Tải bản đầy đủ (.docx) (269 trang)

Khảo sát các động từ tình thái trong tiếng việt luận án TS lý luận ngôn ngữ 5 04 08

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (879.58 KB, 269 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA
HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN 

BÙI TRỌNG NGOÃN

KHẢO SÁT CÁC ĐỘNG TỪ

TÌNH THÁI
TRONG TIẾNG VIỆT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2004


DANH MỤC CÁC BẢNG


Trang
Bảng 2.1.................................................................................................................................. 100
Bảng 2.2.................................................................................................................................. 102
Bảng 4.1.................................................................................................................................. 186

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

- (*A)
- (ĐT)
- (ĐTTT)
- (HVTL)
- (HY)
- (TGĐ)


- (TM)
- (VTTT)


MỤC LỤC


Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục những từ viết tắt
MỞ ĐẦU

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1

Khái niệm tình thái

1.2

Khái niệm ĐTTT và ĐTTT trong tiếng Việt

1.3

Các cách phân loại ĐTTT tiếng Việt theo hướ

Chương 2: BÌNH DIỆN KẾT HỌC CỦA ĐỘNG TỪ TÌNH THÁI
TIẾNG VIỆT


2.1

Ngữ đoạn vị từ và những thuộc tính ngữ ngh
động từ trong ngữ đoạn vị từ

2.2

Trung tâm của ngữ đoạn động từ có ĐTTT

2.3

Cấu trúc tham tố của ngữ đoạn ĐTTT

2.4

Thành tố phụ trước của ngữ đoạn ĐTTT

2.5

Thành tố phụ sau của ngữ đoạn ĐTTT

2.6

Vai trò của ĐTTT đối với sự đề bạt chủ ngữ


2.7

Tổng kết chương


Chương III: BÌNH DIỆN NGHĨA HỌC CỦA ĐTTT TIẾNG VIỆT
3.1 Đặc điểm ngữ nghĩa của lớp động từ tình thái nhận thức
3.2 Đặc điểm ngữ nghĩa của lớp động từ tình thái đạo nghĩa
3.3

Tổng kết chương

Chương IV: BÌNH DIỆN DỤNG HỌC CỦA ĐTTT TIẾNG VIỆT
4.1

Một số vấn đề chung

4.2

ĐTTT trong những phát ngôn có HVTL thu

4.3

ĐTTT trong những phát ngôn có HVTL thu

4.4

ĐTTT trong những phát ngôn có HVTL thu

4.5

ĐTTT trong những phát ngôn có HVTL thu

4.6


ĐTTT trong những phát ngôn có HVTL thu

4.7

Tổng kết chương

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài:
Trong những năm gần đây, các nhà ngôn ngữ học đã chuyển trọng tâ m
chú ý từ ngôn ngữ học cấu trúc sang ngôn ngữ học chức năng, quan tâm nhiều
hơn đến công năng của ngôn ngữ với tư cách là công cụ giao tiếp và những
bình diện làm nên nghĩa của câu. Khái niệm ngữ nghĩa của câu được mở rộng,
không chỉ bó hẹp ở nghĩa miêu tả (representative) mà còn là nghĩa tình thái
(modality), không chỉ quan tâm đến hiển ngôn mà còn cố gắng làm sáng tỏ
các cơ chế làm nảy sinh hàm ý, không chỉ quan tâm đến phát ngôn trần thuật
với giá trị chân nguỵ của nó mà còn quan tâm cả những phát ngôn có hiệu lực
tại lời khác...
Trong bối cảnh như vậy, các xu hướng ngữ pháp thiên về hình thức đã
bộc lộ một số nhược điểm không thể bỏ qua, đặc biệt ở năng lực giải thích của
chúng. Ngữ pháp chức năng, với tư cách là một khuynh hướng ngữ pháp thiên
về ngữ nghĩa, được hình thành đã phần nào khắc phục các nhược điểm của
ngữ pháp hình thức. Một trong những trọng tâm mà ngữ pháp chức năng hiện
đang theo đuổi là nghiên cứu tình thái của câu. Đã có những công trình nghiên

cứu chuyên sâu về tình thái (J. Lyons, F.R. Palmer, T. Givón) trong từng ngôn
ngữ cụ thể hay xuyên ngôn ngữ. Trong những phương tiện ngôn ngữ đánh dấu
tình thái thì các động từ tình thái (ĐTTT) (modal verbs) chiếm một vị trí rất
quan trọng, như nhận định của Louis Goosens, một trong những cộng sự của
nhà ngữ pháp chức năng Hà Lan S. Dik: "Tình thái, trong tất cả các phương
diện của nó, là một thành tố nội dung của ngôn ngữ và các ĐTTT là phương
thức quan trọng để biểu thị các đặc trưng khác nhau của tình thái trong hầu
hết các ngôn ngữ trên thế giới" (Goosens: "Tình thái và các động từ


2

tình thái: Một số vấn đề đặt ra đối với ngữ pháp chức năng", in trong A.M.
Bolkesteine, 1985, trang 203).


