hẹp hòi, có tính cách công nông hơn là tính cách toàn dân
tộc. Hội nghị đề ra chủ trương mở rộng hơn nữa Mặt trận Việt Minh, liên minh với tất cả
các đảng phái, các nhóm yêu nước ở trong và ngoài nước chưa gia nhập Mặt

17


trận Việt Minh, đẩy mạnh công tác vận động công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên
phụ nữ, tư sản, địa chủ yêu nước, các dân tộc thiểu số, Hoa kiều, lập ra Hội Văn hoá cứu
quốc ở thành phố nhằm đoàn kết các văn nghệ sĩ, trí thức tham gia cách mạng.

Từ sau Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng năm 1943, Mặt trận Việt Minh
không ngừng lớn mạnh, khối đại đoàn toàn dân được củng cố và tăng cường, tập hợp
được mọi lực lượng dân tộc. Cùng với đoàn kết công nhân, nông dân, Mặt trận Việt
Minh còn ra sức đoàn kết, tập hợp các tầng lớp khác. Năm 1943, Hội Văn hoá cứu
quốc Việt Nam được thành lập đã tập hợp được đông đảo văn nghệ sĩ, trí thức yêu
nước tham gia công cuộc đấu tranh giành chính quyền. Với sự giúp đỡ tích cực của
Đảng Cộng sản, những trí thức yêu nước đã thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam
(6/1944), một thành viên tích cực của Mặt trận Việt Minh. Đảng Dân chủ Việt Nam ra
đời đã “thu hút những thanh niên trí thức và công chức Việt Nam, và làm mau tan rã
hàng ngũ bọn Đại Việt thân Nhật” [135; tr. 158]. Sự ra đời của Đảng Dân chủ Việt
Nam cũng như việc thành lập Hội Văn hoá cứu quốc đã “góp phần phá âm mưu chia
rẽ, lối kéo trí thức của Pháp – Nhật và tay sai, giúp trí thức chọn đường cứu quốc, đem
trí tuệ và tài năng của mình phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc” [21; tr. 205].

Có thể nói, chủ trương đoàn kết của Mặt trận Việt Minh, dưới sự lãnh đạo

của Đảng đã góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị lực lượng cách mạng và
chuyển cách mạng sang thời kỳ mới. Thời kỳ Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ II bước vào giai đoạn kết thúc. Ở Đông
Dương, ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp và Pháp đã đầu hàng nhanh chóng. Ngày
12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta”. Chỉ thị xác định kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt của nhân
dân Đông Dương sau cuộc đảo chính là phát xít Nhật. Cùng với việc xác định kẻ thù
chính, Chỉ thị cũng nhấn mạnh phải mở rộng cơ sở của Mặt trận Việt Minh, nhằm đoàn
kết, tập hợp mợi lực lượng nhân dân vào cao trào kháng Nhật cứu nước. Trong lúc này,
việc mở rộng MTDTTN, thực hiện chính sách đại đoàn kết, phân hoá hàng ngũ kẻ thù,
tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ càng trở nên cấp thiết. Ngày 12/4/1945, Mặt trận
Việt Minh ra lời kêu gọi Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị quan chức ái quốc Việt Nam
và Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị huynh thứ ái quốc. Những văn kiện này đẩy nhanh

18


quá trình phân hoá và tranh thủ một bộ phận quan lại ngụy quyền vào lúc cách
mạng bùng nổ.
Với mục đích đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng dân tộc vào sự nghiệp đấu
tranh giành chính quyền, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương đã
nhấn mạnh đến việc phải đẩy mạnh công tác vận động quần chúng công nhân,
nông dân, binh lính, thanh niên, phụ nữ, tư sản, địa chủ, công chức, đồng bào theo
đạo, các đảng phái... Nghị quyết cũng nhấn mạnh đến việc thi hành 10 chính sách
lớn của Mặt trận Việt Minh, coi đó là những mục tiêu cơ bản và trước mắt của toàn
Đảng, toàn dân.
Đầu năm 1945, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc,
thắng lợi nghiêng về phe đồng minh. Cao trào kháng Nhật cứu nước phát triển mạnh mẽ,
rộng lớn chưa từng thấy, đã thúc đẩy tình thế cách mạng chín muồi. Lúc này, đa số lực
lượng trung gian đã ngả về phía cách mạng. Rất nhiều người làm việc trong bộ máy chính