Việt Nam, các công trình dành cho tình thái rất ít, riêng về các

ĐTTT thì dường như chúng chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức. Chỉ
có lẻ tẻ một số bài báo sơ bộ khảo sát các động từ được, bị, phải đề cập đến
các ĐTTT như một trong những phương tiện biểu thị tình thái (Hoàng Tuệ,
[111]), một vài luận án khảo sát sâu một nhóm ĐTTT hoặc trong các chuyên
luận ngữ pháp, khi bàn đến các tiền giả định và hàm ý, một số ví dụ về các
ĐTTT được nêu ra minh họa (Cao Xuân Hạo, [45], [47]). Trong chuyên luận
"Động từ trong tiếng Việt", Nguyễn Kim Thản cũng chỉ mới phác qua vài
trang về nhóm ĐTTT và tiêu chí phân loại cũng như các đặc trưng ngữ nghĩa
chỉ được nêu hết sức sơ sài [89, tr.165-169]. Có thể thấy, những vấn đề sau
đây hoàn toàn chưa được nghiên cứu đúng với tầm quan trọng của chúng:
a)


Xác định các ĐTTT với tư cách là một tiểu lớp động từ (ĐT) cơ hữu

của tiếng Việt.
b)

Vai trò của các ĐTTT với tư cách là một loại phương tiện biểu thị

các nội dung tình thái của câu (tình thái khách quan/ tình thái chủ quan/ tình
thái nhận thức/ tình thái đạo nghĩa...).
c)

Tổ chức của các đoản ngữ có ĐTTT làm trung tâm cùng sự lí giải tổ

chức đó về phương diện ngữ nghĩa.
d)

Vai trò của ĐTTT trong tổ chức cấu trúc của câu (sự chế định của

các vị ngữ là ĐTTT đối với việc lựa chọn chủ ngữ trong câu, việc hiện thực
hóa các thành phần phụ khác).
e) Các kiểu hành vi ngôn ngữ mà các ĐTTT có thể tham gia biểu thị.
Chính vì vậy, chúng tôi đã chọn nghiên cứu những vấn đề nêu trên.


3

Chúng tôi nhận thấy rằng đây là một việc làm cần thiết đối với thực tiễn
nghiên cứu và giảng dạy Việt ngữ ở Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận án đặt cho mình nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề liên quan đến

ĐTTT. Đây là những vấn đề mang tính thời sự, đặc biệt trong bối cảnh ngày
càng có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến các bình diện ngữ dụng của câu
và đẩy mạnh các nghiên cứu theo hướng ngữ pháp - ngữ nghĩa. Cụ thể, luận
án sẽ tập trung vào các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
2.1. Xác định các ĐTTT trong tiếng Việt và các tiểu lớp của nó.
Theo ngữ pháp truyền thống, các phạm trù từ vựng ngữ pháp nói chung
và các ĐTTT nói riêng được phân xuất dựa theo những tiêu chí có tính
nguyên tắc chung (ý nghĩa ngữ pháp khái quát, các đặc điểm hình thái và cú
pháp). Tuy nhiên, luận án chọn cách tiếp cận của ngữ pháp - ngữ nghĩa. Theo
đó, các ĐTTT trong tiếng Việt cũng có những đặc trưng ngữ nghĩa chung với
các ĐTTT trong các ngôn ngữ khác, đó là:
"a. Động từ chính biểu thị sự khởi đầu, kết thúc, duy trì, thành công,
thất bại, cố gắng, ý định, nghĩa vụ hoặc khả năng đối với trạng thái hay sự
kiện được nêu ở bổ ngữ của nó.
b. Chủ thể của ĐTTT bắt buộc cũng phải là chủ thể của ngữ đoạn vị từ
làm bổ ngữ " [Givón .T, 123, tr.533].
Dựa trên đặc điểm ngữ nghĩa quan trọng này, có thể xác lập một danh
sách các ĐTTT tiếng Việt, phân biệt với các tiểu lớp ĐT khác gần gũi với nó
như các ĐT chỉ thái độ mệnh đề (tiếc, e, nghĩ, chắc, mừng, buồn...), các động
từ khiên động (bắt, khiến, sai, nhờ...). Các ĐTTT, cũng như các ĐT khác, có
ngữ trị riêng của mình.


4

Sau khi được xác định, các ĐTTT được phân ra thành các tiểu nhóm,
tiếp tục dựa vào các tiêu chí ngữ nghĩa như tiền giả định và hàm ý tình thái.
2.2. Phân tích các ĐTTT tiếng Việt theo các nội dung tình thái mà
chúng biểu thị: tình thái khách quan hay tình thái chủ quan, tình thái nhận
thức hay tình thái đạo nghĩa... cùng các hàm ý tình thái đi kèm.

2.3. Tổ chức của đoản ngữ có ĐTTT làm trung tâm. Luận án sẽ tập
trung vào các vấn đề:
a)

Các bổ ngữ của ĐTTT. Như đã biết, ĐTTT bao giờ cũng đòi hỏi một

ĐT khác làm bổ ngữ đi kèm. Các ĐT làm bổ ngữ này được ngữ pháp chức
năng phân thành các tiểu loại theo các tiêu chí chủ ý, động, có kết
thúc, trải nghiệm...
b)

Các tác tử tình thái (chẳng hạn, các hư từ về thời, thể) có thể tham

gia vào ngữ đoạn ĐTTT.
2.4. Vai trò của vị ngữ là ĐTTT trong cấu trúc của câu.
Luận án tập trung khảo sát sự chế định của vị ngữ ĐTTT đối với việc
đề bạt chủ ngữ.
2.5. Mối quan hệ tương liên giữa câu có vị ngữ là ĐTTTvới các kiểu
hành vi tại lời mà câu đó có thể thực hiện.
Vấn đề này nằm trong một khung miêu tả rộng hơn đó là sự chế định,
tác động qua lại giữa nội dung mệnh đề và khung tình thái của câu. Qua việc
khảo sát lực ngôn trung của các phát ngôn chứa ĐTTT, luận án hy vọng sẽ
góp phần làm sáng tỏ một vài khía cạnh của vấn đề.
3.

Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài:

Có thể xem đề tài chúng tôi là đề tài đầu tiên đi sâu tìm hiểu một cách



5

có hệ thống toàn bộ tiểu loại ĐTTT tiếng Việt, đồng thời chỉ ra các đặc điểm
ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng của lớp từ này trong sự so sánh với các tiểu
loại ĐT khác của tiếng Việt.
3.1. Về phương diện lý luận, luận án góp phần nghiên cứu bản chất và
đặc trưng của lớp ĐTTT tiếng Việt trên cả ba bình diện kết học, nghĩa học và
dụng học. Từ đó, luận án góp phần làm sáng tỏ hơn vai trò của các ĐTTT với
tư cách là một loại phương tiện biểu thị các nội dung tình thái của câu, vai trò
của động từ tình thái trong tổ chức cấu trúc của câu... Nói cách khác, luận án
góp phần dựng lên một bức tranh toàn cảnh về lớp ĐTTT tiếng Việt.
3.2. Về phương diện thực tiễn, kết quả của luận án sẽ góp thêm những
tư liệu xác đáng cho việc biên soạn một số giáo trình, tài liệu về ngôn ngữ
Việt có liên quan đến phạm vi đề tài; phần nào có ích cho các công trình
nghiên cứu đối chiếu lớp ĐTTT tiếng Việt với ĐTTT của các ngôn ngữ khác.
Luận án có thể xây dựng thành một chuyên đề riêng để giảng dạy cho sinh
viên khoa Ngữ văn. Luận án cũng có thể bổ sung những tri thức cần thiết cho
người Việt Nam cũng như người nước ngoài học tiếng Việt, giúp họ có thể sử
dụng đạt hiệu quả cao lớp từ này.
4. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu nghiên cứu:
4.1 Phương pháp nghiên cứu:
Luận án ưu tiên dùng phương pháp quy nạp, từ những quan sát tư liệu
mà đề xuất và lý giải vấn đề. Trong quá trình thu thập và xử lý tư liệu, một số
thủ pháp của ngữ pháp truyền thống và ngữ pháp chức năng đã được vận dụng
linh hoạt để làm nổi rõ và phát hiện bản chất của đối tượng. Đó là các thủ
pháp cải biến, thay thế, tỉnh lược, bổ sung, chêm xen... Định hướng của luận
án là định hướng của ngữ pháp ngữ nghĩa, vì vậy khi nêu mô hình hay miêu tả
các kết hợp hình thức, bao giờ luận án cũng cố gắng truy tìm những nguyên



6

nhân về ngữ nghĩa để giải thích chúng.
4.2. Tư liệu nghiên cứu:
Luận án thu thập tư liệu thuộc về tiếng Việt hiện đại. Cụ thể, tư liệu
trong luận án được thu thập từ các nguồn:
Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên - Nxb Giáo dục,
1997.
-

Những tác phẩm văn học Việt Nam và những bản dịch các tác phẩm

văn học nước ngoài, những văn bản báo chí tiếng Việt.
-

Những cuộc giao tiếp hội thoại được quan sát, ghi chép trực tiếp hàng

ngày cũng được dùng trong luận án này.
5. Bố cục của luận án:
Luận án gồm 214 trang, trong đó phần chính văn là 200 trang. Ngoài
phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 4 chương:
Chương I: Những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài.
Chương II: Bình diện kết học của động từ tình thái tiếng Việt.
Chương III: Bình diện nghĩa học của động từ tình thái tiếng Việt.
Chương IV: Bình diện dụng học của động từ tình thái tiếng Việt.


7

Chương I:


NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. KHÁI NIỆM TÌNH THÁI:

Khái niệm tình thái (modality, modalité) thường được các nhà ngôn ngữ
học dùng để chỉ những mối quan hệ của nội dung thông tin miêu tả trong phát
ngôn với hiện thực cũng như những quan điểm, thái độ, đánh giá của người
nói đối với nội dung miêu tả trong câu nói, với người nghe và với hoàn cảnh
giao tiếp. Như thế, nói một cách sơ lược nhất, phạm trù tình thái bao gồm hai
bình diện là mối quan hệ của người nói với nội dung phát ngôn và nội dung
phát ngôn với thực tế.
1.1.1. Tình thái trong quan niệm của lôgich học truyền thống:
Trong lôgich học, khái niệm tính tình thái gắn với sự phân loại các
phán đoán, các mệnh đề lôgich dựa trên những đặc trưng cơ bản giữa hai
thành phần chủ từ và vị từ, xét ở khía cạnh mức độ phù hợp của phán đoán
trong thực tế. Các phán đoán được chia thành ba nhóm lớn là khả năng, tất
yếu và hiện thực. Phán đoán khả năng phản ánh xác suất có mặt hay vắng mặt
của một đặc trưng nào đó ở đối tượng. Phán đoán tất yếu phản ánh những nội
dung nhận thức mà đặc trưng nêu ở vị từ có ở đối tượng trong mọi điều kiện,
mọi thế giới khả năng. Phán đoán hiện thực xác nhận sự có mặt hay vắng mặt
của đặc trưng nào đó ở đối tượng.
Như vậy khái niệm tình thái (hay modus) của lôgich có thể được xem là
tình thái khách quan chỉ nhằm vào một số kiểu quan hệ chung nhất của phán
đoán với hiện thực, xem đó như một đặc trưng nội tại của bản thân cấu trúc
chủ - vị từ lôgich, hoàn toàn trừu tượng hoá khỏi những nhân tố giao tiếp