quyền tay sai của địch hoang mang, dao động, có những người giữ thái độ trung lập, hoặc
có cảm tình, ủng hộ Mặt trận; một số quan lại, kể cả một vài vị quan cao cấp cũng bí mật
liên hệ với Mặt trận. Khi thời cơ đến, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận
mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho
ta” [132; tr. 554]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh đã phát động toàn thể
nhân dân vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước đưa Cách mạng tháng
Tám giành thắng lợi. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của đường lối tập
hợp lực lượng, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc trong MTDTTN của Đảng, trong đó
Mặt trận Việt Minh là một sáng tạo lớn của Đảng.

Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước VNDCCH ra đời, bên cạnh
những thuận lợi, nhà nước non trẻ phải đối mặt với vô vàn những khó khăn. Chưa
bao giờ trên đất nước ta lại có nhiều thù trong, giặc ngoài đến vậy. Hơn 20 vạn
quân Tưởng vào miền Bắc; 2,5 vạn quân Anh, Ấn vào miền Nam với danh nghĩa là
quân “Đồng minh” để giải giáp quân đội Nhật, nhưng thực chất là để tiêu diệt
Đảng, phá tan Việt Minh và lật đổ chính quyền cách mạng. Bên cạnh đó, các tổ
chức phản động, tay sai đế quốc, các lực lượng chống Cộng, chống Việt Minh như
Việt Nam Quốc dân Đảng do Vũ Hồng Khanh cầm đầu, Việt Nam Cách mạng

19


Đồng minh hội do Nguyễn Hải Thần làm Hội trưởng… nổi lên chống phá cách
mạng nước ta, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Bên cạnh đó, những khó khăn
về kinh tế, tài chính, văn hóa – xã hội đã đặt chính quyền cách mạng non trẻ ở thế
“ngàn cân treo sợi tóc”.
Trong bối cảnh đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng
Đông Dương vẫn là cách mạng giải phóng dân tộc - “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc
trên hết”. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng sớm xác định phải củng cố và mở rộng
hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc, tạo nên sự đồng lòng, nhất trí cao độ, nhằm đưa

đất nước ta thoát khỏi tình thế hiểm nghèo, bảo vệ vững chắc thành quả của Cách
mạng tháng Tám.
Để mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc phục vụ công cuộc kháng
chiến, kiến quốc, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương: “Lập mặt trận dân
tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược. Mở rộng mặt trận Việt Minh cho nó
bao gồm mọi tầng lớp nhân dân” [43; tr. 26]. Thực hiện chủ trương đó, tháng
5/1946, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt) được
thành lập tại Hà Nội. Hội đã nhất trí cử cụ Huỳnh Thúc Kháng là Hội trưởng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh là Hội trưởng danh dự. Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam ra đời
với mục đích thu hút những người có tinh thần yêu nước và tồn tại bên cạnh Mặt
trận Việt Minh. Bản Tuyên ngôn, Cương lĩnh và điều lệ của Hội Liên hiệp Quốc
dân Việt Nam xác định mục đích: Đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước và đồng
bào yêu nước vô đảng phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị,
chủng tộc để làm cho nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, phú cường.
Tuyên ngôn nhấn mạnh:
Trong giờ phút lịch sử tồn vong của quốc gia dân tộc, những mâu thuẫn
giữa các xu thế chính trị, các tôn giáo, các giai cấp, những sự chia rẽ vô lý
giữa các dân tộc đều phải được dàn xếp, xoá bỏ và nhường bước cho sự đại
đoàn kết rộng rãi, thành thực, vững chắc. Sự ra đời của Hội Liên hiệp quốc
dân Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng, làm cho “cuộc đại đoàn kết
ngày nay sẽ mang lại tự do chắc chắn cho dân tộc [43; tr. 71].

20


Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống tổ chức của các đoàn thể quần chúng
cũng được kiện toàn dần tới cấp cơ sở. Các tổ chức trong Mặt trận Việt Minh và
Liên Việt được mở rộng và tăng cường trong những điều kiện mới, sôi động và
rộng rãi hơn. Các tổ chức đoàn thể mới ra đời như Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam (7/1946), Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (10/1946), Đảng Xã hội Việt Nam

(7/1946)… đã làm cho khối đại đoàn kết dân tộc có thêm sức mạnh mới. Đây là
bước phát triển quan trọng trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Đảng. Khối
đại đoàn kết toàn dân được tăng cường, làm hậu thuẫn cho công cuộc “kháng
chiến, kiến quốc”, đưa nhà nước cách mạng non trẻ vượt qua khó khăn, thử thách.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh, Liên Việt tuyên truyền, tổ chức,
phát động các đoàn thể cứu quốc, các giai cấp, tầng lớp, các đảng phái, dân tộc, tôn giáo,
các cá nhân… có tinh thần yêu nước tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền
cách mạng. Công việc đầu tiên sau cách mạng thành công là xây dựng nền móng chế độ
mới (xây dựng, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân từ Trung ương đến cơ sở) đã nhận
sự ủng hộ của đông đảo nhân dân. Cuộc tổng Tuyển cử (6/1/1946) đã bầu ra 333 đại biểu
quốc hội. Quốc hội khoá I quy tụ các các giai tầng, các đảng phái khác nhau hoặc không
đảng phái, trong đó có nhiều người là những những nhân sĩ trí thức nổi tếng, có người là
tư sản, là chức sắc tôn giáo, là đại biểu các dân tộc ít người… trên toàn quốc.

Các phong trào “Tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”, “Nhường cơm xẻ
áo”, “Bình dân học vụ”, “Chống giặc dốt”, “Tuần lễ vàng”, “Quỹ độc lập”, xây
dựng đời sống mới, chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài… do Đảng
và Mặt trận Việt Minh, Liên Việt phát động thu hút được đông đảo mọi tầng lớp
nhân dân trong cả nước, cả Việt kiều ở Lào, Xiêm, Pháp tham gia sôi nổi và đạt
được kết quả to lớn, góp phần khắc phục được giặc đói, giặc dốt.
Trong bối cảnh thù trong, giặc ngoài câu kết với nhau nhằm lật đổ nhà nước
non ttrẻ, thủ tiêu thành quả cách mạng, để loại bớt kẻ thù, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân, Đảng kiên trì nguyên tắc “thêm bạn, bớt thù”. Đối với Tưởng,
Đảng chủ trương hoà hoãn với sách lược “Hoa - Việt thân thiện”, để tập trung mũi
nhọn vào kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược. Đối với Pháp ta chủ trương hoà
hoãn trên cơ sở độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế và giải quyết mọi

21



xung đột bằng con đường hoà bình. Nhưng thực dân Pháp ngoan cố hòng dùng vũ
lực áp đặt ách đô hộ lên đất nước ta một lần nữa.
Có thể nói, nước VNDCCH sau Cách mạng tháng Tám gặp muôn vàn khó
khăn, nhưng với chủ trương đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, khối đại
đoàn kết dân tộc không ngừng được củng cố, tăng cường, tạo ra sức mạnh to lớn
chống được giặc đói, giặc dốt, loại bớt được kẻ thù dân tộc, giữ vững được chính
quyền cách mạng và chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến lâu dài.
Việt Nam muốn hòa bình để xây dựng đất nước nên với Pháp ta đã nhân
nhượng khi ký Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, Tạm ước 14/9/1946… nhưng càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới với dã tâm muốn cướp nước ta một lần nữa. Vì
vậy, dân tộc Việt Nam quyết “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ” [133; tr. 480] và đã phải tiến hành cuộc
kháng chiến trong toàn quốc. Để đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp, Đảng đã đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực
cánh sinh. Trong đường lối đó, khối đại đoàn kết toàn dân trong MTDTTN là một
nhân tố quan trọng đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên
hiệp Quốc dân Việt Nam đã triển khai một loạt công tác tư tưởng, tổ chức, quân
sự, dân vận, kinh tế… động viên toàn thể nhân dân ta tham gia vào cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Công tác dân vận và hoạt động của Mặt trận
Việt Minh, Liên Việt được đẩy mạnh, nhằm động viên tinh thần đoàn kết, yêu
nước, đóng góp cho cuộc kháng chiến. Bên cạnh việc củng cố, phát triển các hình
thức, tổ chức đoàn kết các tầng lớp quần chúng cơ bản, việc tăng cường đoàn kết
các tôn giáo, các dân tộc thiểu số, các nhân sĩ, trí thức tầng lớp trên có vai trò rất
quan trọng. Tổ chức của Mặt trận Việt Minh trong vùng địch chiếm đóng, đặc biệt
là ở các đô thị đã có nhiều hình thức tập hợp nhân dân, phối hợp với lực lượng vũ
trang, tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu; đồng thời móc nối, giữ liên lạc với
các nhân sĩ, trí thức, các nhà tư sản, quan lại có tinh thần yêu nước, ủng hộ kháng
chiến. Ngoài ra, Đảng cũng chú trọng cố và phát huy vai trò của Đảng Dân chủ