8

(mục đích, nhu cầu, ý chí, thái độ, tình cảm, đánh giá của con người nói

chung và các chủ thể cụ thể nói riêng).
1.1.2. Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ học:
Trong những năm gần đây, khi ngữ pháp chức năng và dụng học trở
thành mối quan tâm của nhiều nhà ngôn ngữ học cũng là khi tính tình thái của
ngôn ngữ tự nhiên trở thành một đối tượng nghiên cứu hấp dẫn, vừa giúp họ lí
giải tường minh hơn những vấn đề tưởng chừng đã ổn định của ngữ pháp ngữ nghĩa truyền thống vừa mở ra được những hướng nghiên cứu có triển
vọng. Họ nhận thức được rằng không có một nội dung nhận thức và giao tiếp
nào lại có thể tách khỏi những nhân tố như mục đích, nhu cầu, thái độ, đánh
giá... của người nói đối với điều được nói ra xét trong quan hệ với hiện thực,
với đối tượng giao tiếp và các nhân tố khác của ngữ cảnh giao tiếp. Sự phong
phú và đa dạng của các nhân tố tình thái cũng là một nhân tố rất quan trọng để
phân biệt ngôn ngữ tự nhiên ở con người với hệ thống tín hiệu của động vật.
Sự quan tâm của giới nghiên cứu tới tính tình thái của ngôn ngữ tự
nhiên cũng dẫn đến một hệ quả là đối tượng này được xem xét một cách đa
diện và sự thừa nhận tính tình thái của ngôn ngữ tự nhiên vẫn còn là một vấn
đề cực kì phức tạp: "Hai chữ tình thái vẫn thường đi đôi với nhiều định kiến
sai lạc” [23, tr.66], “Không có phạm trù nào mà bản chất ngôn ngữ học và các
thành tố ý nghĩa bộ phận lại gây ra nhiều ý kiến khác biệt và đối lập nhau như
phạm trù tình thái" [V.Z. Panfilov, dẫn theo 38, tr.5].
Tuy nhiên, mọi người đều thừa nhận rằng tính tình thái của phát ngôn
thuộc bình diện ngữ pháp - ngữ nghĩa. Tình thái là một bộ phận nghĩa tất yếu
của mọi phát ngôn. Không thể có một câu nói không mang một tình thái nhất
định. (Tuy có những câu không dùng một từ nào có nghĩa tình thái như trường
hợp câu có tình thái hiện thực: “Hôm nay nghỉ học” chẳng hạn).


9

Một cách chung nhất, đưa ra một phát ngôn có nghĩa là thông tin về
một sự tình (sự thể). Trong cấu trúc nghĩa của phát ngôn có hai thành phần cơ

bản tương ứng với cách gọi của Bally là modus và dictum. Trong đó dictum là
bộ phận biểu hiện một nội dung sự tình ở dạng tiềm năng nào đó. Do đó,
dictum gắn với chức năng thông tin, chức năng miêu tả của ngôn ngữ. Modus
là bộ phận tình thái, thuộc bình diện tâm lí, thể hiện những nhân tố thuộc
phạm vi cảm xúc, ý chí, thái độ, sự đánh giá của người nói đối với điều được
nói ra, xét trong mối quan hệ với thực tế, với người đối thoại và với hoàn cảnh
giao tiếp. Bộ phận nghĩa tình thái tham gia vào quá trình thực tại hoá, biến nội
dung sự tình còn ở dạng tiềm năng thành phát ngôn hiện thực. Nó cho biết,
chẳng hạn, sự tình nêu ra trong phát ngôn là khả năng hay hiện thực, khẳng
định hay phủ định, mức độ cam kết của người nói đối với độ tin cậy của thông
tin đến đâu, đánh giá, tình cảm, mong muốn, ý đồ của người nói khi phát ngôn
là thế nào. Ví dụ, một sự tình là “lúc này tám giờ sáng”, người ta có thể thể
hiện những nội dung tình thái khác nhau:
(1) Lúc này là tám giờ sáng.
(2) Mới có tám giờ sáng thôi.
(3) Chỉ mới tám giờ sáng.
(4) Đã tám giờ sáng rồi à?
(5) Có phải bây giờ là tám giờ sáng không?
(6) Không phải tám giờ sáng đâu.
(7) Có lẽ tám giờ sáng rồi.
Trong phát ngôn (1), người nói thể hiện thông báo của anh ta như một sự
xác nhận, xác tín đối với người đối thoại về một sự tình coi là hiện thực. Trong
phát ngôn (2), người nói vừa thông báo lúc này là tám giờ sáng vừa cho


10

rằng thời điểm này là còn sớm so với thời điểm anh ta dự tính và thời điểm dự
tính ấy được anh ta coi là điểm mốc. Trong phát ngôn (3), người nói vừa
thông báo về thời điểm hiện thực vừa cho rằng thời điểm này sớm hơn thời