22


Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam, tập hợp được đông đảo nhân sĩ trí thức tham gia
trường kỳ kháng chiến để tranh lấy thống nhất và độc lập cho Tổ quốc.
Để chống lại các cuộc tấn công của địch, Mặt trận Liên Việt hô hào, động
viên toàn dân tham gia cản địch, bộ đội thi đua lập công; giúp các thân sĩ, phú hào
tham gia kháng chiến (ủng hộ Chính phủ, giúp đỡ bộ đội, vũ trang dân quân, tổ
chức làng chiến đấu, tăng gia sản xuất…); giúp đỡ đồng bào tản cư, tuyên truyền
kháng chiến ở vùng địch chiếm đóng; phối hợp tổ chức đấu tranh công khai và bí
mật; phát triển tổ chức ở các vùng công giáo và các dân tộc…
Với những chủ trương, chính sách cụ thể, Đảng đã tập hợp được đông đảo
lực lượng trong Mặt trận Việt Minh, Liên Việt, tăng cường được thực lực mọi mặt
cho cuộc kháng chiến, đưa cuộc kháng chiến tiến lên giành được những thắng lợi
bước đầu quan trọng như Việt Bắc thu đông 1947, Biên giới 1950…đánh bại chiến
lược đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp.
Khi cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn mới, Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ II của Đảng (2/1951) nhấn mạnh: Trước yêu cầu, đòi hỏi mới của cuộc
kháng chiến, vấn đề củng cố khối đại đoàn kết dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh
đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào
công việc yêu nước, công việc kháng chiến” [135; tr. 172]. Đại hội chủ trương
thống nhất Mặt trận Việt Minh và Liên Việt, nhằm củng cố, mở rộng hơn nữa khối
đại đoàn kết toàn dân để chiến thắng kẻ thù. Từ ngày 3 đến 7/3/1951, tại xã Vinh
Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang, Đại hội thống nhất Việt Minh – Liên
Việt diễn ra trọng thể và thành công rực rỡ. Đây là một bước phát triển mới của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược.
Để củng cố khối đoàn kết ba nước trên bán đảo Đông Dương, ngày
11/3/1951, Hội nghị liên minh ba nước Đông Dương gồm đại biểu của Mặt trận

Liên Việt do Chủ tịch Tôn Đức Thắng làm trưởng đoàn, Mặt trận Lào Itsala do
Hoàng thân Chủ tịch Xuphanuvông làm trưởng đoàn, Mặt trận Khơme Issark do
Chủ tịch Sơn Ngọc Minh làm trưởng đoàn. Hội nghị đánh giá cao những thắng lợi

23


của nhân dân ba nước, khẳng định ý nghĩa quan trọng của sự đoàn kết hợp tác,
giúp đỡ lẫn nhau giữa ba dân tộc. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban Liên minh
nhân dân Việt – Miên – Lào gồm đại biểu của Mặt trận ba nước, nhằm tăng cường
đoàn kết và phát huy sức mạnh của khối đoàn kết ba dân tộc anh em, tiêu diệt thực
dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập thật sự cho ba dân tộc, góp
phần bảo vệ hòa bình thế giới.
Bên cạnh việc củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết trong nước, đoàn kết ba
nước Đông Dương, Đảng khẳng định phải tăng cường đoàn kết, tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ của nhân dân thế giới, đặc biệt là nhân dân tiến bộ Pháp, tạo ra sức
mạnh to lớn đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.
Ngay sau Cách mạng tháng Tám, nhất là khi cuộc kháng chiến bùng nổ, Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách để liên hệ với bên ngoài (qua Thái Lan,
Miến Điện, Ấn Độ), tranh thủ sự ủng hộ quốc tế. Ngày 1/10/1949, nước Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa ra đời. Ngày 18/1/1950, Trung Quốc chính thức công nhận và
đặt quan hệ ngoại giao với ta. Đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô
và Trung Quốc, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của nước bạn đối với cuộc kháng chiến của
ta. Tháng 9/1950, chiến thắng Biên giới đã nối liền cuộc kháng chiến của ta với hậu
phương của cách mạng thế giới. Liên Xô và các nước Đông Âu lần lượt công nhận và
thiết lập quan hệ ngoại giao với CPVNDCCH. Từ năm 1950, cuộc kháng chiến của
nhân dân ta đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ ngày càng lớn của các lực lượng tiến
bộ trên thế giới, của các nước XHCN anh em, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc.
Như vậy, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với chủ
trường, đường lối đúng đắn của Đảng, khối đại đoàn kết dân tộc không ngừng được