điểm mà anh ta nghĩ tới. (Hay sau khi ai đó vừa nói ra một phát ngôn đại loại
“Dễ đến tám giờ rồi đấy nhỉ?”). Tương tự, ta thấy trong phát ngôn (4) vừa có
thông tin miêu tả vừa có sự ngạc nhiên của người nói trước hiện thực. Trong
phát ngôn (5), người nói vừa đưa ra một giả định về hiện thực vừa yêu cầu
người nghe xác nhận về giả định đó... Sự đối lập giữa hai thành phần cơ bản
trong cấu trúc nghĩa của phát ngôn là một trong những đối lập cơ bản làm nên
cơ sở cho lí thuyết tình thái. Đồng thời, xuất phát từ sự nhấn mạnh vào khía
cạnh này hay khía cạnh khác mà các nhà ngôn ngữ học đã sử dụng những
cách gọi, những thuật ngữ khác nhau như: modus/dictum, tình thái/ngôn liệu,
tình thái/mệnh đề, tình thái/cơ sở mệnh đề, tình thái/propo. Sự khác biệt của
cách dùng những thuật ngữ này đã bộc lộ rõ rệt những nét khác nhau trong
quan niệm của các nhà ngôn ngữ học khi nghiên cứu về tình thái của ngôn
ngữ tự nhiên. Nếu theo Fillmore [121, tr.23] thì cấu trúc nghĩa của một câu
bao gồm hai thành phần chính: thành phần mệnh đề là tâp hợp những quan hệ
có tính phi thời (tenseless) giữa các động từ và các danh từ, phân biệt với
thành phần còn lại là tình thái, gồm các loại ý nghĩa liên quan đến toàn bộ câu
(the sentence - as - a - whole) như phủ định, thì, thức và thể. Quan niệm này
được thể hiện trong công thức: S = M + P (trong đó S là nghĩa của câu, M là
thành phần tình thái và P là thành phần mệnh đề).
Trong một chừng mực nhất định, có thể nói cách dùng cặp thuật ngữ
của Ch. Bally: tình thái/nội dung mệnh đề được nhiều người chấp nhận hơn
cả.
Theo Lê Đông và Nguyễn Văn Hiệp, hiểu theo nghĩa rộng nhất, khái
niệm tình thái trong ngôn ngữ học sẽ bao gồm những ý nghĩa sau:


11

(1)


Các ý nghĩa thể hiện mục đích phát ngôn của người nói hay theo lí

thuyết hành vi ngôn ngữ là kiểu mục đích tại lời mà người nói thực hiện (hỏi,
đề nghị, cho phép, ra lệnh, bác bỏ, khuyên răn, mời mọc, cảm ơn...).
(2)

Các ý nghĩa thể hiện sự đánh giá, thái độ, lập trường hay cảm xúc

của người nói đối với nội dung được thông báo: người nói đánh giá nội dung
thông báo về mức độ quan trọng, về độ tin cậy, xem đó là điều tích cực (mong
muốn, có lợi, tốt...) hay tiêu cực (không muốn, bất lợi, xấu...), bất ngờ - ngoài
sự chờ đợi hay bình thường, về tính hiện thực hay tính khả năng...
(3)

Các ý nghĩa thuộc sự đối lập giữa khẳng định và phủ định đối với

sự tồn tại của sự tình.
(4)

Những đặc trưng liên quan đến diễn tiến của sự tình, liên quan đến

khung vị từ và mối quan hệ được nói đến trong câu với vị từ (thời, thể hay các
ý
(5)

nghĩa được thể hiện bằng các vị từ tình thái).
Các ý nghĩa phản ánh các đặc trưng khác nhau của phát ngôn với

ngữ cảnh theo quan điểm của người nói. Chẳng hạn đặc tính siêu ngôn ngữ,
hỏi lại, sự đánh giá của người nói về mức độ hiểu biết của người nghe, thái độ

tình cảm của người nói đối với người nghe, sự đánh giá của người nói đối với
các quan điểm, các ý kiến khác nhau...
Cách hiểu tình thái theo nghĩa rộng như vậy được Bybee diễn tả là “tất
cả những gì mà người nói thực hiện cùng với toàn bộ nội dung mệnh đề” [Dẫn
theo 38, tr.11]. Tức là phạm trù tình thái bao gồm tất cả những phương diện
nội dung gắn với sự thực tại hoá câu, biến các nội dung mệnh đề ở dạng tiềm
năng trở thành các phát ngôn trong giao tiếp.
1.1.3. Phân biệt tình thái khách quan và tình thái chủ quan:
Lôgich học trong khi quan tâm đến giá trị đúng/sai của mệnh đề đã đề


12

cập đến tình thái khách quan. Trong lôgich học, người ta chia thành lôgich vị
từ và lôgich tình thái. Nếu xét theo lôgich vị từ thì “Nó đọc sách” có hai khả
năng là đúng hoặc sai (song trị), trong khi đó lôgich tình thái tìm đến những
khả năng khác nhau của nó (đa trị). So sánh các phát ngôn:
-

Có thể nó đọc sách.

-

Nó đã đọc sách.

-

Nó đang đọc sách.

-


Nó sẽ đọc sách.

Những tác tử tình thái đã khiến cho phát ngôn mang những khả năng ý
nghĩa khác nhau. Tình thái khách quan có ba tham số:
-

hiện thực / phi hiện thực

-

tất yếu / không tất yếu

-

có thể / không thể

Trong khi lôgich học chỉ quan tâm tình thái khách quan, trình bày sự
việc như nó vốn có và loại trừ vai trò của người nói, thì trong ngôn ngữ học
tình thái chủ quan lại được coi trọng đặc biệt. Đặc điểm quan trọng nhất để
phân biệt tình thái chủ quan và tình thái khách quan là vai trò của người nói
hay tính chủ quan của người nói về sự đánh giá, mức độ cam kết của người
nói với điều được nói ra. Tức là người nói không trình bày hiện thực như nó
vốn có mà trình bày theo lăng kính chủ quan của mình và theo những ý định
riêng của mình.
Tình thái chủ quan hay tình thái ngôn ngữ được chia thành hai phạm trù
là tình thái nhận thức và tình thái đạo nghĩa.
Tình thái nhận thức là tình thái về độ chân thực, độ cam kết đối với



13

chuẩn mực chân thực của điều được nói ra là tất yếu hay không tất yếu, có thể
hay không thể.
Xét về độ chân thực, trong tình thái nhận thức có ba phạm trù là:
-

Tình thái thực hữu (factive): Người nói cho rằng sự việc được nói đến

là hiện thực hay tất yếu hiện thực.
Ví dụ:

-

+ Nó đã đi.
+

Thể nào nó cũng đi.

+

Nó lấy chồng.

+

Nó nỡ bỏ chồng.

Tình thái phản thực hữu (contre - factive): Người nói cho rằng sự việc

nói đến là phi hiện thực hay tất yếu phi hiện thực.

Ví dụ:+ Nó không cho bạn cái chong chóng.

-

+

Hôm qua tôi đâu đến nhà cậu.

+

Giá mà ngày trước tôi thi vào đại học!

+

Nó toan chạy.

+

Nếu nó quí tôi nó đã đến đây.

Tình thái không thực hữu (non-factive): Còn gọi là tình thái chưa thực

hữu, người nói cho rằng sự việc nói đến có thể xảy ra trong một thế giới khả
năng nào đó.
Ví dụ:+ Tôi định mai đi Hà Nội.
+

Nếu trời không mưa tôi sẽ đi Non Nước.

Tình thái đạo nghĩa (deontic), còn gọi là tình thái ràng buộc, là những

tình thái xét theo những qui ước xã hội về đạo đức, luân lí, tập quán, phong


14

tục, với sự phân biệt: bắt buộc / không bắt buộc, được phép / không được
phép, cấm đoán / không cấm đoán, miễn trừ / không được miễn trừ.
Ví dụ:

+ Nó dám cãi bố mẹ.
+

Anh phải làm xong việc này trong ngày mai.

+

Nó nỡ bỏ người vợ hiền thục.

Có thể thấy câu khuyến lệnh có một sự liên quan chặt chẽ với tình thái
đạo nghĩa.
Ví dụ:

+ Đừng hút thuốc!
+

Chớ tắm chỗ nhiều gió!

+

Hãy nhập ngũ!


1.1.4. Phân biệt tình thái của hành động (hành vi) phát ngôn và tình
thái của lời phát ngôn:

Tình thái của hành động phát ngôn là đối tượng của lí thuyết hành vi
ngôn ngữ. Trong “How to do things with words" (1962), nhà triết học người
Anh J. L. Austin cho rằng nói là hành động, tương ứng với một câu nói là
những hành động nhằm tác động vào người nghe. Austin đã phân biệt hành vi
tạo lời (locutionary acts), hành vi mượn lời (perlocutionary acts) và hành vi
tại lời (illocutionary acts).
Sự khác biệt cơ bản giữa tình thái của hành động phát ngôn với tình
thái của lời phát ngôn đã được Cao Xuân Hạo nêu rõ trong “Tiếng Việt - Sơ
thảo ngữ pháp chức năng" (quyển I). Theo ông, tình thái của hành động phát
ngôn thuộc lĩnh vực dụng học, trong khi đó tình thái của lời phát ngôn (ông
gọi là tình thái tại lời) thuộc bình diện nghĩa học.
Tình thái của hành động phát ngôn phân biệt các lời nói về phương


15

diện mục tiêu và tác dụng trong giao tế, bao gồm sự phân biệt quen thuộc
giữa các loại câu trần thuật, câu hỏi, câu cầu khiến vốn là những sự phân biệt
được ngữ pháp hoá, cùng với những câu có giá trị ngôn trung được đánh dấu:
câu xác nhận, câu phản bác, câu ngôn hành.
Tình thái của lời phát ngôn thuộc nội dung được truyền đạt hay được
yêu cầu truyền đạt (trong câu trần thuật hay câu hỏi). Nó có liên quan đến thái
độ của người nói đối với điều mình nói ra, hoặc đến quan hệ giữa sở đề và sở
thuyết của mệnh đề.
Tình thái của lời phát ngôn trong câu trần thuật phân ra làm hai loại:
(1) tình thái của câu và (2) tình thái của cấu trúc vị ngữ hạt nhân.

Tình thái của câu nói phản ánh thái độ của người nói đối với điều mình
nói ra, cách người nói đánh giá tính hiện thực hay không hiện thực, giới hạn
của tính hiện thực (trong thời gian chẳng hạn - phạm trù thì), mức độ của tính
xác thực, của tính tất yếu (khách quan hay đạo lí), tính khả năng (vật chất hay
tinh thần), tính chất đáng mong muốn hay đáng tiếc, v.v... của điều được thông
báo.
Tình thái của cấu trúc vị ngữ hạt nhân phản ánh những dạng thức thể
hiện của hành động, quá trình, trạng thái hay tính chất do phần thuyết biểu thị
(kéo dài/không kéo dài, bắt đầu/kết thúc), v.v... thường được gọi là những đặc
trưng về thể.
Tình thái của câu có thể được biểu thị bằng những khởi ngữ như có lẽ,
tất nhiên, những cấu trúc chủ vị hay đề thuyết có “tôi” làm chủ thể của một vị
từ có nghĩa “nhận thức”, bằng trợ từ tình thái đặt trong hay ngoài ngữ đoạn vị
từ... [45, tr.50-51].
1.1.5 Các phương tiện ngôn ngữ biểu thị ý nghĩa tình thái


16

của phát ngôn
Tình thái trong phát ngôn được biểu thị bằng nhiều phương tiện khác
nhau. Palmer trong cuốn “Mood and Modality” (Thức và tình thái) [125] cho
rằng có ba phương tiện ngữ pháp biểu thị ý nghĩa tình thái là thức (mood),
động từ tình thái (modal verbs) và các tiểu từ (particles). Thức xa lạ với tiếng
Việt vì trong tiếng Việt không có phạm trù thức. Trong các ngôn ngữ Châu
Âu, người ta thường kể ra các thức như:
(1)

Thức trực chỉ (indicative) xác nhận điều cam kết của người nói đối


với điều nói ra là chân thực.
(2)