củng cố và tăng cường, tạo ra sức mạnh to lớn đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc 9 năm kháng
chiến trường kỳ, gian khổ nhưng vô cùng oanh liệt của nhân dân ta, giải phóng hoàn
toàn miền Bắc, lập lại hoà bình ở Đông Dương. Thắng lợi đó là kết quả tổng hợp của
nhiều nhân tố, nhưng trước hết đó là kết quả và biểu hiện cao độ sức mạnh vĩ đại của
khối đại đoàn kết dân tộc trong MTDTTN do Đảng lãnh đạo.

24


Thực tiễn quá trình tập hợp lực lượng xây dựng MTDTTN, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân, tạo ra sức mạnh dân tộc đưa Cách mạng tháng Tám đến thành
công, kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi, Đảng rút ra một số bài học kinh nghiệm
chủ yếu như: xác định đúng kẻ thù; giương cao ngọn cờ độc lập, tự do; giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ; thực hiện chính sách đại
đoàn kết dân tộc với cách hình thức tập hợp lực lượng phong phú, linh hoạt…

1.1.2. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc củng cố, phát triển miền Bắc;
đấu tranh chống Mỹ và chính quyền tay sai ở miền Nam (1954 – 1960)
Bối cảnh lịch sử
Sau Chiến tranh thế giới thứ II, đặc biệt là những năm đầu của thập kỷ 50
(thế kỷ XX), hệ thống CNXH được thành lập, nối liền từ châu Âu sang châu Á và
ngày càng lớn mạnh, trở thành hệ thống thế giới. Mặc dù phải gánh chịu hậu quả
nặng nề sau thế chiến II, nhưng Liên Xô và các nước Đông Âu đã nhanh chóng
xây dựng lại đất nước, khôi phục và phát triển nề kinh tế quốc dân với tốc độ khá
nhanh. “Về công nghiệp, phe xã hội chủ nghĩa chiếm hơn một phần ba tổng sản
lượng công nghiệp trên toàn thế giới. Về nông nghiệp, sản lượng lương thực của
phe xã hội chủ nghĩa đã chiếm trên 48% tổng sản lượng lương thực trên toàn thế
giới” [50; tr. 614]. Về khoa học kỹ thuật, quân sự và quốc phòng, hệ thống CNXH
có những bước tiến vượt bậc. Năm 1949, Liên Xô đã chế tạo thành công bom

nguyên tử, khiến ưu thế độc quyền bom nguyên tử của Mỹ bị phá vỡ. Ngay trong
năm đó, Liên Xô đã ra tuyên bố cấm sử dụng vũ khí nguyên tử một cách vô điều
kiện. Năm 1954, Liên Xô xây dựng nhà máy điện nguyên tử đầu tiên trên thế giới
và quyết định sử dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hoà bình. Các nước
Đông Âu và Trung Quốc sau khi giành được độc lập, cũng nhanh chóng hàn gắn
vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, đưa đất nước đi theo con đường CNXH.
Sự lớn mạnh của Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác trong hệ thống
XHCN là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của cách mạng thế giới, trở thành chỗ dựa
cho cách mạng Việt Nam.
Song vào những năm cuối thập kỷ 50 của thế kỷ XX, giữa các nước trong
hệ thống các nước XHCN xuất hiện những bất đồng nghiêm trọng về nhiều vấn đề
khác nhau, nhất là về quan điểm chính trị, về vị thế và ảnh hưởng quốc tế, về lợi

25


×