Thức mệnh lệnh (imperative) biểu thị mong muốn của người nói về

một hành động sẽ xảy ra trong tương lai.
(3)

Thức giả định (subjunctive) giả định và mong muốn một hành động

xảy ra trong một điều kiện nào đó. Thức giả định giống thức mệnh lệnh ở chỗ:
đều nói về tương lai, nếu mệnh lệnh muốn người nghe thực hiện hành động
thì thức giả định chỉ là mong muốn trong những điều kiện nào đó.
ĐTTT là những ĐT có một ĐT khác làm bổ ngữ mà cả hai ĐT này đều
có chung một chủ thể (subject). Trong tiếng Anh có những ĐTTT như: must,
may, can, ought (to), will, shall, và có thể kể cả need, dare (cùng với might,
could, would, should).
Có những tác giả Việt Nam coi các tiểu từ tình thái là phương tiện từ vựng
trong khi đó các nhà ngôn ngữ học châu Âu lại cho là phương tiện ngữ pháp.

Đối với tiếng Việt, “các phương tiện biểu hiện tính tình thái chưa được
nghiên cứu sâu và toàn diện” [75, tr.31]. Mặt khác, “trong các ngôn ngữ
không biến đổi hình thái như tiếng Việt, sự phân biệt các phương tiện từ vựng
và ngữ pháp trong việc biểu thị các nội dung tình thái không được đặt ra
nghiêm ngặt”[106, tr.221]. Có thể kể ra một số phương tiện ngôn ngữ biểu thị


17

nội dung tình thái trong tiếng Việt:


-

-

ngữ điệu,

-

cấu trúc câu,

các từ biểu thị tính tình thái như: động từ tình thái, động từ chỉ thái

độ mệnh đề, động từ ngữ vi, quán ngữ tình thái, tiêủ từ tình thái, thán từ, phó
từ tình thái...
Nếu có sự phân biệt phương tiện từ vựng và phương tiện ngữ pháp thì
ĐTTT tiếng Việt là phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái.
1.2. KHÁI NIỆM ĐỘNG TỪ TÌNH THÁI VÀ ĐỘNG TỪ TÌNH THÁI
TRONG
TIẾNG VIỆT:

1.2.1. Ý kiến của các nhà Việt ngữ học về ĐTTT:


những mức độ khác nhau và những cách nói khác nhau, riêng về

tiếng Việt, đã có những tác giả sau đây đề cập tới động từ tình thái: Lê Biên,
Diệp Quang Ban, Nguyễn Tài Cẩn, Đinh Văn Đức, Cao Xuân Hạo, Đinh
Thanh Huệ, Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Thị Quy... tiêu biểu là Nguyễn Kim
Thản, Diệp Quang Ban và Cao Xuân Hạo.

1.2.1.1. Trong Động từ trong tiếng Việt [89, tr.165-169], Nguyễn Kim
Thản đã nêu lên ba vấn đề về động từ tình thái. Theo ông, về phương diện
cú pháp, động từ tình thái có ba đặc điểm:
-

Thường không dùng một mình mà hay kết hợp với các động từ khác

làm vị ngữ trong câu.
-

Trong hoàn cảnh nhất định (hoàn cảnh ngôn ngữ rõ ràng) mới có thể

một mình tạo thành vị ngữ mà không cần động từ chính khác.
-

Về cơ bản có thể kết hợp với phó từ rất.


18

Theo Nguyễn Kim Thản, ý nghĩa khái quát của động từ tình thái là biểu
thị khả năng, sự cần thiết, ý chí thực hiện hoạt động hay duy trì trạng thái. Từ
đó, ông xác định các động từ tình thái sau: cần, chịu, có thể, dám, định, nên,
nỡ, buồn, chực, khỏi, toan...
Đồng thời, Nguyễn Kim Thản cũng đưa ra cách phân biệt động từ tình
thái với cụm động từ có hai động từ bằng phép cải biến.
Ví dụ:

Bên cạnh đó, ông cũng phân biệt ĐTTT với phó từ đứng trước trong
cụm động từ :

-

ĐTTT là một bộ phận không thể tách rời của vị ngữ, do đó kết cấu

“ĐTTT+ ĐT” có thể đặt vào giữa cặp phó từ "có... không" hay "đã... chưa".
Ví dụ:

-

+ có muốn ăn không?

+

đã muốn ăn chưa?

+

có muốn không?

+

đã muốn chưa?

Các phó từ không tham gia vào thành phần vị ngữ như một thành tố bắt

buộc nên kết cấu “phó từ + vị từ” không thể đặt vào giữa những cặp phó từ trên.

Ví dụ:

+ có đã ăn

không?

(-)

+ có cũng ăn không?

(-)

+ đã cũng nói
chưa?

(-)


19

Có thể nói tác giả Nguyễn Kim Thản đã chưa thấy hết vai trò của ĐTTT
đối với tình thái của khung vị từ và của phát ngôn do đó chưa có sự trình bày
một cách thấu đáo. Điều đáng nói là, theo ông, ĐTTT chỉ được coi là yếu tố
phụ của vị ngữ. Đồng thời các đặc điểm cú pháp của ĐTTT như Nguyễn Kim
Thản trình bày chưa bao trùm hết ĐTTT mà ông đưa ra.
1.2.1.2. Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt [6, tr.65-68], Diệp Quang
Ban cũng đã ít nhiều bàn về ĐTTT:
-

Khái niệm ĐTTT: ĐTTT là ĐT chỉ mối quan hệ của chủ thể nêu ở

chủ ngữ hoặc chủ thể nói với nội dung của từ đứng sau ĐTTT .
+


Phân chia ĐTTT theo ý nghĩa:

Nhóm (1) chỉ sự cần thiết và khả năng: cần, nên, phải, cần phải, có

thể, không thể...
+
Nhóm (2) chỉ ý chí, ý muốn: toan, định, dám, chịu, buồn, nỡ,
muốn,
mong, chúc...
+

Nhóm (3) chỉ sự "chịu đựng": bị, được, chịu, mắc, phải...

-

Về vai trò ngữ pháp, ĐTTT là ĐT không độc lập:

+
Trong điều kiện bình thường phải có một từ khác đi sau để bổ sung ý
nghĩa.

+

Không có ý nghĩa từ vựng đầy đủ.

Tuy nhiên, ĐTTT lại có thể làm thành tố chính trong cụm từ vì nó có
hai khả năng:
+

đứng liền trước danh từ


+

đứng liền trước cụm chủ vị

Diệp Quang Ban đã nêu lên một cách tường minh về ĐTTT theo quan
điểm ngữ pháp - ngữ nghĩa và đây là một trong những ý kiến gợi mở cho


20

chúng tôi tìm đến đề tài của luận án.
1.2.1.3. Về phạm trù tình thái và vị từ tình thái tiếng Việt, Cao Xuân
Hạo là người nghiên cứu kĩ lưỡng nhất. Những vấn đề này đã được ông nêu
lên trong các công trình sau:
+
Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng, tập 1, KHXH,
H.,1991.
+
+

Tiếng Việt lớp 12 (Ban KHXH) GD, H.,1995.

Tài liệu giáo khoa thí điểm Tiếng Việt lớp 12 - sách giáo viên - GD,

H., 1996.
Thuật ngữ “verb” được ông hiểu là vị từ và ông chủ trương không phân
biệt động từ, tính từ mà chỉ coi trong câu ngoài các tham tố là vị từ. Cao Xuân
Hạo đã cho biết có hơn 120 ĐTTT tiếng Việt giống nhau về ý nghĩa và đặc
trưng ngữ pháp.

Về nghĩa, các ĐTTT có chức năng tình thái hoá khung vị ngữ, nghĩa là
làm cho ngữ động từ của câu được dùng để phản ánh nội dung của sự tình có
được những ý nghĩa tình thái vốn nằm trong sự thể hay trong cách đánh giá của
người nói (tính hiện thực, tính khả năng, tính tất yếu, ý bình luận chủ quan...).

Về ngữ pháp, các ĐTTT đều được đặt ở một vị trí xác định: vị trí đầu
tiên của ngữ đoạn động từ, ngay trước ĐT biểu thị nội dung sự thể, vốn là bổ
ngữ trực tiếp chỉ đối tượng của ĐTTT .
Cương vị trung tâm mà ĐTTT đảm nhận có thể được chứng minh bằng
“trắc nghiệm Jakhontov” (bộ phận phụ của ngữ đoạn có thể được thay thế
bằng cụm từ nghi vấn mà bộ phận trung tâm không thể làm như vậy).
Với quan niệm ĐTTT như trên, những từ xưa nay được coi là phó từ
(tác tử tình thái) đứng trước động từ đều được Cao Xuân Hạo cho là ĐTTT.
Ví dụ: đã, đang, không, chưa, bèn, chỉ, ắt, càng, chả, cũng, cứ, vẫn, mới, lại,


21

hẵng... Ông giải thích rằng: “...nhiều khi những từ biểu đạt tình thái được liệt
vào loại hư từ, nghĩa là những từ công cụ, không có nghĩa từ vựng, mặc dầu
nghĩa của các từ tình thái nếu không muốn dùng các từ này phải được diễn đạt
bằng cả một câu hay một tiểu cú gồm nhiều thực từ" [45, tr.52].
"Trước đây có một số tác giả dùng tiêu chuẩn "độc lập/không độc lập"
để phân biệt thực từ và hư từ và cũng để xác định từ nào là trung tâm trong
ngữ đoạn: từ nào không thể lược bỏ thì từ ấy là trung tâm. Chính vì việc dùng
tiêu chuẩn này (...) mà hàng chục ĐT như: đã, đang, không, chưa, trót, bèn...
và hàng chục danh từ như: cái, con, tấm, bức... được coi là hư từ.
Vả lại tiêu chuẩn “độc lập / hạn chế” chưa bao giờ được vận dụng nhất
quán. Nếu lấy tiêu chuẩn “độc lập” làm đặc trưng của thực từ thì không và
chưa phải được coi là ĐT (tự mình làm thành một câu, một vị ngữ ) và là

trung tâm của vị ngữ. So sánh: * Chưa.

Nó chưa đi.

* Không.

Nó không đi.

* Có.

Nó có đi.

Nếu đã lấy tiêu chuẩn không độc lập làm đặc trưng của hư từ thì những
động từ như nai (bao giờ cũng đi với lưng), è (bao giờ cũng đi với cổ) là
những hư từ; còn những danh từ như giọt, phía, lần là những hư từ?..” [23,
tr.70].
Là người mở đầu và cổ vũ cho ngữ pháp chức năng ở Việt Nam, Cao
Xuân Hạo đã đề cập đến ĐTTT ở góc độ ngữ nghĩa: các đặc trưng ngữ nghĩa
của ĐTTT và các đặc trưng đó đã chi phối ĐT đi kèm như thế nào. Các nhận
xét của ông là những gợi mở quí báu cho những ai quan tâm nghiên cứu
ĐTTT tiếng Việt.
Tuy nhiên, việc mở rộng các ĐTTT sang các phó từ chỉ thời gian (đã,


×